LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 31.10.2014

 

Thử tưởng tượng:

Vào một ngày nọ, có kẻ bước vào nhà. Sau vài câu hỏi thăm bâng quơ, hắn ngồi xuống ghế và bắt đầu mở mồm ra. Mở mồm là lúc cần phải nói. Hắn nói những gì? Hắn đem bố hắn ra chửi.

Thái độ chủ nhà ứng xử ra sao?

Có người, thoạt nghe đã tống cổ hắn ra khỏi nhà. Mắng cho vài câu. Đừng bao giờ béng mảng đến đây nữa. Đóng sập cửa. Loại chủ nhà này có tư cách.

Có người, vỗ tay hoan hô, khuyến khích hắn chửi bố càng to nhiều người nghe càng tốt. Rồi đem những lời hắn chửi mách cho thiên hạ cùng biết. Loại chủ nhà này thuộc loại người gì?

Chừng non một tháng gì đó, tờ báo nọ ở trong nước có đăng bài chửi nhà văn Võ Phiến.

Ai chửi? Con trai Võ Phiến.

Nhân tình đến thế thì thôi. Sự đồi trụy nhân cách đã vượt qua giới hạn cho phép. Hầu hết các ý kiến trên cộng đồng mạng cho rằng, đây là trường hợp con “đấu tố” bố. Không bàn quan điểm chính trị của Võ Phiến. Chỉ nghĩ rằng, một khi đã dám lôi bố mình ra mắng công khai trên trường văn trận bút thì còn gì không dám làm? Kể cả giết người cũng là chuyện nhỏ.

Người Việt có nhiều thói hư tật xấu nhưng không cạn tàu ráo máng, qua sông đấm buồi vào sóng, ăn cháo đái bát đổ đốn đến thế.

Đọc sử, ta thấy rằng mầm mống hình thành “đấu tố” đã có từ xa xưa lắm rồi, ít ra từ đời nhà Trần. Thế nhưng, vua Trần biết gạt bỏ từ trứng nước.

Đại Việt sử ký toàn thư cho biết, sau khi đánh thắng giặc Nguyên Mông, quân Đại Việt tiến vào thành Thăng Long có thu được hồ sơ, giấy tờ của giặc để lại. Trong đó, có bản danh sách ghi đầy đủ tên tuổi những người đầu hàng, hợp tác với giặc trong thời gian toàn dân kháng chiến.

Có người tâu lên vua Trần phải xử lý nghiêm, lôi chúng ra, dòng họ chúng ra buộc tự sỉ vả nhau rồi trừng phạt một một trận cho biết đá biết vàng. Cũng là một hình thức “đấu tố” chứ gì?

May thay, vua Trần cho đốt sạch những thứ ấy để yên dân. Có an dân, mới tạo ra sức mạnh đoàn kết toàn dân. Có đoàn kết toàn dân, dân một lòng, không nghi kỵ mới đủ sức đánh đuổi giặc ngoại xâm.

Tầm nhìn sâu xa của một minh vương còn vang động đến ngàn đời sau.

Lại nữa, Hồ Quý Ly bị Trần Khát Chân ám sát nhưng thoát được. Từ đó, mối nghi kỵ, nghi ngờ lẫn nhau lan rộng cả nước, người cùng làng, cùng xã khi gặp nhau không dám nhìn, chứ đừng nói chào hỏi, chỉ đưa mắt rồi lẳng lặng việc ai nấy làm, đường ai nấy đi. Cả nước sống trong không khí ngột ngạt, không ai còn dám tin ai nữa, dẫu là ruột thịt.

May quá, Hồ Quý Ly không vì thế mà tiến hành những cuộc “đấu tố” lẫn nhau.

Vậy thử hỏi, chuyện đấu tố ở ta đã hình thành từ bao giờ?

Chiều thức dậy, nằm đọc 9,5 ký thơ đã nhận từ Hội Nhà văn TP.HCM, chuẩn bị cho cuộc họp xét giải và kết nạp hội viên mới vào cuối năm. Thời gian trôi qua nhanh. Thoáng chốc đã sắp Tết. Sáng nay, đồng nghiệp Lam Điền báo tin nhà thơ Kiên Giang qua đời lúc 6g30 phút; Hà Đình Nguyên bổ sung thêm, do đọc được trên báo cái tin một bé sơ sinh bị bỏ rơi ngoài đường, nhà thơ Kiên Giang đã gom chút tiền hưu, đón xe từ TP.Long Xuyên - nơi ông an dưỡng cuối đời, lên TP.HCM để giúp đỡ cho trường hợp này. Tuy nhiên, vừa tới nơi, chưa kịp thực hiện ý định thì ông bị đột quỵ vào xế trưa 28.10.2014. Có lẽ nên nhắc lại chi tiết này, có thời gian sẽ viết kỹ hơn, chính Nguyễn Bính là người dẫn dắt Kiên Giang đi vào con đường thơ. Thời đó, khoảng chừng năm 1947 lúc Nguyễn Bính tham gia kháng chiến ở Nam bộ. Bài thơ nổi tiếng nhất của Kiên Giang “Hoa trắng thôi cài trên áo tím”, đoạn cuối:

“Lạy Chúa con là người ngoại đạo

Nhưng tin có Chúa ngự trên trời

Trong lòng con, giữa màu hoa trắng

Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi !”

Trên tạp chí Văn Học in cuối năm 1969 tại Sài Gòn, Kiên Giang cho biết: “Mười mấy năm sau tôi sửa chữa bài thơ Hoa trắng thôi cài trên áo tím bên bờ hồ ở Bến Tre, tôi quên mất mình đã vô tình lấy một câu thơ chót trong bài thơ "12 giờ trưa" của Nguyễn Bính : 

Chuông ngọ từng hồi chuông ngọ đổ

Từng hồi chuông ngọ đổ chơi vơi

Con nghe chuông đổ rồi con khóc

Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi!”


thubut-kien-giang

Thủ bút nhà thơ Kiên Giang (1995)


Sự thành thật này đáng quý lắm. Bài thơ trên đi vào trí nhớ nhiều thế hệ bởi chuyện tình học trò Hoa trắng thôi cài trên áo tím còn gắn với hình ảnh tôn giáo. Những chi tiết xóm đạo, giáo đường, lời nguyện… khiến người đọc thương xót hơn vì đã làm nổi bật sự trong trẻo, tươi tắn của tình yêu mới lớn. Nếu bài thơ Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp tước bỏ:

Thẹn thùng em không nói:

"Nam mô A Di Đà!"

Chắc chắn cả bài thơ sẽ nhẹ đi rất nhiều. Nhẹ hều. Hình ảnh cô gái đi chùa Hương không thể đáng yêu như nhiều thế hệ đã yêu. Đọc một bài thơ hay cũng tựa như lúc đang ngóng đợi người tình, bỗng nghe từ xa xăm có bước chân quen bất ngờ bước đến.

Chiều rồi.

Anh T.N.V vừa nhắn tin qua nhà nhận bình rượu “ông uống bà khen”, cường dương bổ thận, nhất dạ lục giao sinh ngũ tử. Sở dĩ như thế, vì trước đây, y đã tặng anh bản photo quyển sách viết về Hội kín Nam kỳ của nhà nghiên cứu người Pháp, in năm 1929; quyển Truyện Phan Xích Long, in năm 1913.

Mà này, cơn cớ vì sao chiều này, mở đầu Nhật ký lại nhắc vụ Võ Phiến bị con “đấu tố”?

À, do sáng này đọc TT biết được thông tin: “Chiều 30.10, lãnh đạo UBND TP Hà Nội cùng các sở, ngành đã nghe Sở VH-TT&DL báo cáo nội dung bộ quy tắc ứng xử trong các cơ quan hành chính sự nghiệp, trường học, bệnh viện, doanh nghiệp, khu dân cư, nơi công cộng trên địa bàn TP Hà Nội. Theo ông Nguyễn Khắc Lợi - phó giám đốc Sở VH-TT&DL Hà Nội, việc xin ý kiến tập thể UBND TP, các sở, ngành là một bước trong quá trình hoàn thiện bộ quy tắc ứng xử: “Dự thảo quy tắc ứng xử vẫn đang trong quá trình tiếp thu các ý kiến đóng góp, thậm chí tiếp thu từng câu, từng chữ để chắt lọc ra những quy tắc ứng xử văn hóa nhất”.

Về chuyện này cũng trên TT, nhà văn, họa sĩ Đỗ Phấn có ý kiến: “Người Hà Nội coi cách ứng xử quay mặt đi là chính xác nhất. Phù hợp cho mọi tình huống. Bởi họ không còn được đông đảo người xung quanh ủng hộ và bảo vệ nữa”.

Đâu riêng gì Hà Nội, nơi nào không thế? Sống trong xã hội ngày càng văn minh, tại sao còn diễn ra cái trò khốn nạn con “đấu tố” bố? Hành động này hoàn toàn xa lạ với phép ứng xử, văn hóa người Việt. Vậy mà vẫn in chình ình trên mặt báo đấy chứ! Nhưng rồi thay vì có thái độ, người ta chọn "cách ứng xử quay mặt đi".

Tách khỏi ngữ cảnh Truyện Kiều, từ câu 1585 đến 1588, nếu liên tưởng đến trận đòn "đấu tố" khốc liệt do chính con trai đã giáng xuồng đầu::

Khen cho những chuyện dông dài,

Bướm ong lại đặt những lời nọ kia.

Thiếp dù bụng chẳng hay suy,

Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười!

Ấy là tâm sự của nhà văn Võ Phiến đó chăng?

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 29.10.2014

rung-tram-u-minh

Trở lại với câu chuyện văn bia. Để có tác phẩm đi vào người, tất nhiên tài năng là một yếu tố không thể thiếu, thậm chí được xếp hàng đầu. Tuy nhiên, rất cần đến yếu tố thôi thúc nội tâm, tự mình cảm thấy phải viết, nếu không sẽ ăn không ngon, ngủ không yên. Đêm ngày trằn trọc mãi. Vì thế phải viết. Thời chúa Uy vương Trịnh Giang (1729-1740) ra lệnh trong thành Thăng Long cấm đốt lửa ban đêm. Kẻ sĩ muốn viết phải thế nào? Sử không chép rõ, có điều chắc chắn do căm thù chiến tranh, lên án chiến tranh thông qua nỗi lòng người vợ có chồng ra sa trường:

Hồn tử sĩ ù ù gió thổi

Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi

nên Đặng Trần Côn phải viết. Bất chấp lệnh chúa đã ban, ông đào hầm, ngồi trong lòng đất chong đèn mà học, đọc, viết. Nhờ tài năng và kiên gan bền chí, chỉ trong thời gian ngắn, ông đã hoàn thành tác phẩm nổi tiếng Chinh phụ ngâm (dài 478 câu thơ) bằng chữ Hán. Viết là nhu cầu tự thân, dù có giàu tưởng tượng, hư cấu đến đâu cũng không ai dám nghĩ là lúc viết Chinh phụ ngâm trong đầu Đặng Trần Côn mơ tưởng đến… tiền thưởng.

Nói như thế, vì ngày nọ, cách đây chưa lâu, lúc ấy y cùng vài anh em làm Ban Giám khảo cuộc thi thơ quần chúng chủ đề Nông thôn đổi mới của Trung tâm Văn hóa TP.HCM. Lúc trò chuyện, anh bạn nọ - cán bộ Ban Tuyên giáo Thành ủy cho biết đôi chuyện “bếp núc” của cuộc thi Cuộc thi Văn bia “Truyền  thống cách mạng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định”. Anh kể, do giữ trọng trách đứng đầu một cơ quan thuộc Hội chuyên ngành tại TP.HCM nên ông nọ được cử vào Ban Giám khảo. Chuyện phân công này hợp lý quá, nhưng sau đó, nhìn thấy số tiền giải thưởng cao ngất, hơn thù lao của thành viên Ban Giám khảo gấp nhiều lần nên ông ta xin rút lui để… làm thí sinh dự thi! Nghe cứ tưởng như đùa. Chuyện này, tưởng “bí mật” ai ngờ sáng qua vào Hội dự ra mắt sách mới, một người bạn thơ cũng nhắc lại thông tin trên.

Nếu không phải viết như một đòi hỏi sáng tạo khốc liệt của người nghệ sĩ mà vì giải thưởng đặng lãnh số tiền kếch sù, liệu bạn đọc có tin những gì đã viết? Trong đám tang, dù những người khóc chuyên nghiệp có bù lu bù loa đến đâu nhưng cũng nhẹ hều, vô nghĩa trước giọt lệ của người ruột thịt khóc người đã khuất. Tiếng khóc ấy là máu lệ từ gan óc, chứ không hề khóc như một sự mưu sinh kiếm sống. Ở đây, chỉ nêu một trường hợp đó chứ không hề “quơ đũa cả nắm” rằng ai dự thi cũng vì chăm bẳm vào tiền thưởng.

- Ơ hay, cho tôi cho phản biện nhé?

- Cứ việc. Nào ai cấm cản gì đâu.

- Có những tác phẩm rõ ràng viết tham dự cuộc thi nào đó nhưng chất lượng vẫn tốt, vẫn được bạn đọc hoan nghênh kia mà?

- Vâng, viết tham dự cuộc thi nào thì cũng được, chẳng ai bắt bẻ gì. Viết vì động cơ kiếm tiền, vì kiếm danh cũng chẳng  sao, thậm chí còn đáng khen là khác. Sinh thời, văn hào Dostoivsky viết như ma đuổi vì nợ nần, bằng mọi giá phải có tiền, nhưng tác phẩm của ông là đỉnh cao. Văn hào Lev Tolstoy thuộc giới quý tộc, viết không vì tiền nhưng tác phầm của ông là đỉnh cao. Với văn hào Victor Hugo ngay từ lúc đi học ông đã từng có ý thức vì danh, bằng chứng một mình ông đã từng làm “tờ báo” chuyền tay bạn học cùng lớp đọc để những gì ông đã viết.

Nhưng viết văn bia, tế, cáo… ngoài tài năng, cảm hứng thì thể loại đó còn đòi hỏi cả yếu tố tâm linh nữa.

Bởi lẽ, làm nên tác phẩm văn bia, văn tế là từ chất liệu của thăng trầm lịch sử, từ công đức, số phận người đã xa mặt khuất mày.

Đừng quên, tính cách một dân tộc, truyền thống một dân tộc, nói khái quát là tinh hoa của một dân tộc không tự nhiên mà có. Mà hình thành trong cả quá trình dựng nước, giữ nước. Quá trình đó, với dân tộc Việt chỉ có thể gói gọn trong một chữ “đánh”. Đánh ngoại xâm, đánh lẫn nhau. Có lẽ bi kịch khốc liệt nhất của nồi da xáo thịt vẫn là thuở Thập nhị sứ quân, Trịnh - Nguyễn phân tranh rồi cuộc chiến gần đây. Giữa chốn sa trường đối mặt với hòn tên mũi đạn, có cái chết nhục, có cái chết vinh, có cái chết được tôn vinh, có cái chết bị dè bĩu, có cái chết oanh liệt, có cái chết oan khuất…

Kìa những kẻ bài binh bố trận

Đổi mình vào cướp ấn nguyên nhung

Gió mưa sấm sét đùng đùng

Phơi thây trăm họ nên công một người.

Khi thất thế tên rơi đạn lạc

Bãi sa trường thịt nát máu rơi

Mênh mông góc bể chân trời

Nắm xương vô chủ biết rơi chốn nào?

Trời thăm thẳm mưa gào gió thét

Khí âm huyền mờ mịt trước sau

Ngàn mây nội cỏ rầu rầu,

Nào đâu điếu tế, nào đâu chưng thường?

Vì thế, viết văn bia, văn tế chỉ có thể lấy cái Tâm ra mà viết. Tiền và Danh làm sao sánh nổi:

Mỗi người một nghiệp khác nhau

Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?

Nếu muốn kiếm tiền, kiếm danh thì múa bút ở thể loại nào cũng được. Rất đáng hoan nghênh miễn là viết được cái gì đó cho chính mình và cho bạn đọc. Nhưng viết văn bia, văn tế thì quyết không thể chỉ vì mục tiêu đó. Do đó, không phải ngẫu nhiên, một khi đã khắc bia đá lưu truyền đời sau có nguyên tắc bất di bất dịch không bao giờ ghi tên tác giả, chỉ đôi dòng khiêm tốn phía sau văn bia.

Đúng không nào?

Lại nghĩ, nếu Nguyễn Trãi không viết Văn bia Vĩnh Lăng ca ngợi công đức vua Lê Thái Tổ dưới thời vua Lê Thái Tôn, liệu sau này ông có còn cảm hứng để viết không? Vấn đề đặt ra ở đây, ngoài tài năng, cảm hứng còn là thời điểm nữa. “Thời Lê Thái Tôn ở ngôi là thời Nguyễn Trãi đắc chí nhất, được trọng dụng nhất” (Nguyễn Trãi toàn tập - Viện Sử học, NXB KHXH 1976, tr.17). Sau thời điểm đó, với những oan khuất bầm dập thì dẫu cũng tài năng đó, cảm hứng đó chắc chắn Nguyễn Trãi không thể hạ bút viết câu cú, suy nghĩ thâm sâu như Văn bia Vĩnh Lăng lưu ngàn đời sau mà ta đã biết.

Do đó, nghĩ rằng, nếu Cuộc thi Văn bia “Truyền  thống cách mạng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định” được phát động ngay sau ngày Thống nhất đất nước kết quả sẽ khác, tất nhiên. Làm sao có thể quay lại những ngày tươi đẹp ấy? Còn nhớ ngay sau Giải phóng Đà Nẵng, đi trên nẻo đường nào cũng thấy những tờ truyền đơn hả hê sung sướng trao tận tay, người người hào sảng đọc lên mà cậu bé 15 tuổi thuở ấy là y vẫn còn nhớ như in:

Ôi, nỗi mừng dâng mọi nỗi mừng

Trào vui nước mắt cứ rưng rưng

Cả Việt Nam tiến công, cả miền Nam nổi dậy

Dồn dập tim ta, trăm trận thắng bừng bừng.

Ngày ấy, chắc chắn ai ai cũng tự thấy rằng: “Cách mạng là ngày hội của quần chúng”. Vì thế, những thơ, những văn, những tác phẩm văn học ra đời trong thời điểm ấy hấp dẫn người đọc một phần còn do tâm thế giữa người viết và người đọc song hành. Được như thế, bởi tình cảm xã hội, hiện thực xã hội đã cho họ có chung một cái nhìn. Nhưng rồi, thời điểm này, thế nào? Từ đó, có câu hỏi: Có phải tất cả những gì đã sáng tác thời điểm ấy, nay nhìn lại ai ai cũng hài lòng? Há chẳng phải có nhiều người người lặng lẽ và không nói gì đó sao? Do đó, một khi giữa truyền thống đến hiện thực đời sống đã có một khoảng cách thì chưa chắc người nghệ sĩ đã sáng tác đúng những gì đúng như họ đã nghĩ trong đầu. Ừ, cứ cho là họ đã viết đúng như mình đã nghĩ, liệu quần chúng có chấp nhận hay không lại là chuyện khác nữa. Lịch sử không bao giờ tồn tại chữ “nếu”. Thành ngữ Pháp có câu cực hay: “Với chữ “nếu” người ta có thể nhét cả Paris vào trong một cái lọ”. Mà thôi, để tránh hiểu nhầm, xin nhắc lại quan điểm của y vẫn như đã phát biểu trong Nhật ký 28.10.2014: “Biết là thế, nhưng cuộc thi này mở ra cũng rất cần thiết vậy".

Sáng, viết đến đây. Nghĩ trưa. Đọc tờ báo Xa lộ Pháp luật (Ấn phẩm của báo Pháp luật Việt Nam) số ra 158 ngày thứ Tư 29.10.2014, chú ý đến bài Lãnh đạo TP.HCM đánh giá Tệ nạn ma túy trên đường phố: “Chưa bao giờ kinh khủng như hiện nay”. Trong đó có đoạn bất ngờ quá (nguyên văn): “Tệ nạn nghiện ma túy, vô tư chích hút từ khu trung tâm cho đến các con hẻm được lãnh đạo TP HCM đánh giá là rất nguy hiểm. Dù rất sốt ruột, song chính quyền không thể làm gì bởi vướng thủ tục. Không chỉ người dân hoảng loạn mà ngay cả Chủ tịch UBND thành phố Lê Hoàng Quân cũng bất an khi đối diện với người nghiện. “Hôm đó tôi xuống quận 2 làm việc, ngay chỗ cây cầu sắt. Thấy một anh người thì xăm trổ, tay cầm ống tiêm ngồi trên cầu tôi cũng hoảng, không dám bước xuống xe", ông Quân cho biết tại cuộc họp với các sở ngành, quận huyện”. Cuối bài cho biết đăng lại theo vnepress.net. Kiểm chứng lại, bài báo trên chính là bài Hoảng loạn vì người nghiện ở Sài Gòn - post lúc Thứ hai, 27/10/2014 | 10:53 GMT+7 ngày Thứ Hai 27.10.2014 của tác giả Kiến Tường - Trung Sơn.

Có lẽ, nhà báo bịa ra chi tiết kỳ quặt trên chăng? Làm gì lại có chuyện trái khoáy đến thế?

Chiều vào cơ quan họp. Nhận qua bưu điện tờ báo Văn Nghệ, tạp chí Thơ của Hội Nhà văn Việt Nam gửi tặng hội viên. Lâu nay, nhiều tờ báo chuyên ngành văn hóa nghệ thuật đã vắng bóng trên sạp bóng. Họp xong, đi lang thang một vòng xuống khu bán sách cũ trên đường Trần Nhân Tôn. Đi giết thời gian. Đi mua sách cũ là mua lấy một kỷ niệm đã cũ. Vậy thôi. Phát hiện ra một điều, sách cũ trước năm 1975 còn lại nhiều nhất ở đây vẫn là các loại sách tôn giáo, kinh kệ, truyền đạo. Có lẽ do “ấn tống” nên đã in với số lượng nhiều? hay do không mấy ai sưu tập nên vẫn còn đó? Mà loại sách này, thời nào cũng cần...

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 28.10.2014


son-dau-Le-Minh-Quc
Tranh sơn dầu Lê Minh Quốc

Sáng dậy sớm, đọc lại Hồi ký Bà Tùng Long do NXB Hội Nhà văn vừa tái bản. Viết bài đọc sách. Viết rằng: Nhà văn Bà Tùng Long là một hiện tượng độc đáo của văn học miền Nam, từ thập niên 1940. Có lẽ chưa có một nhà văn nữ nào suốt đời cầm bút chỉ viết đề tài duy nhất: hôn nhân gia đình. Sức viết ấy ghê gớm, cho đến cuối đời, bà đã viết trên một ngàn truyện ngắn và chừng sáu chục cuốn tiểu thuyết đã một thời độc giả say đắm.

Không còn nghi ngờ gì nữa, Bà Tùng Long còn là nhà báo tiên phong mở chuyên mục mà nay vẫn còn nhiều báo thực hiện: Từ năm 1953, báo Sài Gòn mới có mục Gỡ rối tơ lòng; năm 1962, báo Tiếng vang có mục Tâm tình cởi mở đều do bà khởi xướng và phụ trách. Những chuyên mục này na ná Nhỏ to tâm sự, Vườn hồng, Tổng đài tư vấn Thanh Tâm… của báo chí ngày nay. Công việc trên chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu giải đáp, chia sẻ nỗi lòng bạn đọc thôi sao? Không, nó còn là chất liệu của văn chương. Trước đây, nhà báo Lê Phương Chi đặt câu hỏi vì sao cùng một lúc, bà có thể viết feuilleton cho nhiều báo? Bà Tùng Long trả lời: “Với những điều mắt thấy tai nghe, tôi còn chắt lọc thêm qua những câu chuyện tâm tình của bạn đọc”; và qua hai chuyên mục kể trên “đó là hai nguồn cung ứng tài nguyên cho đề tài và chất liệu trong tác phẩm của tôi”.

Do đó, các tiểu thuyết như Bóng người xưa, Nàng dâu mẹ chồng, Đời con gái, Nẻo về tình yêu, Vợ lớn vợ bé… một thời được nữ giới “gối đầu giường” bởi họ tìm được các tình tiết, tâm lý nhân vật gần gũi đời thường.  Sau năm 1975, một loạt tác phẩm của bà tái bản, thì ra, dù thời nào đi nữa tiếng nói bình đẳng, bênh vực quyền lợi vẫn là câu chuyện thời sự.

Đã đọc nhiều hồi ký của các cây bút nữ, tôi nhận ra rằng, bao giờ, họ cũng dành nhiều trang viết về mối tình đầu. Điều này khác với nhà văn nam giới. Có phải do tấm lòng thủy chung, ước mơ vun vén hạnh phúc cho chồng con nên kỷ niệm đầu đời đối với họ luôn là điều khó quên chăng?

Bạn đọc sẽ tủm tỉm cười khi đọc những dòng đắn đo, e thẹn của nữ sĩ lúc ngoài 80 xuân kể lại chuyện tình. Bà Tùng Long cho biết “cái thuở ban đầu lưu lưu luyến ấy” vẫn những đoạn khó viết nhất. Cuối cùng, bà tâm sự: “Lúc nào tôi cũng xem anh như một người thầy, một người anh, một người bạn, một người chồng. Đó là mối tình đầu tiên và cuối cùng của tôi”. Những dòng chân thành, cảm động này, Bà Tùng Long viết về nhà thơ, nhà báo Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy. Kết quả của mối tình ấy, đã là sự tiếp tục của một thế hệ viết văn sau này.

Ngoài ra với Hồi ký Bà Tùng Long, bạn đọc còn được tiếp cận với bối cảnh xã hội, không khí văn chương miền Nam mà sinh thời, lúc viết Tựa tập sách này, ông Trần Bạch Đằng rất tâm đắc vì “giúp cho chúng ta hình dung được chừng nào hoàn cảnh đất nước mình”. Có thêm một điều thú vị, dù nổi danh được các danh tài đương thời ca ngợi nhưng bà chỉ khiêm tốn tự nhận: “Tôi là nhà giáo, tôi viết văn để nuôi con”. Dù không “tuyên ngôn” gì to tát nhưng sự bền bĩ đeo đuổi một đề tài xuyên suốt đã cho thấy ý thức, trách nhiệm của một người cầm bút đã sống trọn một đời với tâm niệm: “Viết là niềm vui muôn thuở của tôi”.

Viết đến đó. Chưa kịp ngưng gõ phím đã nghe điện thoại tèng téng teng. Phải hối hả đến Hội Nhà văn TP.HCM, lầu 4, tham dự ra mắt sách mới của người bạn. Vẫn biết thế. Mọi việc là thế thế. Nhưng rồi vẫn đi. Anh bạn chỉ mới quen, điện thoại mời nhiều lần. Nể nang. Rồi đi. Cũng chừng ấy khuôn mặt. Cũng khung cảnh đó. Cũng kiểu cách đó. Cũng lời chúc mừng đó. Mỗi lần vào đó, quay về lại buồn. Mỗi lần quay về lại hỏi, chúng ta, những người cầm bút đang đứng ở đâu trong cuộc sống nhiều biến động, thay da đổi thịt từng ngày? Những va chạm. Những dằn vặt. Những số phận cùng đinh. Những tiếng kêu oan khuất sau cánh cửa đã khép. Những lo toan cơm áo thường ngày. Những vấn đề bức thiết ấy, hầu như ở bên ngoài trang viết. Văn chương chữ nghĩa liệu có còn đóng góp một chút gì cho tâm hồn người đọc? Liệu có còn là tiếng nói đồng hành cùng người đọc? Ngoài một vài nhà văn có sách in số lượng vài chục ngàn bản, còn lại chỉ in vài ngàn là cùng. Cả nước có gần trăm triệu người nhưng tác phẩm mới chỉ in số lượng cỏn con vẫn không bán hết. Vì sao? Có ai sống được bằng nghề cầm bút không?

Sáng nay, từ lan can của Hội Nhà văn nhìn xuống đường Trần Quốc Thảo thấy nắng đẹp quá. Ngày xanh quá. Dòng đời rộn rã. Bừng lên sức sống. Và cứ thế nhịp ngày lao đi. Trong khi đó, các nhà văn ngồi đây, nói với nhau những gì? Và viết cho bạn đọc những gì? Viết gì về cuộc đời, về cõi nhân sinh? Anh bạn ra sách mới, tâm sự hồn nhiên, đại ý, mỗi lần muốn in gì cứ việc bảo con cái. Chúng xuất tiền cho ngay, không chất vấn một câu. Được thế sướng quá. Giây lát sau nhà thơ nọ phát biểu, trường hợp của chị lại khác. Muốn có tiền đi làm từ thiện, con cái cho ngay, thậm chí còn khuyến khích; thế nhưng, khi chị xin tiền in thơ thì chúng cương quyết không. Nhất quyết không. Tuyệt đối không. Một xu cũng không. Cơn cớ làm sao lớp trẻ ngày nay lại ghét thơ đến thế?

Lúc rời khỏi Hội, lấy xe chạy về cơ quan làm việc, em T, nhân viên của Hội cho biết là đã chuyển các tập thơ dự thi giải thưởng và xin vào Hội năm nay sang báo PN. Vậy à? Đã gần cuối năm rồi ư? Lại những cuộc họp bình chọn, nhận xét, công bố kết quả. Cuối cùng, cuộc chơi ấy, người dân tất bật mưu sinh cơm áo gạo tiền có biết đến, ừ cứ cho là biết đến nhưng rồi, có ai  thèm quan tâm đến không?

Năm nay, về lãnh vực thơ: có cả thảy 21 tác giả gửi tác phẩm dự xét giải; có 26 tác giả xin vào Hội, danh sách tồn đọng của năm ngoái còn 8 tác giả nữa. Các tác giả này đều gửi kèm tác phẩm thơ cho các thành viên Hội đồng thơ. Có người gửi 1 tập, có người gửi vài ba tập. Y đem các tập thơ về nhà, đặt lên bàn cân thấy nặng đúng… 9,5 ký! Sẽ đọc hết chừng này? Nhọc nhằn thay. Chưa hết, sáng nay, một vài anh em làm thơ lại tặng  y những tập thơ vừa in nữa. “Nhớ đọc, Q nhé”. Lời dặn dò chân tình, sao lại nghe bùi ngùi quá đỗi. Đã từ lâu lắm rồi, in thơ rồi tặng cho nhau, chứ có phát hành được đâu! Chẳng còn có tiệm sách nào nhận phát hành thơ, dù ký gửi họ cũng không màng. Không khí thơ ảm đạm quá. Tình yêu thơ tiêu điều quá. Dù biết thế, các nhà thơ vẫn không nản chí. Vẫn dũng cảm oanh liệt. Vẫn bền lòng kiêu hãnh. Vẫn ngày đêm vung tay múa bút với câu chữ như đang nhắm mắt đi trong cõi mơ siêu thoát khỏi cuộc đời. Đáng yêu thay. Ái ngại thay. Mà thôi, mỗi người có quyền chọn cho mình một niềm vui, một lẽ sống miễn là cuộc chơi ấy không phiền lòng đến vợ con, bạn bè, hàng xóm là được.

Sáng nay, báo SGGP đã công bố văn bản 3 tác phẩm đoạt giải cao nhất của Cuộc thi Văn bia “Truyền  thống cách mạng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định”. Đó là tác phẩm của Anh hùng Lao động Vũ Khiêu, nhà thơ Dương Trọng Dật và Lê Quang Trang. Với 3 tác phẩm này, Ban Tổ chức lấy ý kiến đóng góp rộng rãi nhằm “góp phần hoàn thiện tác phẩm cả về nội dung và hình thức trước khi tạc dựng chính thức vào bia trong khuôn viên Khu Truyền thống cách mạng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định, tại huyện Củ Chi”. Nhận ý kiến đóng góp từ nay đến hết ngày 10.4.105. Phải cẩn trọng vậy thôi. Nghĩ rằng, dù hòa chung trong dòng chảy lịch sử nhưng đặc trưng vùng miền, tính cách con người Sài Gòn, hào khí Gia Định vẫn có những nét dị biệt. Đó là những yếu tố gì? Rồi sự kiện tiêu biểu nào của vùng đất này mà địa phương khác không có? Một điều dễ nhận ra, nếu thay đổi tên các nhân vật lịch sử (đã gắn bó với Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định); hoặc địa danh cụ thể thì các văn bia này sử dụng cho địa phương nào cũng hợp lý. Chỉ xin đơn cử đoạn kết:

Tám mươi tư năm nhìn lại (1930 - 2014)

Dân giàu nước mạnh, bao nhiêu công sức có ngày nay

Máu chảy đầu rơi, biết mấy gian nguy từ thuở nọ

Hồn Tổ quốc bốn mươi thế kỷ, linh thiêng một mảnh đất anh hùng

Đất phương Nam biết mấy trăm năm, lẫm liệt những người con ưu tú

Thành đồng Tổ quốc, lẫy lừng muôn dặm tại nơi đây

Đất thép Củ Chi, sừng sững ngàn thu là thế đó

Rạng tinh hoa Hồng Lạc Văn Lang

Vang bản lĩnh Sài Gòn Nam Bộ

(Vũ Khiêu)

Nghìn năm dân tộc

Nam quốc sơn hà

Sài Gòn - Gia Định

Rực rỡ tên vàng thành phố Hồ Chí Minh

Thời đại Hồ Chí Minh

Bi hùng khúc tráng ca

Tạc vào lòng người

Tạc vào đất trời

Lưu danh muôn thủa.

(Dương Trọng Dật)

Thời kỳ mới, đổi mới tư duy, lãnh đạo trăn trở tìm đường

Lúc khó khăn, khai thông lợi ích, nhân dân nhiệt tình sáng tạo.

Chung sức, chung lòng vì Thành phố văn minh, hiện đại

Năng động, nghĩa tình cho cuộc đời tươi đẹp, ấm no.

Truyền thống anh hùng thời đấu tranh giành độc lập, tự do

Bệ phóng niềm tin buổi dựng xây đời yên vui, hạnh phúc!

Nhớ quá khứ, tạc dạ bao tấm gương vì Dân, vì Nước.

Nhìn tương lai, ghi tâm những lòng son với Đảng, với Dân.

Vinh quang sáng mãi ngàn năm

Hào khí truyền cùng vạn thuở !

(Lê Quang Trang)

Thiện ý phát động cuộc thi Văn bia rất đáng hoan nghênh. Tuy nhiên, vẫn thấy khó quá. Chỉ bao giờ, người ta viết bởi sự thôi thúc nội tâm, không thể không viết chứ không phải viết vì giải thưởng thì mới may ra có được văn bia đạt tầm vóc như Ban Tổ chức mong mỏi. Xưa nay, các văn bia có thể viết ngay  sau một sự kiện nào đó vừa diễn ra; cũng có thể về sau mới viết nhưng dứt khoát viết từ tâm, vì còn có yếu tố tâm linh, chứ nào phải ngong ngóng chờ đến lúc có cuộc thi mới bắt đầu viết. Biết là thế, nhưng cuộc thi này mở ra cũng rất cần thiết vậy.

Những ngày này, có gì vui không Q? Chẳng có gì. Cũng thế. Ngày như mọi ngày. Nếu là "dân chơi không sợ mưa rơi" thì sáng mai phở bà Dậu nhé? Này, em có là "dân chơi" không em? HeheTongue out

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 27.10.2014

 

DSCN0576chon-anh-nayR


1. Bất  chấp tỉnh Hà Tĩnh đã có văn bản bác bỏ đề nghị xây dựng miếu thờ trong Khu kinh tế Vũng Áng nhưng tập đoàn Formosa Hà Tĩnh vẫn phớt lờ và tự ý xây dựng. Có báo đều la toáng vụ này. Chẳng rõ, cuối cùng miếu thờ này có phá bỏ? Trên trang mạng motthegio, đồng nghiệp Hà Văn Thịnh có cho biết một điều hầu như chưa thấy tờ báo nào nói đến:

“Trong Kinh Thánh (The Bible) có đoạn: “Cain nói với Abel. Vả, khi hai người đương ở ngoài đồng, thì Cain xông đến Abel em mình, và giết đi” (Sáng Thế Ký, 4.8). Nhiều ngàn năm đã trôi qua, không ít bậc thông thái đã cố giải mã một trong những điều bí ẩn lớn nhất trong lịch sử loài người, rằng Cain đã nói gì với Abel?

Dan Brown, tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng, trong đó có tiểu thuyết đã được dựng thành phim Thiên thần và Ác quỷ, lý giải rằng: Điều Cain đã nói liên quan đến ba vấn đề gây ra mâu thuẫn ngàn đời của con người, không bao giờ giải quyết rốt ráo được, đó là tranh chấp đất đai, tức quyền sở hữu; quyền tuyệt đối với ‘một nửa của mình’ (ardhanghi - từ được dùng cách đây nhiều ngàn năm để nói về vợ, trong Kinh Védas, Ấn Độ giáo) và, cái miếu thờ.

Dan Brown nhấn mạnh, cái miếu thờ là của tao, tao không thể chia sẻ cho mày được. Cái miếu thờ là văn hóa dân tộc, chủ quyền tinh thần -  bản sắc, thuộc tính không thể san nhượng, cầm cố; mà, nếu vi phạm, bất cứ dân tộc nào cũng có thể tự đánh mất chính mình.

…Không phải ngẫu nhiên mà năm 692, Abd Al Malic đã cho xây Đền Vòm Mỏm Đá ngay trên nền ngôi đền thờ Chúa Trời của cả đạo Do Thái và Công giáo. Các nhà sử học đều nhất trí rằng năm 692 là cột mốc đánh dấu sự ra đời của đế quốc Hồi giáo - Ả rập tại vùng Jerusalem”.

2. Số phận Thương xá Tax - xây dựng từ năm 1880 tại Sài Gòn, được báo chí đề cập đến nhiều trong thời gian gần đây. Từ ngày 25.9.2014, nơi này ngừng hoạt động, một số hạng mục phụ cận đang được tháo dỡ để xây dựng thành một trung tâm thương mại hiện đại 40 tầng. Cảm động với thông tin này, cần ghi lại: “Nền cầu thang được khảm gốm Mosaic, 4 chú gà trống, trái châu và lan can... là những hạng mục lâu đời còn lại của Thương xá Tax được Tổng lãnh sự quán Phần Lan tại TP HCM đề xuất bảo tồn”. UBND TP HCM vừa có văn bản giao các cơ quan liên quan tham mưu đề xuất cụ thể việc bảo tồn một số hạng mục.

3. Đọc thông tin này, cứ tưởng như đang sống vào thời nghĩa quân Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng… hành quân lúc tác chiến đánh đuổi giặc Pháp: Khoảng 7 giờ 30 phút ngày 26.10.2014, ông Nguyễn Chua (SN 1960, ngụ thôn 6, xã Hòa Lễ, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk) tử nạn khi sử dụng cáp treo để qua sông Krông Ana (đoạn qua địa bàn thôn 6). Trước đó, khoảng 8 giờ ngày 15.8.2014, trong lúc đu dây cáp qua sông Krông Ana để đi làm rẫy, không may bánh ròng rọc chạy trên dây cáp bị trục trặc, dừng đột ngột làm bà Nguyễn Thị Thọ (SN 1962, ngụ xã Hòa Lễ, huyện Krông Bông) mất thăng bằng rơi xuống mép sông và... nhập viện.

4. Tương tự sau các Thông tư không khả thi như cấm người ngực lép lái xe, cấm bán rượu bia sau 11g đêm, cấm hàng rong trên vỉa hè..., ngày 1.0.2014, Bộ VH-TT&DL có Thông tư “Hướng dẫn đặt tên doanh nghiệp phù hợp với truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc”. Dư luận không đồng tình. Ở đây chỉ nhắc về câu chữ trong văn bản. Theo nhà ngôn ngữ học Nguyễn Đức Dân: “Thông tư này quá tùy tiện về khái niệm nên mơ hồ về từ ngữ. “Sử dụng tên đất nước, địa danh trong các thời kỳ bị xâm lược và tên những nhân vật trong lịch sử bị coi là phản chính nghĩa, kìm hãm sự tiến bộ” (điều 2.2) đều bị coi là vi phạm truyền thống lịch sử dân tộc. Có khái niệm “tên đất nước” không, hay chỉ là “tên nước”? Nếu muốn hiểu “tên đất nước” là tên những vùng đất thì sao còn thêm “địa danh”? (Báo TT 25.10.2014). Rõ ràng, văn bản cấp gia đôi khi cũng cẩu thả về ngữ nghĩa, câu cú.

5. Trong 3.254 câu thơ Kiều đã có đến 42 câu dùng chữ xuân như: Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai (câu 162), Giọt sương gieo nặng, cành xuân là đà (176), Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng (câu 1286)…; 9 câu có chữ xuân với ý nghĩa là cây xuân - có bộ mộc trong Hán tự - dùng chỉ tuổi già, cha già như: Cội xuân tuổi hạc càng cao (câu 673), Xuân huyên chợt tỉnh giấc nồng (câu 759) …; có 10 câu dùng chữ xuân đi với từ khác có ý nghĩa riêng biệt như chỉ người con gái đẹp: Cành xuân đã bẻ cho người chuyền tay (câu 1262), chỉ cảnh gia đình đoàn tụ, hạnh phúc như Vườn xuân một cửa để bia muôn đời (câu 3240)… ; thậm chí còn có đến 3 câu thi hào Nguyễn Du dùng đến hai chữ xuân như Lòng xuân phơi phới, chén xuân tàng tàng (câu 424), Hoa xuân đương nhụy, ngày xuân còn dài (1006), Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân (1294).

6. Chí sĩ yêu nước Nguyễn Thông, trước khi mất có ghi lại trong Di chúc: “Sách vở là gia truyền quý nhất, không được đem gửi người khác. Sau khi ta trăm tuổi mỗi khi gặp ngày giỗ thì lấy sách ra bày ở hai bên trên bàn thờ thay cho mâm cúng cơm”.

7. Trong vốn từ tiếng Việt có cụm từ ngộ nghĩnh, lạ tai, hài hước: “Oẳn tà rroằn”. Nếu không đọc truyện ngắn cùng tên, có lẽ chẳng ai biết nghĩ cụm từ này là gì. Trong truyện Oẳn tà rroằn, nhân vật Nguyệt chì chiết, đay nghiến người yêu tên Phong, dọa sẽ tự tử chết nếu chàng có ý định “quất mã truy phong”. Kịch tính của câu chuyện khiến người đọc hồi hộp thương cho Nguyệt, sợ cho Nguyệt trong lúc quẫn trí làm liều. Và đây là lúc Phong vào thăm con: “Té ra thằng bé con chàng nước da lại đen như cái cột nhà cháy. Vậy nó không phải là con Rồng cháu Tiên. Nó là “Oẳn tà rroằn” không biết chống gậy”!

Vậy “Oẳn tà rroằn” là gì? Người đọc cứ ngẫm nghĩ và tự cười một mình vậy.

8. Ông cố nội của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam là Tiến sĩ Nguyễn Tường Phổ, quê quán ở làng Cẩm Phô, Hội An. Theo nhà “Quảng Nam học” Nguyễn Văn Xuân, cụ Phổ có làm thơ trào phúng và trưng ra một bài thơ yết hậu. Tạm hiểu, thơ yết hậu gồm bốn câu, mà câu cuối chỉ có một chữ, một chữ nhưng phải thâu tóm được ý tứ chính của toàn bài. Sở trường thơ yết hậu và được nhiều người biết đến nhất trong văn học Việt Nam vẫn là Chiêu Lì Phạm Thái. Bài thơ Ngày xuân ngẫu hứng của Tiến sĩ Nguyễn Tường Phổ, nguyên văn như sau:

Ra chùa, uống rượu ăn thịt vịt

Hái mai không có, ngồi gốc mít

Ngó quanh, ngó quất không thấy ai:

                                                       Địt

Bài thơ không thanh tao nhưng đọc dứt câu nghe có âm thanh. Tư cách người làm thơ nằm ở câu “Ngó quanh, ngó quất không thấy ai”. Có lẽ, do ảnh hưởng gen di truyền trào phúng, Nhất Linh đôi lúc cũng cười cợt, hóm hỉnh. Giữa lúc phong trào Thơ mới đang nở rộ, “nhà nhà làm thơ, người người làm thơ”, có người làm bài thơ gửi đăng báo nhưng làm theo lối cũ:

Mặt bẩn sao chưa lau?

Con ra lấy cái thau

Đổ nước, mang khăn mặt:

                                        Mau!

Lập tức trên báo Phong hoá số 31, Nhất Linh bình luận: “Thơ như thế sao gọi là thơ được? Đó chỉ là mấy câu sai con mà có vần. Nó cũng như thơ con cóc mà thôi. Nhất Linh lại xin bắt chước làm bài thơ theo lối ấy:

Trông vào nồi, cơm hết

May còn miếng cháy giòn

Ăn với cá kho mặn:

                                Ngon!

(Lạc quan)

Tay tôi mụn ghẻ đầy

May sao gặp thuốc hay

Bôi được một tuần lễ:

                             Khỏi ngay!

(Mừng khỏi bệnh)"

Đọc lại bộ Ngày nay, ắt tìm nhiều thông tin hay. Tủ sách nhà y trước có lưu trữ vài chục số, đã tặng L.K.T cách đây chừng mươi năm.

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 25.10.2014

hinh-chup-Thai-Lan

 

1. Thông tin trên mạng depplus.vn cho biết Liên Hiệp quốc vừa công bố xếp hạng thứ tự "Quốc gia đáng sống". Theo đó, 10 đất nước đáng sống nhất trên thế giới bao gồm: 1. Ireland; 2. Phần Lan; 3. Thụy Điển; 4. Hà Lan; 5. New Zealand; 6. Thụy Sĩ; 7. Vương quốc Anh; 8. Na Uy; 9. Đan Mạch; 10. Bỉ. “Bảng xếp hạng "Quốc gia đáng sống" dùng để đo những đóng góp của mỗi quốc gia cho hành tinh và nhân loại. Có 7 phương diện được xét đến đó là "đóng góp về khoa học công nghệ, đóng góp về văn hóa, đóng góp vào hòa bình và an ninh thế giới, trật tự thế giới, bảo vệ môi trường hành tinh, đóng góp vào sự phồn vinh và bình đẳng của thế giới, đóng góp về y tế sức khỏe. từ văn hóa đến đóng góp để cái thiện hành tình và nâng cao sức khỏe cộng đồng".

Việt Nam đứng hạng thứ bao nhiêu? Xin thưa, Việt Nam đứng thứ 124/125 đất nước được khảo sát, chỉ đứng trên Lybia - đất nước bất ổn ở Trung Đông.


2. Thêm môt sự kính trọng Vũ Trọng Phụng là trong tiểu thuyết Trúng số độc đắc, ông đã ca ngợi bà Cả Mọc. Một nhà văn luôn căm thù, bất mãn với xã hội nhố nhăng, từng ném ra những câu văn hằn học như tát vào mặt giới thượng lưu hợm hĩnh, từng cất tiếng cười khinh bỉ, đau đời trước bao cảnh lố nhố lăng nhăng… nhưng khi viết về bà Cả Mọc, giọng văn của ông lại rất dịu dàng và bày tỏ lòng ngưỡng mộ chân thành. Bà Cả Mọc là ai? Là người đàn bà đức hạnh, lúc gần 80 tuổi đã lập Hội Tế sinh nuôi dạy trẻ mồ côi ở Hà Nội: “Chà! Ở cái xã hội này mà lại có được một người đáng kính trọng đến bậc này sao? Ở cái nước Nam khốn khổ, xấu xa này, mà lại có được một sự tốt đẹp thế này hay sao?”.

3.  Ai đầu tiên viết tiểu thuyết trinh thám? Đó là nhà văn Phạm Cao Củng - tác giả của các truyện Vết tay trên trần (1936), Chiếc tất nhuộm bùn (1938), Cái kho tàng nhà họ Đặng, Ba viên ngọc bích (1938), Người một mắt (1940), Kỳ Phát giết người (1941), Nhà sư thọt (1941), Đôi hoa tai của bà Chúa (1942), Đám cưới Kỳ Phát (1942)... Theo ông: “Sự thực, viết truyện trinh thám ở nước ta rất khó, vì dân ta vốn tính bình dị, ngay trong xã hội ít thấy xảy ra những vụ trộm hay án mạng khả dĩ có thể gọi là ly kỳ, bí mật. Phần lớn dân ta chưa hề trông thấy chính mắt một khẩu súng lục bao giờ, hiểu biết rất ít về cơ khí và hóa học, lại rất hiếm ai có được một chiếc xe hơi riêng của mình. Vì thế cho nên những vai chính trong truyện trinh thám Việt Nam chẳng thể mỗi lúc giơ được khẩu súng lục ra hay bắn nhau, không thể có được những nhà hầm có cơ quan bí mật hay luôn luôn nhảy lên xe hơi theo dõi quân gian như ở trong nhiều truyện trinh thám Âu Tây. Chính vì thế mà luôn luôn tôi chỉ ao ước viết được những truyện trinh thám mà việc rất có thể xảy ra được trong xã hội Việt Nam, và vai chính cần phải có được những tính cách hoàn toàn Việt Nam”.

Về giá trị tác phẩm của nhà văn Phạm Cao Cũng, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan - tác giả bộ Nhà văn hiện đại, đã nêu lên nhận xét tổng quát: “Trong các tiểu thuyết trinh thám của Thế Lữ, Bùi Huy Phồn và Phạm Cao Củng, chỉ có tiểu thuyết của Phạm Cao Củng là có phần đặc sắc hơn”.


4. Khi yêu, người phụ nữ đã yêu rất mãnh liệt và họ bất chấp những dị nghị không đáng. Có thể kể đến trường hợp Mai Đình nữ sĩ. Khoảng năm 1937, bà đến Quy Nhơn và nghe danh tiếng Hàn Mặc Tử. Nhiều lần bà muốn đến diện kiến, nhưng không dám. Nghe bạn bè kể, nhà thơ đã tặng bà tập thơ Gái quê. Việc làm của Hàn Mặc Tử đã khiến bà có cảm hứng làm được bài thơ Biết anh và gửi cho Quách Tấn nhờ chuyển Hàn Mặc Tử. Đọc xong, Hàn Mặc Tử đã tặng lại bài thơ Lưu luyến. Khi hay tin Hàn Mặc Tử bị bệnh nan y, bất chấp tất cả, bà đã đến ở nhà thi sĩ và chăm lo tất tần tật mọi việc vặt vãnh. Đã có lần bà ghen vì với Hàn Mặc Tử quá mê… trăng:

Hôm nay sáng tỏ cung Hằng

Khiến lòng em nhớ đêm rằm bên anh

Hãi hùng, em sợ trăng thanh

Vắng em, anh lại tự tình cùng trăng

Tình cảm của bà dành cho một tài năng lớn thật cảm động, đáng trân trọng. Bù lại, thế hệ hậu sinh khi nhắc đến Hàn Mặc Tử bên cạnh nhiều nhan sắc khác,không thể không nhắc đến Mai Đình nữ sĩ.

5. Một ngày của Xuân Diệu: Nhà thơ Hoàng Cát - người em kết nghĩa, học trò nhỏ về văn học của nhà thơ Xuân Diệu từ năm 1960. Sau đây là những thông tin thú vị của ông về thời gian làm việc của tác giả Gửi hương cho gió:

“Tuy là một người sống độc thân, không ai “quản lý”, đốc thúc, nhưng do lòng ham say làm việc trên bàn viết, nên Xuân Diệu thường xuyên có một lối sống rất ngăn nắp, gọn gàng và vô cùng tiết kiệm thì giờ. Ông có một chiếc đồng hồ báo thức nhỏ, hằng đêm khuya, trước khi đi ngủ, bao giờ ông cũng lên dây chuông. Thường thường, về mùa hè thì năm giờ, mùa đông thì năm rưỡi, đợt nào rét đậm thì sáu giờ kém mười lăm là chuông đồng hồ reo. Ông đặt đồng hồ sát ngay đầu giường ngủ. Hễ có chuông reo là ông vùng dậy ngay, không chần chừ.

Việc đầu tiên của Xuân Diệu sau khi ngủ dậy là tập thể dục. Ông tập tạ tay, tập Cốc Đại Phong, tập chạy chân đất suốt dọc đường Cột Cờ, lên bể bơi Ba Đình tắm và tập bơi. Thường ngày, sau bữa điểm tâm buổi sáng, cứ tám giờ là Xuân Diệu ngồi vào bàn viết. Ông làm việc một mạch cho đến mười một giờ mới nghỉ giải lao. Thường thường, sau bữa cơm trưa, Xuân Diệu nằm nghỉ nửa tiếng, đến một giờ. Mùa hè thì ông đặt quạt xa giường, để khỏi mát quá, gây ngủ sâu, khó dậy. Mùa đông, ông không đắp chăn, để khỏi ấm sinh ham ngủ. Ông ngủ vùi chập chờn như thế đến một giờ, hoặc một rưỡi chiều, chuông đồng hồ reo là dậy được ngay rửa mặt hoặc tắm qua loa, rồi ngồi vào bàn làm việc. Ông ngồi một mạch cho tới khi u già thổi cơm chiều mới nghỉ giải lao. Sau đó, ông lại lên phòng, bật đèn bàn, ngồi viết tiếp cho đến tận bữa ăn tối.

Ăn xong, nghỉ ngơi chừng một tiếng, bằng cách mang cái giường bạt hoặc cái ghế phô tơi ra nằm lặng lẽ một mình dưới gốc cây hoàng lan đại thụ phía trước cổng. Sau đó, ông lại ngồi vào bàn, làm việc mải mê đến mười giờ rưỡi, hoặc mười một giờ đêm. Đó là lịch trình làm việc theo thông lệ. Còn những lúc gặp bài vở các báo hoặc nhà xuất bản đặt gấp thì ông thường thức đến một hai giờ sáng, để đọc, tra cứu, viết. Tuy vậy, sáng hôm sau ông vẫn dậy sớm, không, ngủ “rốn” để bù chỗ thiếu ngủ tối hôm trước. Do làm việc ở một cường độ luôn luôn căng và cao như thế, nên Xuân Diệu thường bị đau đầu, đau thần kinh. Rất nhiều khi đang viết, ông phải rời bàn ít phút, ra nhúng đầu vào nước lã, hoặc dùng tạ tay đập đập vào sau đầu, vào hai bên vai, vào gáy khá mạnh. Những lúc như vậy ông thường một mình lầu bầu, thở dài: “Ấy chà chà!... ấy chà chà!...”.

Các buổi tối khuya, sau khi rời bàn viết và trước khi đi ngủ, ông thường tập thở, làm vài động tác thể dục nhẹ nhàng ở ngay trong phòng làm việc”.

6. Nhà thơ Tô Hà làm biên tập viên ở một tờ báo, hôm nọ ông nhận được bài thơ của tác giả nổi tiếng gửi đến. Trong đó có câu mà ông rất thích và  bảo với tác giả: "Cái câu: “Chiếc lá sen thơm cả tay cầm” theo mình là rất gợi. Lá sen xui người ta nhớ đến cốm vì người Hà Nội hay dùng lá sen gói cốm. Viết như thế này thì phải là người tinh tế lắm. Chao ôi! Cốm thơm, lá sen cũng thơm, hai mùi thơm ấy quyện vào tay mình thì thật tuyệt. Mình sẽ cho in ngay!".

Nhưng chờ mãi, chẳng thấy bài thơ này xuất hiện trên mặt báo! Tại sao? Nhà thơ Tô Hà kể với tác giả: "Tớ đưa lên, nhưng tay duyệt bài cuối cùng phê bên câu thơ của ông là: “Không khuyến khích làm cốm, có hại cho chính sách lương thực”. Nay mình xin trả lại ông bài thơ!".


7. Các nhà thơ vốn là người hay chữ, vì thế, khi họ khóc cũng... thành thơ! Năm 1971, nhà thơ Nguyễn Vỹ qua đời, nhà thơ Vũ Hoàng Chương có đến viếng và khóc bằng bài thơ tứ tuyệt Chuyến xe định mệnh:

Hàng cây xõa tóc chạy đâm nhào

Ngược với chiều xe, chúi mũi lao...

Trước mặt có gì nguy? Hẳn thế!

Không dừng lại được, biết làm sao!

Cái hay bài thơ này là đã diễn tả đúng hoàn cảnh ngặt nghèo của tác giả câu thơ “Nhà văn An Nam khổ như chó”. Nguyễn Vỹ mất trên đường từ Mỹ Tho về Sài Gòn, vì tai nạn giao thông!

8.  Trong một dịp vui, nhà thơ Đông Hồ làm bài thơ Đường luật, trong đó có hai câu ai cũng khen hay:

Chi có nhà vàng treo giá ngọc

Chút còn lông phượng đổi sừng lân

Muốn họa lại, cái khó nhất là ở chỗ chữ “lân”; đã thế, mỗi câu còn “trung đối” nữa như “nhà vàng” đối “giá ngọc”“lông phượng” đối “sừng lân”! Khó thế!  Nhà thơ Lãng Nhân - tác giả Chuyện vô lý, Giai thoại làng Nho, Chơi chữ... đã đối lại như sau:

Đã trót buổi xuân ngồi trốc cọp

Thôi thì dịp Tết múa đầu lân!

Nhà thơ Đông Hồ đã bình như sau: “Câu thơ này “trốc cọp” đối với “đầu lân”, đối thì cũng đối đó, nhưng mà ‘trốc” cũng có nghĩa là “đầu”. Lại với ý tác giả muốn nói “trót đã ngồi trên lưng cọp” nhưng vì “lưng” là tiếng bình thất niêm nên phải đem tiếng “trốc” là tiếng trắc thay vào. Cho nên mới thành ra “ngồi trốc cọp”. Mà ngồi "tróc cọp" là ngồi thế nào nhỉ? Xét lại lúc làm thơ nhằm cuối năm Dần là thời gian sau cùng của năm cọp, thì chính nó là “ngồi đít cọp” mới là đúng. Lại thêm được đối với “múa đầu lân”! Và còn có một cái lợi nữa là khi đã cỡi lên rồi mà có muốn từ chỗ đó nhảy xuống nữa, cũng có đường nhảy xuống không sợ nguy hiểm!"

Nghe nhà thơ bình, không chỉ Lãng Nhân mà các bạn văn cũng đều cười xòa và khen sự tinh tế của Đông Hồ

9 . Ít người biết rằng, trước khi trở thành nhà văn hiện thực phê phán nổi tiếng, Nam Cao đã từng... làm thơ! Chẳng hạn, bài Lòng người của ông, ta thấy mang âm điệu thơ... Nguyễn Bính :

Lòng người là khói là hương

Hương bay bốn hướng khói vương bốn trời

Buồn cho tôi ! Muốn lòng người

Là con sóng nhỏ chảy xuôi một dòng

Thế rồi tôi lại muốn sông

Đừng ra bể nữa cho lòng mang mang…

 

Buồn cho tôi muốn tình nàng

Có hình như đã rõ ràng từ đây    

Ai làm cho gió đưa mây

Cho mây vương núi đổi thay muôn hình

Đổi thay là trái tim tình

Một làn mây đủ xuôi mình phụ ta

(1939)

Còn bài thơ Khi chiều thẫm, có những câu gần giống như thơ... Xuân Diệu! Hơn ai hết, Nam Cao tự nhận thức: “Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những  gì chưa có” (Đời thừa). Do đó, không vì có dăm bài thơ in báo mà Nam Cao tự bằng lòng với mình, ông quyết định “li dị” với nàng thơ. Quyết định của Nam Cao là hoàn toàn chính xác, nhờ vậy, ông đã tìm được sở trường của mình và tạo được tên tuổi lừng lẫy trong văn học sử.

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 24.10.2014

 

10678830_793889513982747_150084365978171488_n

 

Chiều thứ tư, trời mưa. Chiều thứ năm, trời mưa. Có những buổi chiều mưa được ngồi thân mật với bạn bè. Những men say bốc lên đầu, tràn qua lưỡi và réo rắt âm thanh boléro. Hầu như trong nhiều cuộc vui, con người ta lại tìm về giai điệu ấy, ca từ ấy. Hôm ra mắt tập sách ra mắt sách Trảng Bàng phương chí của Vương Công Đức cũng thế. Tường Vân kể lại câu chuyện của người bạn học. Tết năm nọ, nhiều sinh viên ở lại ký túc xá ăn Tết, do không có tiền mua vé xe đò về quê. Lúc gần đến giao thừa, anh em đốt lửa giữa sân, ôm đàn ngồi hát.

Nhiều ca khúc lần lượt đi qua. Chạm đến nỗi nhớ nhà. Nỗi nhớ như gai nhọn: “Nếu con không về chắc mẹ buồn lắm, mái tranh nghèo không người sửa sang. Khu vườn thiếu hoa đào mừng xuân. Đàn trẻ thơ ngây chờ mong, anh trai sẽ đem về cho tà áo mới, ba ngày xuân đi khoe phố phường…”. Âm nhạc đem lại tiếng nấc. Nỗi lòng rưng rưng. Nhớ nhà da diết. Đột nhiên có chàng sinh viên măng tơ ôm mặt khóc hu hu. Rồi đứng dậy. Anh ta quyết phải về nhà cho bằng được. Thời đó, xe cộ không nhiều như bây giờ. Từ Thủ Đức, anh đi bộ một mạch về đến tận Long Khánh. Đi với sự thôi thúc của nỗi niềm vọng lên từ giai điệu: “Con biết bây giờ mẹ chờ tin con, khi thấy mai đào nở vàng bên nương…”.

Thử đặt ca từ ấy trên môi và hát. Hát lần nữa đi. Sẽ thấy gì?

Thời bộ đội, y cũng thế. Những giao thừa ở rừng K, đồng đội ngồi với nhau đêm giao thừa, bao giờ cũng có người hát ca khúc này. Âm nhạc thời chiến ở hai miền Nam - Bắc khác hẳn. Một bên phục vụ cho sự chiến thắng bằng mọi giá. Một bên thể hiện tâm trạng cá nhân. Cuối cùng, sau khi cuộc chiến đi qua, những gì sẽ còn lại trong trí nhớ? Và bây giờ, trong các cuộc vui hầu như âm thanh boléro cũng được gọi về.

Vừa rồi ca sĩ Lê Uyên trả lời báo PN về chuyện tình Lê Uyên Phương.. Cô bảo: “Nhiều người đặt câu hỏi có phải tình yêu và âm nhạc đã giúp anh Phương có một cuộc sống dài hơn so với những gì mà cơn bệnh anh mang năm 27 tuổi dự báo? Tôi không có kiến thức y khoa để biết, nhưng tôi biết chắc một điều: khi người ta có tình yêu, hạnh phúc thì người ta sẽ sống lâu hơn”. Đúng quá. Viết cũng cũng là lúc thể hiện tình yêu. Với tình yêu vô bờ bến về nơi chôn nhau cắt rốn, dù không phải nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, người ta vẫn có thể viết được những tập sách hữu ích. Những tập sách “tay ngang” ấy, có thể khiến các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp phải giật mình thán phục. Có thể tìm được ở đó những nguồn tư liệu tươi roi rói từ ghi chép điền dã, từ mắt thấy tai nghe ngay, từ khảo cứu sách vở công phu chỉ vì yêu thích, chứ không vì mục đích gì khác.

Trường hợp của nhà giáo Nguyễn Văn Uẩn là một. Do quá yêu Hà Nội, ông dành hết thời gian vào thư viện tài liệu, lang thang ngõ ngách 36 phố phường ghi chép tất tần tật những gì đã nghe, đã thấy. Công việc này ông thực hiện từ năm 1962 đến năm 1984 thì hoàn thành bộ sách Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX, dày 1.164 trang in. Vừa rồi, kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội, NXB Hà Nội đã tái bản. Trường hợp của luật gia Vương Công Đức là một. Tập Trảng Bàng phương chí của anh cũng là một đóng góp tương tự về địa phương chí. Anh đã chi ra tròm trèm hàng trăm triệu đồng từ mua tài liệu, đi điền dã v.v… Sách in ra, chỉ 500 cuốn nhưng lại nhận nhuận bút bằng sách. Nếu chỉ chăm bẳm vì tiền, chẳng ai làm. Tự nghĩ, khi thấy ai làm việc tốt, dù không giúp được gì thì ít ra cũng nên có lời động viên, khuyến khích để họ bền lòng đeo đuổi công việc.

Đêm qua, lại ngồi với Cao Xuân Sơn và vài người bạn. Câu chuyện tự nhiên “lái” qua Trảng Bàng phương chí: “Có những tựa sách như Địa dư chí (Nguyễn Trãi), Đại Nam nhất thống chí (Quốc sử quán triều Nguyễn), Phương Đình địa dư chí (Nguyễn Văn Siêu), Hoàng Việt địa dư chí (Phan Huy Chú)… lại có quyển ghi Nam Ông mộng lục (Hồ Nguyên Trừng), Kiến văn tiểu lục (Lê Quý Đôn), Tang Thương ngẫu lục (Phạm Đình Hổ-Nguyễn Án)… Đố Q “chí” khác “lục” thế nào?”. Chưa kịp trả lời, Sơn nói luôn: "Khi biên soạn sách mà có ý kiến riêng, chịu trách nhiệm về các thông tin đó, gọi là “chí”; khi biên soạn sách, chỉ ghi chép lại lời kể của người khác, gọi là “lục”. Q thấy sao?”. Thấy gì nữa, bạn mình nói đúng quá. Nào nâng ly. Thì nâng ly. "Thế đố Q đối lại câu đối này : "Về với Mậu Nhai chẳng có gì nhai, chỉ toàn nhai nhau". Nghe vui quá. Sực nhớ lại một người mà y kính trọng. Mậu Nhai, họ Hà trước kia ông làm giám đốc NXB Văn Nghệ TP.HCM, in nhiều sách tốt, sách hay. Dư luận hoan nghênh lắm. Do quý mến ông nên anh em văn nghệ mới đùa bằng vế đối đó. Theo Sơn là của nhà thơ Nguyễn Duy.

Phải công nhận bạn mình có trí nhớ cực tốt. Nhớ vanh vách nhiều thơ. Câu chuyện bàn về văn chương chữ nghĩa lúc bốc đồng ngất ngưởng bao giờ cũng lý thú. Bàn chuyện thơ văn cho nhẹ đầu. Gạt qua bên thông tin chẳng hay ho gì như Cảng hàng không Nội Bài và Tân Sơn Nhất vừa được liệt vào danh sách 10 cảng hàng không kém nhất năm 2014 tại châu Á - do website The Guide to Sleeping in Airports xếp hạng. Gạt qua bên thông tin chẳng hay ho như… Mà thôi. Trời đang mưa. Thơ thẩn cho vui đi. Sơn kể về tập thơ của Lưu Quang Vũ do nhà thơ Hoài Anh viết Tựa. Chỉ chuyền tay đọc, đâu khoảng năm 1972. Chưa in. Theo Sơn, Hoài Anh viết Tựa cho tập thơ của Lưu Quang Vũ cũng là bài thơ. Nguyên văn như sau:

Ôi những câu thơ anh

Bán chợ trời không đắt

Thơ rơi không ai nhặt

E thơ nổ què tay


Tôi không khen thơ hay

Tôi không chê thơ dở

Những cái lỗi của đời

Có phần tôi trong đó

Chẳng rõ số phận tập thơ này thế nào? Hôm nào hỏi lại Thơ xem sao. Ngoài trời vẫn mưa. Quán xá ồn ào. Trong câu chuyện, Sơn lại nhắc về nhà văn Trang Thế Hy, thời ở cùng chung cư. Lúc ấy, bước vào căn hộ của ông, thấy có ghi dòng chữ rành rành ngay tầm nhìn: “Khi có tiếng gõ cửa, đề nghị khách không lên tiếng để chủ nhà xử lý”. Tại sao có câu đó? Do ông có chân trong Ban Chấp hành hay Hội đồng Văn xuôi gì gì đó của Hội Nhà văn Việt Nam nên có quá nhiều người đến cầu cạnh. Lại nhắc đến câu nói mà Trang Thế Hy xem như một quan niệm sáng tác: “Khi biết mình không viết được nữa thì đi chỗ khác chơi. Đừng bẹo hình bẹo dạng ở chốn trường văn trận bút để bắt độc giả lỡ yêu mến mình đọc những lời lếu láo”. Chưa kiểm tra lại tài liệu nào nhưng chắc chắn Sơn kể đúng. Từ “bẹo” ấy, Nam bộ lắm. Đã từng xuất hiện trong thơ Trang Thế Hy:

Dung nhan em còn tươi

Anh mừng tưởng đâu đời em vui

Nào hay đây là quán

Em bẹo hình hài rao lên bán

Lan man thế nào lại quay về Ngũ Hành Sơn ở Đà Nẵng. Thời nhỏ, y đã lên chơi nhiều lần. Nhảm nhí nhất hiện nay, người ta làm cái thang máy. Chui vào đó, chỉ cái vèo là lên tận nơi. Còn đâu cái thú ngao du sơn thủy? Lâu lắm không lên nên không biết chi tiết này, Sơn bảo ngày nọ cùng nhà thơ Thanh Quế lên chơi Ngũ Hành Sơn, đến tận Vọng Hải đài. Nơi đó, năm xưa, thi sĩ Phạm Hầu - con trai tiến sĩ Phạm Liệu đã viết bài thơ Vọng Hải đài. Hai câu cuối được nhiều người truyền tụng:

Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận

Chẳng biết xa lòng có những ai?

Lẽ ra phải được khắc trang trọng lên đá Non Nước, người ta làm du lịch bằng cách viết nhồm nhoàm hai câu thơ đó lên cái bảng xi măng: “Tôi trông thấy thảm hại như biển thông báo: “Cẩn thận đoạn đường này có ổ gà, thường xẩy ra tai nạn”. Chán chết đi được”. Sơn cười phá lên trong câu chuyện kể. Y cũng cười lên. Rồi chẳng thể cười được nữa, nếu cứ nhìn vào thực trạng của đời sống đang diễn ra mỗi ngày. Chỉ nghĩ đến đó đã “oải trời đậu”. Vậy thì về thôi. Về tìm quên cái sự đời trong những trang sách mỗi ngày. Cũng là một cách thoát ly thực tế.

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 20.10.2014


“Đồng chí chú yêu quý,

Rất lâu rồi đồng chí cháu mới mail cho đồng chí chú. Chuyện là đọc Nhật ký của ĐCC dạo này nghe bảo càng lớn tuổi tìm niềm vui khó quá ấy mà. Sáng nay, ĐCC đọc được bài ngắn ngắn này trên một trang web Trung Quốc. Đọc thấy vui vui, lại đang lúc rỗi nên dịch và gửi sang ĐCC đây. Hy vọng chú luôn tìm thấy niềm vui đơn giản hằng ngày để Nhật ký không phải réo rắt gọi tên buồn. ĐCC rất ít khi dịch nên chắc hẳn đôi chỗ hơi buồn cười, DCC đọc vui là chính. Bài ngắn thôi, nhưng DCC nghĩ thời công nghệ số bận bịu này, đọc cái ngăn ngắn như vậy là đủ rồi, chứ dài thì ít ai chịu khó đọc và nhớ nổi. Tongue out Vậy nha, DCC. Hy vọng nhận được sự hoan nghênh của DCC.

Dạ, DCC đưa vào Nhật ký đi, độc giả ghé thăm web DCC chắc nhiều người giỏi tiếng Tàu lắm, DCC cứ trích song ngữ luôn cho bạn bè gần xa góp ý, để DCC có thể học hỏi thêm mà, Kiss. Vui thôi. Vì trước giờ công việc DCC chả bao giờ dịch mấy thứ này. Nay nổi hứng nên dịch í mà. Sẽ cố gắng dịch thường xuyên để làm phong phú thêm màu sắc nhà DCC hén. Hy vọng một ngày không xa, DCC sẽ gửi đến cho DCC vài bản dịch từ tiếng Nhật nữa, hii. Tình hình là bây giờ DCC đang tự mày mò tiếng Nhật nhưng mới xong 1 chặng đường ngăn ngắn thôi, Tongue out.

Ah, Báo mình mới mở chi nhánh tại 2 Phan Chu Trinh ĐN phải không DCC, nghe vui vui he. Vậy là lúc nào có bài được đăng có thể chạy qua mua luôn cho nhanh chứ ko dài cổ ngồi đợi như mấy đợt trước nữa,Cool”.

Đọc mail cảm động quá. Từ khi mở trang web cá nhân, đã có thêm nhiều tình bạn văn nghệ. Có những người chưa biết mặt; hoặc chỉ mới gặp đôi lần. Rồi dần dà thân thiết. Đã thân thiết mới có thể kết bạn và tin cậy. Mấy hôm nay, nhận từ hộp thư facebook của một người thông báo sắp vào Sài Gòn và hẹn gặp. Với những người chưa gặp, thú thật, y rất ngại. Trường hợp này cũng thế.

Không biết từ bao giờ, do cái gì mà trước mối quan hệ nào y cũng muốn né tránh. Đọc báo mỗi ngày nên đâm ra sợ chăng? Có những vụ việc quá khủng khiếp, ghê rợn nên buộc lòng phải cảnh giác. Chừng mươi năm trước, thời sinh viên, từ Thủ Đức về Sài Gòn, nếu mệt có thể tạt vào bất kỳ nhà nào xin miếng nước giải khát hoặc nằm nghỉ lưng; lúc đói, có thể vào chùa ăn miếng cơm từ thiện; nghe biết đồng hương từ quê vào đây lập nghiệp, dù thân dù không cũng có thể tìm ghé đến nhà chơi… Những dịp ấy, giữa khách và chủ thân tình, không nghi ngờ gì nhau. Thời buổi này, khó lắm. Con người ta sợ hãi cả những lúc muốn làm việc tốt; nghi ngờ cả việc tốt của người khác làm cho mình. Đâu là mối gắn kết giữa người và người? Sự gắn kết ấy trong thời buổi này dựa trên cái gì? Không rõ các nhà xã hội học trả lời thế nào? Một điều dễ nhận ra nhất, con người ngày càng có xu hướng tự giải quyết mâu thuẫn hơn là trông cậy đến cơ quan chức năng. Đụng xe ngoài đường, va chạm một chút, không khéo đổ máu như chơi; hoặc ít ra cũng là những tiếng tục tằn, thô lỗ ném ngay vào mặt.

Khiếp quá.

Với anh bạn trên facebook, sau nhiều lần ậm ừ, cuối cùng, sáng nay, y cũng quyết định đến gặp bởi lời mời tha thiết quá, dù chưa biết mặt. Tất nhiên, chẳng hào hứng gì. Vào quán cà phê, tình cờ gặp bạn thơ Trương Nam Hương, Huệ Triệu và vài người khác. Sau vài câu chào hỏi, y bước qua bàn người bạn đang đợi. “Anh còn nhớ em không?”. Y không thể nhớ. Đó là người đàn ông trẻ bị bại liệt, tay chân quặt què, miệng méo, phát âm không rõ. “Năm 2001, anh đã trao em giải khuyến khích thi thơ trẻ tại Nhà Văn hóa Bến Thành”. Trò chuyện một lúc mới biết, năm đó, sau khi học xong lớp 11, từ Quảng Nam, em vào Sài Gòn đi bán vé số kiếm sống, thỉnh thoảng có làm thơ. Em cho biết hiện nay đã mở quán cà phê tại nhà và làm từ thiện. Tưởng là đùa. Em đưa ra danh sách, có chữ ký và hình ảnh của những người có lòng. “Đó là nhờ em kêu gọi trên facebook. Công việc này không thường xuyên, lúc nào có tiền thì giúp người nghèo trong làng, xã chứ không gì  thúc bách. Mỗi suất từ thiện 70.000 đồng. Mà bọn em trao tận tay.  Về phần em, mỗi ngày trích ra 3 ngàn bỏ ống góp thêm vào”. Trò chuyện giây lát, em tặng dĩa CD Tình thơ. Trương Nam Hương, Huệ Triệu, Minh Lê cảm động và tặng em ít tiền ủng hộ…

Mọi việc nhẹ nhàng. Tự dưng thấy lòng vui. Cuộc đời vẫn còn có những con người tật nguyền cưu mang cho người nghèo khác. Lòng nhân ái như mạch nước ngầm vẫn còn len lỏi đâu đó trong đời sống. Những tấm lòng thiện nguyện vẫn còn nhiều. Đáng quý lắm. Tuy nhiên, một xã hội không bình thường là một khi còn có nhiều hoàn cảnh cần cộng đồng trợ giúp. Thật khó có thể lý giải nổi, vì sao còn có nhiều con người bình thường tự nguyện san sớt, lo lắng cho các số phận bất hạnh? Họ làm lặng lẽ, bền bĩ và không cần phải có báo chí tuyên truyền ầm ĩ. Liệu có võ đoán hay không, khi nói rằng, chính các tổ chức tôn giáo đã làm công việc này trong sáng nhất? Đành rằng, làm từ thiện không phải của riêng ai nhưng thâm tâm y vẫn tin vào thiện tâm của những con người có đức tin. Cô Bảy - vợ của T nhiều năm nay làm việc cho một tổ chức phi chính phủ, hầu như những nơi vùng sâu, vùng xa nào nghèo đói nhất thì đoàn của cô đều có mặt. “Mình phải đến tận nơi, trợ giúp đúng người chứ không thể nhờ bất kỳ một hệ thống hành chánh ở địa phương nào”. Tại sao người ta lại mất niềm tin đến thế?

Ngày trước, dưới chân đèo Hải Vân có bệnh viện, làng của người cùi, chung sống cùng họ, lo lắng cho họ hết lòng và quên mình vẫn là các seur. Họ làm tận tụy công việc mà người trần mắt thịt chúng ta xa lánh là do gì? Đức tin chăng? Đừng nói tôn giáo là thuốc phiện. Do đâu về cuối đời thi sĩ Hàn Mặc Tử:

Lạy Bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn

Giầu nhân đức, giầu muôn hộc từ bi,

Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy

Cơn lậm lụy vừa trải qua dưới thế

Tôi cảm động rưng hai hàng lệ?

Trang viết Sự trong sạch của tâm hồn do Hàn Mặc Tử viết vào đêm 24.10.1940 là nhằm ca ngợi công ơn các mẹ, các chị dòng Franciscain đã hết lòng chăm sóc ông và những người bạn ở trại cùi Quy Hòa. Những thiên thần ấy có thật trong đời đấy chứ? Hàn Mặc Tử gọi các chị, các mẹ là “tấm linh hồn thanh khiết”: “Hỡi các vị thiên thần của Trời, thiên thần của Chúa, thiên thần hòa bình và hoan lạc, xin hãy ném cho nhau những đóa hoa hồng, hoa súng, những điệu hát réo rắt và những hơi nhạc thơm tho, và hãy xin rưới trúc cho tràn trề nào là đức hạnh, can đảm và hạnh phúc cho những vị nữ tỳ của Đức Chúa”.

Do đâu hình ảnh các sư bà, sư chị, sư em, các seur lại luôn hiện lên trong tâm thức của y về phép lành có thật ở trần thế? Từ cảm hứng đọc bài thơ Xuân Như Ý của Hàn mặc Tử và chiêm nghiệm về thiện tâm có thật đó, đã có lần y viết bài thơ này viết cho những số phận khốc liệt không còn biết bấu vào niềm tin nào để sống - dù y không là tín đồ của tôn giáo nào:

cúi xuống niềm đau, van xin Người thứ lỗi

có một lần (chỉ một lần) như kẻ ngủ mê

như gã điên, tôi nói gì? chả hiểu

nói một lời miệng lưỡi cứ đau tê


tôi dằn vặt suốt một đêm mất ngủ

tôi nhìn tôi oán giận đến đau lòng

trời đất ơi tôi lạy Người ngàn lạy

Đức Mẹ ơi con nước chẳng xa dòng


đừng đuổi tôi trên đường xa vạn dặm

trong ngực đây chỉ có tiếng kinh cầu

tôi gọi Người giữa điêu tàn mộng mị

Đức Mẹ ơi ơn thánh rất nhiệm mầu


cúi xuống ăn năn đêm dài sám hối

trời đất ơi tôi lạy dưới chân Người

ôi Đức Mẹ của ngàn đời yêu dấu

xin dâng Người này máu đang tươi

 

xin dâng người một đức tin trong sạch

tiếng Amen trổ phước lộc đời đời

nước Thiên Chúa, xin Người mở cửa

Người mở lòng đón nhận lấy lòng tôi

 

tôi nhận lấy mùa xanh như cốm mới

Người quay về thong thả gió đang non

cửa chẳng khép, một câu thơ sám hối

Đức Mẹ ôi, che chở một linh hồn...

Bất kỳ một chủ thuyết nào, một chủ nghĩa nào, một chủ trương… nào muốn con người ta tin theo thì những người đề xướng chủ thuyết, chủ nghĩa, chủ trương… đó phải gương mẫu. Bằng không, người ta tuân theo, đi theo vì quyền lợi gì đó, vì sự o ép đổi chác nào đó chứ không hẳn từ thâm tâm. Vừa đọc đâu đó mẫu chuyện này, ngày xưa vua Louis XIV nước Pháp thường đến nhà thờ nọ cầu nguyện vào sáng chủ nhật. Dân chúng thường xuyên đến rất đông. Một ngày nọ, đức vua đến dự lễ nhưng thấy không còn sự nhộn nhịp, rộn ràng như trước. Mà vắng như chùa bà Đanh. Vua liền hỏi vị giám mục nguyên cớ vì sao? Ông này trả lời: “Thưa ngài, chính tôi đã tung tin là hôm nay Đức vua không đến thánh lễ ở đây”. Thế đấy! Một câu chuyện gợi lên nhiều điều suy nghĩ.

Trở lại với bản dịch của cô cháu gái ở xa tít Quảng Nam với bản dịch Hạnh phúc thực sự rất đơn giản. Nguyên văn như sau:

dich-tieng-TrungRR

“1. Lúc đau bụng chịu không nổi, bạn tìm mãi mà không ra toilet, đột nhiên nhìn thấy cánh cửa nhà vệ sinh, bạn xông vào ngay lập tức thì thấy đã có người trong đấy rồi. Đang lúc bó tay không biết làm sao thì cánh cửa hé mở, người ấy đã giải quyết xong “nhiệm vụ” và đi ra, tới lượt bạn xông vào. Và thời điểm bạn ngồi xổm trong toilet, đấy chính là hạnh phúc.

2. Lúc đau răng không thể tả, sau khi uống xong hai viên thuốc bạn thấy hết đau và có thể đánh một giấc ngon lành, đấy chính là hạnh phúc.

3. Lúc mọi người đang chen chúc nhau trên xe điện ngầm công cộng, kẻ khác đang đứng bạn lại đang ngồi, đấy chính là hạnh phúc.

4. Lúc bạn ăn cao lương mỹ vị trong khi nhân viên phục phụ đang quần quật bưng bê thức ăn, rót rượu, lúc bạn đang ăn kẻ khác đang nhìn, đấy chính là hạnh phúc.

5.Lúc bạn yên tĩnh nằm ngủ sau một ngày làm việc, đấy chính là hạnh phúc.

6. Lúc tỉnh giấc, bạn thấy mình vẫn còn sống, đấy chính là hạnh phúc. Bạn lại bắt đầu một ngày rất mới.

7.Bạn không có gia tài của cải nhưng bạn có một gia đình hạnh phúc, đấy chính là hạnh phúc.

8.Bạn không có nhà cửa, xe hơi, tiền bạc nhưng bạn có niềm vui, vậy là bạn hạnh phúc.

Ủa? 8 điều đem lại hạnh phúc đó ư? Nay bổ sung thêm cho đủ 9 điều vì sực nhớ rằng, ngày nọ có con kiến nọ bò vào lỗ tai con voi thỏ thẻ: “Anh ơi, em đang rất hạnh phúc vì em vừa có bầu với anh”. Nghe thế, con voi cũng hạnh phúc chứ? Không, nó lăn đùng ngất xỉu. Tongue outTongue outTongue out

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 18.10.2014

lephuong-thao-18.X.2014

 

Những ngày này, vẫn thế. Không gì mới, chẳng vì thế mà cũ đi. Tìm lấy cái mới mỗi ngày, dẫu rằng vô vọng. Trên đời này, không gì có thể ngửa tay xin, dù niềm vui hoặc nỗi buồn. “Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra” (Truyện Kiều). Hãy hỏi lấy lòng mình. Lòng của y tẻ nhạt quá, đơn điệu quá mà cũng tầm thường quá. Đã nói rồi, đời sống đang diễn ra mới là chất liệu quý báu của kinh nghiệm đời người. Những tầm chương trích cú chỉ là mớ hỗn độn, vàng thau lẩn lộn, đôi khi chẳng ích gì. Dù có ích đi nữa, thế nhưng cái ích ấy lại xa lạ với thực tại đang diễn ra mỗi ngày. Sự va chạm ấy mới khốc liệt đớn đau, bẽ bàng. Đứa trẻ vâng lời cô giáo dạy khi đi xe gặp đèn đỏ phải dừng lại, nó làm theo, không ít lần ngay từ phía sau một chiếc xe khác lao lên, người lái xe đáng tuổi cha tuổi chú phóng rầm vào xe nó và mắng luôn: "Đồ ngu, sao dừng lại?" 

Những ngày này, từng dặn dò, hãy tắt bàn phím, mở cửa, bước ra ngoài. Ấy thế, đã dặn dò thế, rồi cuối cùng vẫn thế. Thế là y lại cắm cúi với những trang sách mở ra mỗi ngày. Biết thế nào được?

Những ngày này, có lẽ lần đầu tiên dư luận đồng tình với việc tiêu hủy một quyển sách “rác”. Đó là quyển Từ điển tiếng Việt dành học sinh của Vũ Chất. Quyển này được cho các nhà xuất bản lần lượt cấp giấy phép là Trẻ, NXB Thanh Niên, Văn hóa Thông tin, Hồng Đức. Tuy nhiên, chưa có kết luận cuối cùng. Sách in lậu cũng nên. Viết cẩn trọng nhất về lai lịch ra đời của quyển này là bài “1 từ điển “rác” - 4 “nhà” xuất bản (TT 16.10.2014) của đồng nghiệp Lam Điền. Theo đó, “Dư luận bức xúc và đặt vấn đề tác giả Vũ Chất là ai mà đứng tên trên một ấn phẩm tồi tệ như vậy. Câu trả lời về tác giả không dễ dàng. Chúng tôi đã truy tìm và phát hiện bản in sớm nhất được biết của quyển từ điển này là từ thời... chế độ cũ: đó là quyển Việt Nam tự điển của tác giả Vũ Chất, ra đời vào ngày 15-10-1969, giấy phép số 4239 BTT/NBC/PHNT. Sau đó, cũng dưới thời Việt Nam cộng hòa, quyển này còn được tái bản một lần vào năm 1971, có đề cơ sở xuất bản là Hồng Dân (nằm trên đại lộ Khổng Tử, Chợ Lớn). Vậy đây là một quyển từ điển ra đời tại miền Nam trước năm 1975. Bản in năm 1969 không ghi nhà xuất bản, giới nghiên cứu cho rằng bản này do chính tác giả tự in - một hình thức phổ biến vào thời đó”.

Trong khi đó, một điều thiếu cẩn trọng là hầu hết các báo đều đưa tin: “Từ sự giản lược đến ngô nghê của tác giả Vũ Chất khi mượn Việt Nam tân tự điển minh họa của Thanh Nghị biến thành Việt Nam tự điển đến Tự điển tiếng Việt dành cho học sinh”; “lược lại một cách cẩu thả cuốn “Tân tự điển” của tác giả Thanh Nghị, xuất bản năm 1967” v.v… Thử hỏi, từ những câu gì Thanh Nghị đã viết để cuối cùng Vũ Chất “chế biến” thành những rác rếnh như buồn cười = buồn mà cười; buông xuôi = chết, thả, duỗi hai tay ra; quản giáo = người trông coi một giáo đường hay tu viện; tù trưởng = người đứng đầu trông coi tội nhân... "Tiểu sản" là "đẻ non", "Tiết dục" là "hạn chế sự sinh sản"... Có ai dẫn chứng ra, chứng minh cụ thể được không? Hay chỉ nghe nói một chiều rồi " viết như thật”?

Trong trường hợp "nhậy cảm" này, liệu có nên nêu tên Thanh Nghị? Theo y, không nhất thiết, không nên chút nào bởi Thanh Nghị vô can. Làm sao ông có thể đội mồ lên cải chính, tranh luận và bênh vực cho đứa con tinh thần của mình? Ai dám quả quyết ngoài từ điển của Thanh Nghị, Vũ Chất không “chôm” của các nhà làm từ điển khác theo cái kiểu: “cắt xén, xào nấu nội dung và giản lược đến mức xuyên tạc”? Vậy thì, “lôi” ông Thanh Nghị vào vụ này dù đúng, dù sai nhưng vẫn thấy tội nghiệp cho người đã khuất.

Mà Thanh Nghị là ai?

Đọc kỹ thơ Hàn Mặc Tử, có bài thơ ghi "Tặng Trọng Quị". Tên thật Thanh Nghị là Hoàng Trọng Quị, sinh năm 1917 tại Huế. Bạn viết cùng thời với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên… Đã soạn nhiều từ điển từ năm 1949. Năm 1968, ông thoát ly ra vùng căn cứ kháng chiến Đông Nam bộ và giữ nhiều trọng trách, chẳng hạn, Thứ trưởng Bộ văn hóa Thông tin trong Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam… Thời gian này, ông có viết tập sách Tháng ngày tôi sống với những người cộng sản. Bài thơ Hàn Mặc Tử tặng Thanh Nghị như sau:

Lang thang

(Tặng Trọng Quị)

Lãng tử ơi! Mi là tiên hành khất

May không chết lạnh trước lầu mỹ nhân

Ta đi tìm mộng tầm xuân

Gặp vua nhà Nguyễn bay trên mây

Rượu nắng uống vào thì say

Áo ta rách rưới trời không vá

Mà bốn mùa trăng mặc vải trăng

Không ai chết cả sao lòng buồn như tang?

Cho tôi mua trọn hàm răng

Hàm răng ngà ngọc, hàm răng đa tình

Một chắc ta lại với mình

Có ai vô đó mà mình hồ ngươi?

Lãng tử ơi, mi là tên hành khất

Nay không hộc máu chết rồi còn đâu?

Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói?

Gió trăng có sẵn làm sao ăn?

Làm sao giết được người trong mộng?

Để trả thù duyên kiếp phụ phàng?

Khi phổ bốn câu cuối, đôi lần Phạm Duy đổi "giết" thành "giữ". Trong ngữ cảnh này cả hai từ đều tuyệt vọng không nguôi, đau đớn tận cùng. Còn nhớ trong một tập nhạc đã in trước 1975, P.D viết: "Lạy anh Hàn Mặc Tử cho em sửa "làm sao "giữ" được người trong mộng". Không nhớ chính xác từng câu chữ, những chắc chắn có câu này.

Sáng thứ bảy. viết nhăng nhít một chút. Hơn một năm nay cứ hì hục với các đề tài hôn nhân gia đình. Nhìn lại một chặng đường dài, đã gom một ít in thành tập Khi tổ ấm nhảy Lambada, sẽ in tập kế tiếp, chưa biết lấy tựa gì. Chắc cũng nhanh thôi. Vấn đề là sắp tới nữa, phải viết gì nữa? Ai cũng bảo y nói như "đi guốc trong bụng người ta" nhưng đâu biết, khi rơi vào tình huống đó thì chính y cũng ngất ngứ chẳng biết phải giải quyết ra làm sao.

Vừa đọc xong bài viết của Đoàn Tuấn về bộ phim Sống cùng lịch sử. Tuấn gửi qua email. Đọc trước cho Tuấn. Lâu nay, các báo nói nhiều về phim này do Tuấn viết kịch bản, đại khái, phim đầu tư đến 21 tỷ nhưng không thu hút người xem đến rạp, có 2 lý do: chất lượng phim và công tác quảng bá phim. Chưa chắc ý kiến trên là đúng, bằng chứng bộ phim này lôi cuốn, nhiều tình tiết xúc động chân thật có thể lấy nước mắt người xem; sau khi các báo góp ý, nhà sản xuất đã cho chiếu miễn phí tuy nhiên vẫn không nhiều khán giả đến rạp. Nếu có đến cũng vì tò mò, "xem thử ra làm sao mà báo chí nói nhiều thế", hơn là đến vì ý thức được "sống cùng lịch sử". Mà đâu phải riêng phim này, hầu như các phim do Nhà nước đầu tư kinh phí phục vụ các ngày lễ lớn đều vắng khách. Tại sao? Có phải do các vấn đề lịch sử đặt ra trong phim, ngày nay thiên hạ không còn quan tâm nữa? Hay công chúng đòi hỏi một cách tiếp cận khác dù cũng vấn đề lịch sử đó? 

Những ngày nay, đôi khi lại chán cho chính y. Đời sống có quá nhiều chuyện cần bận tâm hơn, quan tâm hơn nhưng cuối cùng y vẫn chọn cách né tránh. Mà đâu riêng gì y, cứ nhìn những tầng lớp, nói như các bà già Quảng Nam là những người “có học, có chữ”, thử hỏi họ đang nghĩ gì, làm gì? Cũng có thể nghĩ một đàng mà nói và viết một nẻo chăng? Thôi kệ. Cứ mở mắt và đi tìm những mầm xanh hướng thiện vừa nhú trong tâm hồn mình để thêm yêu cuộc đời này.

tôi chẳng bao giờ dám nghĩ một đời

đời dài rộng mà kiếp người ngắn lắm

bạn có thấy ngoài hiên mưa một bông hoa vừa thắm

đã héo mòn cánh rũ nhẹ nhàng không?


L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 17.10.2014

 

IMG_0720

Tranh sơn dầu Lê Minh Quốc

 

Có những lúc không biết làm gì cho hết một buổi chiều. Chẳng tha thiết điều gì. Trước đây, cắm cúi vào Nhật ký vẫn tốt hơn cả. Một cách giết thời gian. Nghĩ gì, cứ viết. Nhưng viết mãi cũng chán. Trong một ngày, có quá nhiều thông tin hắc ám, chẳng lẽ né tránh? Bằng không, lại bình luận, lại suy ngẫm rồi cảm thấy rầu rầu. Cái nhìn về cuộc đời lại u ám. Thời buổi gì mà lạ lùng quá, có những chuyện không hề tưởng tượng nổi nhưng rồi vẫn cứ xẩy ra. Vẫn nhan nhản từng ngày trên mặt báo, trong các câu chuyện kể. Thế thì, chẳng viết gì lại khỏe cái thân. Tội gì ôm rơm cho nặng bụng. Cần viết kiếm sống mỗi ngày, cứ viết, nếu không thì thôi vậy. Những chiều không Nhật ký, lai rai cùng bạn bè chăng? Đôi lúc nhớ đến những câu thơ của Lưu Quang Vũ:

Tôi biết làm gì tôi biết đi đâu

Tôi chẳng còn điếu thuốc nào

Đốt lên cho đỡ sợ

Yếu đuối đến cộc cằn thô lỗ

Tôi xấu xí mù loà như đứa trẻ mồ côi

Tình yêu trong lòng tôi chẳng ích lợi cho ai

Những gì mọi người cần, tôi chẳng thiết

Tôi khao khát yêu người

Mà không yêu sao được

Cuộc đời như một mụ già dâm đãng

Một núi giây thừng bẩn thỉu rối ren

Tôi chán cả bạn bè

Mấy năm rồi họ chẳng nói được câu gì mới

Tôi bỏ ra đi, họ ngồi ở lại

Tôi đi một mình trong phố vắng ban đêm

Đến một tuổi nào đó, tìm kiếm niềm vui sao khó quá. Lại những câu chuyện tầm phào, vô thưởng vô phạt rồi tan hàng quay về với men say ngất ngưởng cũng chỉ một mình trong bóng tối. Do làm báo nên có nhiều mối quan hệ, đa phần ngồi với nhau vì nhờ cậy gì đó. Có thể ngồi hôm nay, rồi chẳng bao giờ gặp lại. Ngồi thì ngồi chung nhưng mỗi người một đời sống khác, công việc khác. Khó có thể mở lòng. Có những lúc tưởng chừng như rút ruột tâm tình. Nhưng rồi... Sau cơn say mệt nhọc, sáng thức dậy, mọi chuyện lại quên hết dù trước đó đã thề non hẹn biển và bàn tay siết chặt. Ngủ một giấc. Giấc ngủ chẳng khác gì cơn mưa rửa bùn sau lũ. Lũ ấy là cơn say bất tận bán trời không mời thiên lôi và ảo tưởng có thể hô phong hoán vũ. Sáng mai quên tuốt tuột. Chán là thế. Với nhà báo chuyên nghiệp, mối quan hệ "xã giao thời vụ" ấy nhiều lắm. Nếu tận dụng, mỗi chiều đều có thể "gài" một độ nhậu.

Bạn bè thân thiết của y lại khác. Không là mối quan hệ "xã giao qua đường" ấy. Chỉ vài ba gương mặt đã chơi với nhau tròm trèm hơn hai mươi năm. Đếm không đủ năm đầu ngón tay. Thân tình thật sự. Ngồi với bạn bè thân thiết mới thích. Đã biết tính nết nhau, lúc say có thể nói năng nhăng cuội nhưng rồi vì tình thân, vì đã hiểu nên dễ dàng xí xóa. Nhưng rồi, đâu phải lúc nào cũng có thể bù khú.

Có những chiều đẹp quá, nắng xanh hồng tím đỏ tươi ngon vẫy gọi xuống phố, tấp xe vào đâu đó? Rồi ngồi một mình ngắm chiều qua ly bia đang sóng sánh bọt vàng? Có mà điên. Vậy phải là gì? Chẳng làm gì, lại viết. Trở lại với Nhật ký 10.10.2014: “Nhân đây, thử hỏi “Thơ rơi” là gì? Chỉ xin vắn tắt là một thể hoại văn học dân gian rất đặc thù của người miền Nam. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu ở An Giang đã phân tích chu đáo rồi. Không nhắc lại”.

Chiều nay, nhắc lại. Tìm đọc lại vài tài liệu và có thể giải thích rằng: Thơ rơi là những bài thơ nhằm gửi đến cho ai một thông tin gì đó. Có thể lời tỏ tình, có thể phân bua chuyện oan khuất v.v… Thơ rơi khác vè dù lằn ranh phân biệt rất mong manh. Cả hai cũng đề cập đến chuyện thời sự, cũng không hé lộ tên tác giả nhưng cách thể hiện khác nhau ở chỗ: nếu vè nêu rõ con nguời cụ thể (anh ba, chị tám…) ngụ tại địa chỉ cụ thể (làng này, xã nọ) thì thơ rơi lại không. Đành rằng, thơ rơi giấu tên tác giả nhưng người nhận là ai, trong thơ cũng không nêu cụ thể mà chỉ có những chi tiết ám chỉ để người nghe có thể tự suy luận. Người trong cuộc nghe, đọc ắt biết “thơ rơi” ấy ám chỉ mình, gởi cho mình. Bằng không, bài thơ rơi ấy vẫn tồn tại độc lập, ai thích thì cứ đọc, cứ tiếp tục truyền miệng.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu: “Dù sao thơ rơi bằng văn vần bình dân cũng đã có hơn một thời hiện diện tại vùng đất này. Nó được đem ngâm nga như nói thơ, nói vè. Nội dung của nó tuy đa số là chuyện riêng của một người, đôi khi một hạng người, nhưng nó đã góp phần biêu riếu sự gian tà, đả phá những tục hư nết xấu bằng những lời nói lớn, bằng những tiếng phân bua mạnh mẽ, để thiên hạ biết đâu là lẽ phải nên theo, đâu là điều tà nên tránh”; “Khi tư trào Quốc ngữ lên mạnh, thơ, vè, truyện, vãn lần lượt rút lui vào vị trí trân tàng chứ không còn đắc dụng như xưa nữa. Sự vây mượn thơ rơi để làm thơ tín cũng bị gạt bỏ. Người ta bắt chước theo cách viết sáng sủa, gọn ghẽ của lối văn xuôi mới. Ý nghĩa thơ rơi từ ấy cũng chỉ còn có nghĩa là một thứ thơ nặc danh dùng tố cáo hay bôi nhọ một cá nhân nào đó” (xem Diện mạo văn học dân gian Nam bộ).

Có lẽ với tiểu thuyết Lá thơ rơi, nhà thơ Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy (1902 - 1985) là người trước nhất lấy tên một thể loại thơ dân gian miền Nam đặt tựa tác phẩm của mình. Suy luận rằng, do am hiểu về tính chất của thơ rơi như đã phân tích thì cái tựa ấy đã là một yếu tố hấp dẫn bạn đọc. Hôm nọ,anh Thức, con trai nhà thơ Hồng Tiêu cho biết là đang tìm đủ bộ Lá thơ rơi (2 tập) đặng tái bản. Chắc là khó, theo y biết Thư viện Quốc Gia (Hà Nội) chỉ lưu trữ tập 2. Không rõ thư viện Quốc gia ở TP.HCM thế nào, còn còn lưu trữ tập 1 không?

Có những chuyện không đâu vào đâu.

Sáng nay, một cú điện thoại gọi đến không hiện lên tên vì trước đó không lưu. Người bên kia nói rôm rã thân mật lời cám ơn vì đã giới thiệu giúp tác phẩm anh ta lên trang web cá nhân và PN online. Và mời đi ăn sáng tại quán nọ đường kia. Nghe nhưng vẫn không nhận ra người đang trò chuyện là ai. Không rõ là ai, vẫn vác xác đến nơi theo lời mời ư? Có mà ngốc. Nhắn tin hỏi lại. Thì ra, ấy là người bạn vừa quen nhưng anh ta dùng 2 SIM nên mới có cớ sự đó. Chừng hơn mười năm trước, nhắn tin tán tỉnh cô nọ, đang du dương ngon trớn bỗng chựng lại bởi thấy số điện thoại khác lại tiếp nối nội dung vừa diễn ra. Ủa? Tại sao lại thế? Có phải chồng/ người tình của cô ta chăng? Hoảng quá. Tắt máy luôn rồi sau đó không liên hệ lại. Có nhận điện thoại, nhắn tin nhưng vẫn không dám trả lời. Biết đâu đấy. Cẩn thận vẫn hơn. Mãi nửa năm sau gặp nhau, mới biết cô ta dùng 2 SIM nhưng mọi sự đã khác trước rồi. Oái oăm thế. Chiều nay, một cú điện thoại gọi đến, không hiện lên tên người gọi. Người bên kia chẳng rõ ai nhưng nói rôm rã, thân mật vì do cô X giới thiệu. Và cho biết cô X rất quý mến y nên tha thiết mời y vui lòng đến tham dự chương trình nọ. Nghe cũng cảm động. Còn nhớ đến nhau, có lời mời vì tình bạn thì quý quá. Vậy mà. Sau khi nói một hơi, người đó không quên thòng một câu nhấn mạnh "quan trọng nhất", mời đi dự là để nhờ y đưa tin chương trình đó lên mặt báo. Thì ra thế. Bực mình quá. Tắt máy luôn.

Chỉ có sáng nay và trưa nay là vui. Sáng, phở Dậu với N.K.L. Ngồi đấu hót những chuyện trên trời dưới biển về văn chương chữ nghĩa. Trưa, Tẹo từ Đà Nẵng đem vào bún bò Huế. Đã thèm. Chiều rồi. Có lời rủ rê của người bạn thân ngồi đâu lai rai một chút. Nhưng không nhận lời, bún bò Huế ở nhà vẫn còn kia mà...Tongue out

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 11.10.2014

 

quaduadoR

Tiểu thuyết Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật - tư liệu L.M.Q

 

Trở lại với Nhật ký ngày hôm qua. Bạn bè quan tâm và thích nên mới có ý kiến “phản biện”. Y rất thích điều này. Có như thế, mới có thể tiếp cận vấn đề sâu sát hơn. Mà qua đó, còn là cái tình dành cho nhau. Hằng ngày mở mắt dậy, lập tức ngồn ngộn thông tin ùa vào trong mắt. Đọc gì? Chối bỏ cái gì? Không hề dễ dàng. Vì cái tình nên mới có ý kiến trao đổi lại, tự nhiên lòng thấy vui. Anh N.N.A trao đổi mấy ý như sau:

1.“Quốc rà lại coi "Quả dưa đỏ" "Tố Tâm" cuốn nào ra trước nha!”: Nhà văn Vũ Ngọc Phan: “...Ai cũng phải nhận rằng ông (Nguyễn Trọng Thuật) là một nhà văn có chí hướng, và lúc nào cũng muốn cho văn chương Việt Nam có cái đặc tính Việt Nam... Có một điều nên biết là Đông Dương tạp chí, chưa có truyện dài do người Việt Nam soạn, và Nam Phong tạp chí cũng thế, phải đợi cho đến khi Quả dưa đỏ của ông ra đời mới có truyện dài do người Việt Nam viết để đăng, còn trước kia người ta chỉ đăng toàn tiểu thuyết dịch, thỉnh thoảng mới có một vài truyện ngắn viết. Như vậy, trong buổi đầu, thật có rất ít người Nho học lại có óc sáng kiến như Nguyễn Trọng Thuật. Nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân: “...Với tác phẩm Quả dưa đỏ, Nguyễn Trọng Thuật được coi là một trong những nhà văn tiên phong viết tiểu thuyết bằng Quốc ngữ ở miền Bắc”.

Sở dĩ anh A có câu hỏi này, có lẽ do thông tin y đưa ra dễ gây tranh cãi: Tố Tâm của Song An Hoàng Ngọc Phách ấn hành năm 1925 được ghi nhận là tiểu thuyết đầu tiên, mở đầu cho văn học Việt Nam hiện đại.

Được biết, Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật cũng in năm 1925, được giải thưởng của Hội Khai Trí Tiến Đức, giải nhì (không có giải nhất); ngoài ra còn có 2 tác phẩm khác được nhận “lời khen”, chứ không trao giải thưởng là Kim Anh lệ sử của Nguyễn Văn Ích; Nho phong của Nguyễn Tường Tam (sau này ký bút danh Nhất Linh).

Cùng ấn hành trong một thời điểm, không nhận bất kỳ giải thưởng nào nhưng Tố Tâm có một vị trí khác: ngay từ lúc mới in từng kỳ trên tạp chí của Hội Cao đẳng Ái hữu năm 1923 rồi hai năm sau in thành sách, Tố Tâm lập tức tạo nên dư luận dữ dội. Đọc lại tài liệu cũ, ta thấy hầu hết trên mặt báo, các nhà văn đương thời đều có bài phê bình, nhận định khen chê đủ mọi chiều. Sau đó, Tố Tâm còn tái bản nhiều lần, theo Hoàng Ngọc Phách - đường văn và đường đời (NXB Văn Học -1996) chỉ tính đến năm 1988 đã có 24 lần in (chưa thống kê đầy đủ). Bổ sung thêm: Năm 2000, soạn giả Nhị Kiều đã chuyển thể Tố Tâm thành tuồng cải lương, sản xuất dưới dạng băng video, nghệ sĩ Ngọc Huyền đầu tư vốn. Tố Tâm nổi tiếng do lần đầu tiên có một tác phẩm văn học đòi hỏi tự do luyến ái, đặt vấn đề xung đột giữa tình yêu và bổn phận, cá nhân và gia đình.Tố Tâm ứng vào cái điệu sầu của thời đại” (Phạm Thế Ngũ). Nhân vật Tố Tâm không lấy Đạm Thủy vì hiếu với mẹ, song ái tình đeo đuổi khiến cô đổ bệnh thổ huyết mà chết. “Đọc Tố Tâm ta phải nhận thấy chỗ  kém hèn của luân lý nhà nước, vì nó mà một vị giai nhân phải giả từ trần thế để lại một bực tài tử sông mà nuốt lệ” (Thiếu Sơn).

Quả dưa đỏ lại khác hẳn, Nguyễn Trọng Thuật quay về với nhân vật An Tiêm với các tình tiết đã có từ cổ tích. Mà cách viết vẫn chưa thoát khỏi tiểu thuyết chương hồi, thỉnh thoảng đang miêu tả phong cảnh, tác giả bèn cảm tác: “Thật là:

Bốn bề sóng vỗ như non

Đảo tròn một quả rập rờn như phao”

Hoặc đang lúc đối thoại nhưng “An Tiêm bèn ngâm rằng…”. Thơ lục bát xen kẽ khá nhiều trong các câu văn du dương rất hợp với tiêu chí chọn bài của tạp chí Nam Phong thuở ấy - thuở các ông Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Bá Học… viết văn. Tố Tâm khác hẳn. Từ văn phong đến kết cấu đã rành rạch và “Tây” hơn nhiều. Không phải ngẫu nhiên, nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi khẳng định Hoàng Ngọc Phách, với Tố Tâm: “Ông là người cắm mốc quan trọng cho trào lưu văn học lãng mạn, cũng là một đại biểu khởi đầu đích thực của tiểu thuyết hiện đại Việt Nam” (SĐD, tr.9); quan điểm này còn có thể tìm thấy trong Từ điển văn học (bộ mới).

Trước đây, năm 1968 tại miền Nam, NXB Mặc Lâm do thi sĩ Đông Hồ chủ trương có tái bản Quả dưa đỏ. Phần cuối có in thêm bài thơ ông viết năm 1927 tặng Nguyễn Trọng Thuật:

Cầm gươm xới đất trồng dưa

Quản chi dãi nắng dầu mưa giữa trời

Quốc hoa nở nhụy ra đài

Quốc văn để lại cho ai tấm lòng

v.v…

Dường như nhà văn Tô Hoài cũng lấy cảm hứng từ nhân vật An Tiêm thì phải. Một tác phẩm ra đời, giá trị của nó không nằm ở giải thưởng, thậm chí ở thời điểm phát hành xê xích vài năm, vấn đề cốt lõi nhất là nó phải phản ánh được không khí, hơi thở, tiếng nói, tâm tư của thời đại đó. Để nâng lên tầm kiệt tác, tác phẩm đó phải vượt ra ngoài thời đại. Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là một thí dụ. Từ Đông sang Tây, thời đại nào lại không có những thằng Xuân Tóc Đỏ - đứa con ra đời từ cuộc “hôn phối” của giá trị cũ đang rệu rã, thậm chí trở thành trò cười trong cơn lốc hiện đại hóa với toàn bộ mặt trái chó đểu, lưu manh, ba que xỏ lá của nó?

2.Câu này :"Trưa qua, bất ngờ khi đọc thấy cụm từ mới “Bò lai sim”! “Sim” là từ mới du nhập, từ khi có điện thoại di động. Thế thì, tại sao “bò” lại có thể lai với “sim”? Vô lý quá, phải không?" "Sim" sao là từ mới du nhập được? "Cây sim rừng sim" đã có từ lâu. Chỉ là du nhập nghĩa mới của từ "sim" thôi. HeheTongue out”.

Anh A nói đúng. Từ “sim” đã có từ lâu, đi vào thơ ca nhạc họa mà nổi tiếng nhất có lẽ Màu tím hoa sim (Hữu Loan), Thu hát cho người (Vũ Đức Sao Biển)… Từ khi có điện thoại di động, lập tức, “sim” trở thành đồng âm dị nghĩa. Tra cứu lại một loạt từ điển gần đây, kể cả từ điển bao gồm các từ mới, hoàn toàn không thấy ghi nhận từ “sim” với ý nghĩa: “SIM viết tắt của cụm từ: Subscriber Identification Module = vật được tiêu chuẩn hóa nhằm nhận dạng người đăng ý thuê bao điện thoại”. Chà, y học tiếng Anh lúc nào mà giải thích ngon cơm ngọt canh quá ta? Không đâu, nhờ nàng trả lời giúp. Rõ ràng, từ điển luôn đi sau sự ra đời của các loại từ mới, hoặc từ cũ mang nghĩa mới.

Nhân đây, cũng trở lại với các nhà văn tiên phong Nam bộ. Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan còn bỏ sót nhiều lắm. Không thể trách, bởi ngày trước sự giao lưu văn hóa chưa thuận tiện như hiện nay nên ông không thể có đầy đủ các tài liệu để ghi nhận, đánh giá… Ông xếp “Những nhà văn tiên phong” gồm có "các nhà biên khảo: Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Lê Dư, Phan Khôi, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Quang Oánh, Nguyễn Văn Tố, Đào Duy Anh; các nhà văn: Hoàng Ngọc Phách, Hồ Biểu Chánh; các nhà thơ: Nguyễn Khắc Hiếu, Đoàn Như Khuê, Dương Bá Trạc, Trần Tuấn Khải”. Danh sách đó chỉ có 1 nhân vật của Nam bộ là Hồ Biểu Chánh. Mà khi phê bình, ông chỉ dựa vào tác phẩm của Hồ Biểu Chánh đăng trên Phụ Nữ tân văn (PNTV), chứ không từ một tác phẩm cụ thể đã in. Điều đó cho thấy, sách truyện in tại miền Nam đầu thế kỷ XX chưa phát hành rộng rãi ra Bắc hoặc nếu có, số lượng cũng không đáng kể.

Thời đó, báo PNTV tại Nam kỳ đang giai đoạn “đỉnh cao” nên được độc giả ngoài Bắc chú ý là cũng phải thôi. Sở dĩ như thế, một phần do PNTV in ấn tại Nam kỳ nên được hưởng quy chế báo chí “xứ thuộc địa”, thoáng hơn những người làm báo ở “xứ bảo hộ” Bắc kỳ và Trung Kỳ. Ai đời, cuộc khởi nghĩa lừng lẫy Yên Bái do anh hùng Nguyễn Thái Học lãnh đạo gây tiếng vang sang tận Pháp, một ký giả người Pháp đã viết sách ca ngợi hết lời gây chấn đông Đông Dương nhưng độc giả ngoài Bắc chỉ có thể biết rõ thông tin từ tờ PNTV trong Nam phát hành ra Bắc! Người miền Nam làm báo giỏi nhưng làm lại không mấy ai chịu khó tổng hợp, phân tích, hệ thống lớp lang một giai đoạn báo chí hoặc văn học. Vì lẽ đó, về các nhà văn tiên phong Nam bộ, thế hệ sau căn cứ vào Nhà văn hiện đại là vậy, dù còn nhiều thiếu sót.

Dăm năm trước nhà nghiên cứu Cao Xuân Mỹ đã bắt tay làm tuyển Văn xuôi Nam bộ đầu thế kỷ 20 (NXB Văn Nghệ TP.HCM - 1999). Chỉ mới dừng lại 2 tập nhưng đã lên đến gần 2.000 trang in với các nhà văn:  Nguyễn Trọng Quảng, Hồ Biểu Chánh, Phú Đức, Nguyễn Bửu Mọc, Việt Đông, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Quang Nghiệp, Sơn Vương, Tuấn Anh và Bửu Đình.

Dù còn thiếu nhưng nếu so với danh sách của Vũ Ngọc Phan, ta thấy gì?

Ủa, sao cứ nói chuyện văn chương chữ nghĩa vậy hè? Y hỏi y và y tự trả lời: Thì văn chương đang là “thời thượng” đó cưng à. Bằng chứng, sáng nay báo TT rút tít to đùng ngay trang 1: “Dùng môn văn xét tuyển ngành y?”. Theo đó, “Tại hội nghị Hội đồng hiệu trưởng các trường ĐH y dược tại Hà Nội ngày 10-10, lãnh đạo một số trường ĐH y đề xuất sử dụng môn văn để xét tuyển vào trường y.Việc thi theo khối lâu nay khiến thí sinh học lệch”. Bà Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến cho biết: “Môn văn rất cần cho cán bộ ngành y, giúp việc nói năng lưu loát, diễn đạt văn bản rõ ràng, đúng ngữ pháp. Không nói đâu xa, nhiều đồng chí chuyên viên ở bộ làm công văn vẫn sai ngữ pháp. Có lúc tôi nói vui: rất dễ đứt mạch máu não khi đọc nguyên bản những văn bản này”.

Rằng hay thì thật là hay...

 

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Trang 32 trong tổng số 58