Khi bước vào loan phòng của đêm “động phòng hoa chúc’, đôi vợ chồng son thường nhủ thầm trọng bụng: “Phen này, trai hay gái cũng được. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Nhưng rồi…
Thời gian vùn vụt trôi qua như một cú ckick chuột trên bàn phím. Chỉ trong nháy mắt, trong căn nhà đã có tiếng khóc oe oe. Có cả nếp lẫn tẻ. Gái lẫn trai. Cả nội lẫn ngoại ríu ra ríu rít ẵm bồng, “thơm” cháu, nững cháu và khen giống bố lẫn mẹ…
“Chúng mình cưới nhau nhé?”. Sau câu nói âu yếm và nũng nịu ấy, chàng và nàng gật đầu ngay tắp lự, không cần phải suy nghĩ gì thêm. Mệt óc. Yêu là cưới. Đơn giản vậy thôi. Yêu dạt dào. Tình phơi phới. Lý trí ư? “đi chỗ khác chơi”. Ngay sau đó, họ tổ chức rình rang, đầy đủ mọi nghi thức. Đàng hoàng. Sang trọng. Vui vẻ. Hạnh phúc. Sau một tuần trăng mật, cả hai giật mình tự hỏi: “Ủa? Chuyện gì đã xẩy ra?”. Cuối cùng, họ lặng lẽ chia tay nhau vì… đã tỉnh "rượu"!
Khi đang say men tình ái, dù dãy khăn đen đã bịt mắt nhưng con người ta vẫn hân hoan lao ra biển khơi và có thể bay lên trời. Họ chăm bẳm “Rước em lên đồi, cỏ hoang ngập lối. Rước em lên đồi, hẹn với bình minh” (P.D) mà không cần phải tính toán, so đo những gì sau đó. Dẫu nàng “đi chợ thì hay ăn quà”, cũng chẳng hề gì: “Chồng yêu chồng bảo về nhà đỡ cơm”. Dẫu nàng “Đêm nằm thì ngáy o o”, gớm, có gì mà lớn chuyện? “Chồng yêu, chồng bảo: ngáy cho vui nhà". Rõ ràng, lúc ấy, chỉ có hình ảnh chàng (hoặc nàng) choáng ngợp trong trí óc với những gì đáng yêu nhất, đẹp đẽ nhất.
“Em ơi, nếu mộng không thành thì sao? Mua chai thuốc chuột uống cho rồi đời”, nghe sếp câu hát boléro bằng giọng nhão nhoẹt là chúng tôi phá lên cười vui vẻ. Sếp vui tính thật. Trong công việc, sếp rất nghiêm, thậm chí có pha một chút gia trưởng, nhưng khi đàn đúm hát hò karaoke với các anh chị em trong cơ quan, sếp vui ra phết. Được làm việc trong một cơ quan có không khí thân mật, hòa nhã ai cũng thích. Thích nhất là sếp luôn quan tâm đến mọi người, và đặc biệt chỉ dành cho riêng… tôi!”.
Trong đời, hầu như bất kỳ người đàn ông nào cũng có một (hoặc nhiều người đàn bà), ở phía sau và lặng lẽ. Họ không xuất hiện thường xuyên với chồng nơi bá quan văn võ, nếu có cũng đóng một vai trò nhún mình và gần như không nhất thiết phải khẳng định gì về sự có mặt. “Thuận vợ thuận chồng, tát biển đông cũng cạn”. Điều này lúc nào cũng không sai. Suy nghĩ ấy trúng chóc và trở thành câu nằm lòng của nhiều đôi lứa.
Ai là người đầu tiên đã nghĩ ra từ “cơm” và “phở” để chỉ quan hệ trong và ngoài luồng của người đàn ông? Có trời mà biết. Tại sao lại chọn phở chứ không là món ăn gì khác? Ta hãy nghe một nhà văn bậc thầy thuộc hàng thượng thừa sử dụng tiếng Việt nói về phở: “Mùa nắng ăn một bát, ra mồ hôi, gặp cơn gió nhẹ chạy qua mặt lưng, thấy như giời quạt cho mình. Mùa đông lạnh, ăn bát phở nóng, đôi môi tái nhợt thắm tươi lại...” (Nguyễn Tuân). Rõ ràng, xuân thu nhị kỳ, mùa nào con người ta cũng có thể dùng phở. Trong Món ngon Hà Nội, nhà văn Vũ Bằng đã “định nghĩa” một cách tinh tế, phở là “món quà căn bản”.
Tôi sống với Đà Nẵng bằng những hoài niệm và thương nhớ. Mới hôm qua thôi, khi còn nằm trên căn gác trọ đìu hiu ở Sài Gòn, tôi đã viết:
Lời đầu tiên tôi muốn nói với em
Gặp Đà Nẵng là tôi thèm đi học
Trong dòng chảy tất bật của ngày tháng, bỗng có một chiều thong dong đi trên phố, ngước nhìn vòm cây xanh, dòng người đi tấp nập, ta chợt kêu lên: “Tết đến rồi”. Tiếng gọi thầm dù không vang vọng, nhưng đủ đem lại một cảm giác lạ lùng. Có thể là cảm giác của người đi xa nhớ về đoàn tụ; của đứa trẻ hồi hộp chờ phong bì đỏ có tiền mừng tuổi; của những người tha hương mơ về bếp lửa ấm… Những cảm giác ấy, với tôi, cũng rạo rực như lần đầu tiên hò hẹn với người tình. Biết bao là hân hoan, xao xuyến và bấm đốt ngón tay mà đếm từng ngày. Đếm từng ngày đợi Tết.
Ảnh: Việt Tuấn Trinh
“Đất lành chim đậu”. Sài Gòn là một vùng đất như thế. Năm tháng sinh viên, tôi đã có những ngày lang thang trên “ngựa sắt” khắp hang cùng ngõ hẻm của chốn phồn hoa đô hội này. Và đã yêu một người yêu một người.
Xin cám ơn con ngựa sắt cà tàng
Rong ruổi theo em chưa hề bỏ cuộc
Chiếc xe đạp như một vần thơ
Chuyên chở tôi đi tỏ tình khó nhọc
Ai cũng có hoa trái của một thời tuổi trẻ trong mộng mị lẫn đời thường. Hoa trái thơm tho như mắt môi của một người con gái ấy. Gặp một người, yêu một người. Và chúng tôi đã có kế hoạch nên duyên sắt cầm. Năm 1987, tôi viết bài thơ Nơi em về làm dâu.
Trong một tập tùy bút của Nguyễn Tuân, ông có lấy câu văn của nhà văn nước ngoài làm đề từ, đại khái: ước gì sau khi chết đi, người ta lấy da mình thuộc làm va li. Để làm gì vậy? Để chiếc va ly ấy tiếp tục được theo người viễn du đến những chân trời mới. Với ý tưởng ấy, Nguyễn Tuân đã đã triển khai thêm một ý mới hẳn: “Cái va ly đẹp nhất ở cuộc đời này vẫn là một cái va ly chứa toàn bản thảo của những năm, những tháng đi làm việc thui thủi ở phương xa trở về”. Đó là quan niệm “đi để viết”. Phóng tầm mắt đến những chân mây cuối trời để đem về những câu văn tươi rói.
Trang 58 trong tổng số 60