Tôi sống với Đà Nẵng bằng những hoài niệm và thương nhớ. Mới hôm qua thôi, khi còn nằm trên căn gác trọ đìu hiu ở Sài Gòn, tôi đã viết:
Lời đầu tiên tôi muốn nói với em
Gặp Đà Nẵng là tôi thèm đi học
Trong dòng chảy tất bật của ngày tháng, bỗng có một chiều thong dong đi trên phố, ngước nhìn vòm cây xanh, dòng người đi tấp nập, ta chợt kêu lên: “Tết đến rồi”. Tiếng gọi thầm dù không vang vọng, nhưng đủ đem lại một cảm giác lạ lùng. Có thể là cảm giác của người đi xa nhớ về đoàn tụ; của đứa trẻ hồi hộp chờ phong bì đỏ có tiền mừng tuổi; của những người tha hương mơ về bếp lửa ấm… Những cảm giác ấy, với tôi, cũng rạo rực như lần đầu tiên hò hẹn với người tình. Biết bao là hân hoan, xao xuyến và bấm đốt ngón tay mà đếm từng ngày. Đếm từng ngày đợi Tết.
Ảnh: Việt Tuấn Trinh
“Đất lành chim đậu”. Sài Gòn là một vùng đất như thế. Năm tháng sinh viên, tôi đã có những ngày lang thang trên “ngựa sắt” khắp hang cùng ngõ hẻm của chốn phồn hoa đô hội này. Và đã yêu một người yêu một người.
Xin cám ơn con ngựa sắt cà tàng
Rong ruổi theo em chưa hề bỏ cuộc
Chiếc xe đạp như một vần thơ
Chuyên chở tôi đi tỏ tình khó nhọc
Ai cũng có hoa trái của một thời tuổi trẻ trong mộng mị lẫn đời thường. Hoa trái thơm tho như mắt môi của một người con gái ấy. Gặp một người, yêu một người. Và chúng tôi đã có kế hoạch nên duyên sắt cầm. Năm 1987, tôi viết bài thơ Nơi em về làm dâu.
Trong một tập tùy bút của Nguyễn Tuân, ông có lấy câu văn của nhà văn nước ngoài làm đề từ, đại khái: ước gì sau khi chết đi, người ta lấy da mình thuộc làm va li. Để làm gì vậy? Để chiếc va ly ấy tiếp tục được theo người viễn du đến những chân trời mới. Với ý tưởng ấy, Nguyễn Tuân đã đã triển khai thêm một ý mới hẳn: “Cái va ly đẹp nhất ở cuộc đời này vẫn là một cái va ly chứa toàn bản thảo của những năm, những tháng đi làm việc thui thủi ở phương xa trở về”. Đó là quan niệm “đi để viết”. Phóng tầm mắt đến những chân mây cuối trời để đem về những câu văn tươi rói.
Có những giá trị văn hóa của một dân tộc, dù đã ngàn năm đi qua nhưng vẫn không thay đổi. Chẳng hạn, nghĩa vụ và đạo làm con. Từ ngàn xưa, trong tâm thức của người Việt, chữ hiếu luôn được coi trọng và đó là một trong những phẩm chất cần thiết khi đánh giá về tư cách, đạo đức của một con người. Ta có thể khảo sát qua lời ăn tiếng nói trong dân gian:
Ảnh ba mẹ Lê Minh Quốc chụp thời trẻ (khoảng năm 1969)
Đất miền Trung không cằn cỗi tiếng chim
Em cứ hồn nhiên ra sông gánh nước
Hình ảnh quê nhà đã trở về trong ký ức của tôi bằng những câu thơ từ tháng năm ngồi ở giảng đường đại học. Câu thơ vọng lên dịu dàng, nhưng thấp thoáng một chút bùi ngùi trong trí nhớ. Những sáng mưa trắng trời. Những chiều mưa xối xả. Đó là nắng mưa của miền Trung mà phương ngữ có câu:
Sách Quốc văn giáo khoa thư
Một chuyến đi du lịch của người thân (Mỹ)
“Mưa chi mưa mãi
Lòng biết thương ai
Trăng lạnh về non không trở lại
Mưa chi mưa mãi
Lòng nhớ nhung hoài
Nào biết nhớ nhung ai
Mưa chi mưa mãi
Buồn hết nửa đời xuân
Mộng vàng không kịp hái...”
“Mệt quá đôi chân này. Tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi”. Đơn giản tưởng chừng như sống thì phải thở, đói thì ăn, mệt thì nghỉ. Nhưng mấy khi ta dám nghỉ ngơi giữa một ngày tất bật, ồn ào, đua chen, náo nhiệt đang giăng lưới vây bủa trong từng khoảnh khắc? Than ôi, cái sự bận bộn ấy cũng có thể do chính ta tự tạo ra đấy thôi. Ta quên nghỉ ngơi, quên tĩnh lặng để nhìn lại mình, nhìn lại thiên nhiên từng mùa nắng đẹp đang vô tư đến và cũng đang đi như một lẽ tự nhiên. Trong cái đời sống của một công chức mẫn cán, đôi lúc tôi đã quên hẳn đi một góc vườn nhỏ nhoi đã từng hằn vết trong trí nhớ tuổi nhỏ.
Tranh sơn dầu LÊ MINH QUỐC
Một
Hương thơm trinh nữ? Ồ không phải
Hương phở thơm đầy những sớm mai.
Thi sĩ Tản Đà là người sành ăn vào bậc nhất. Có lẽ, ông là người đầu tiên đã “phát hiện” ra... chân lý: Thức ăn ngon nhưng chỗ ngồi không ngon thì ăn không ngon, thức ăn ngon nhưng không có bạn đồng điệu thì ăn không ngon, thức ăn ngon nhưng bát đũa không sạch sẽ thì ăn cũng không ngon... Biết đại khái như thế thì mới thấy nghệ thuật về ăn quả là không dễ.
Phở gánh - tranh lụa của danh họa Nguyễn Gia Trí
Thế nào là người Sài gòn? Câu trả lời không dễ dàng. Xin hãy nghe nhà văn Sơn Nam: "Nên khẳng định hộ khẩu ở Sài Gòn, ông bà đến Sài Gòn từ đôi ba đời là tốt, nhưng vẫn chưa đủ. Nhiều người ở vùng Sài gòn từ nhiều đời, nhưng con cháu lần hồi suy thoái, không theo kịp thời cuộc đã trở nên "xơ cứng", chỉ là dân Sài Gòn về thể xác. Ngược lại, người tuy mới cư ngụ ở Sài Gòn từ năm, bảy năm nhưng đã là "dân Sài Gòn", vì đã kịp thời thích ứng, ngày càng hiểu thêm về vùng đất mình đang sống và ra sức tô điểm thêm". Quan niệm này, chắc hẳn được nhiều người đồng tình.
Ảnh chỉ mang tính minh hoa. Tư liệu L.M.Q
Trang 58 trong tổng số 59