VĂN -UYỄN
TRINH TIẾT
Danh tiết xưa kia mà biết mấy thu ?
Nghe quyên khắc khoải tiếng tư -phu.
Mày ngài hoa ủ sầu khôn tả,
Má phấn châu rơi giọt dể khô.
Chúc nghĩa đã nguyền vừng ngọc -thỏ,
Tấm lòng phó mặc bóng kim -ô.
Thâu đêm mang tiếng rằng kia nọ,
Dạ sắt gan vàng dễ biết đâu !
Vô Danh.
TRÁCH XUÂN
Xuân một năm là mới một lần,
Sự xuân tôi chửa thấu lòng xuân,
Cũng màu thắm ấy màu xanh ấy.
Sao chỗ hơn phân chỗ thiệt phân ?
Dễ khiến má hồng lo áy náy,
Thêm thương đầu bạc nghĩ tần ngầu.
Thôi thôi chớ tiếc xuân qua cỏi,
Xuân ở cùng ta biết mấy lần ?
VÔ DANH.
BỊNH -LỬ THUẬT -HOÀI
Trót bảy ngày thâu trọ xứ ngươi,
Tiềm tòi tri -kỷ mỏi con người,
Hỏi ra ai nấy đều đa bịnh,
Nghĩ lại mình đây cũng bất tài.
Con tạo đèo bòng ba cái xác,
Anh -hùng thoi thóp mấy lâm hơi.
Xưa nay hỏi lại bao nhiêu kẻ,
Thạo bước phong -trần lắm tả tơi.
Nguyễn -Thành -Phương .
MONG CHÚC CHO PHỤ NỬ TÂN VĂN
Nước văn- hiến bốn ngàn năm lẻ,
Mà nử- lưu buồn- tẻ dường nao !
Ðời nay kịch- liệt phong- trào,
Chị em ơi hỡi, lo sao kịp người !
Ðàn anh đã đua- đòi tấn- bộ,
Chị em mình há nở ngồi nhìn ?
Chàng dầu chẳng nại tữ sinh,
Thiếp nên cũng quyết trọn tình sắt son !
Trai với gái đều con của nước,
Gái như trai đều được phần lo.
Xin ai chớ nói "liểu- bồ",
Phấn son chẳng quản nước nhà thạnh suy !
Kìa ! thanh- sử còn ghi lắm việc,
Hiếm chi là nử- kiệt nữ- anh !
Giữ cho xứng- đáng thân- danh:
Cháu con Trưng, Triệu mới đành lòng nhau...
Ước sao "Như- ý- sỡ- cầu " !
CAO CHÁNH
Vịnh Bà NGUYỄN- THỊ- KIM
Tiểu sử - Bà là Hoàng- phi vua chiêu- Thống đời nhà Lê. Hồi vua Lê thua binh Tây- Sơn, phải chạy trốn sang Tàu, bà chạy theo không kịp, phải trở về nương náu ở trong dân- gian, nhà tranh vách đất, thủ tiết mười mấy năm trời. Ðến khi vua Lê mất ở bên Tàu, người ta đem hài cốt về nước, bà ra lạy ở trước linh- cửu vua trước chồng xưa, rồi uống thuốc độc chết.
Dung rủi quan- hà lạc chúa- công,
Ngọn mây non bắc tuyệt mù trông.
Bồng- mao (1) tạm lúc nương thân liễu,
Kinh- khuyết (2) may sau thấy mặt rồng.
Thác nghĩa đã ghi cùng sắt đá,
Sống thừa còn thẹn với non sông.
Thôi thôi củ đây là hết !
Năm lạy linh- tiền (3) chứng thiếp trung.
DƯƠNG- BÁ- TRẠC.
HỎI TRĂNG
Trăng ơi ! trăng hởi ! Bóng trăng tròn,
Có thấu tình ta với nước non ?
Khuya sớm mơ màng hồn thủy- vủ;
Ðêm ngày ngây ngất bóng hoàng- hôn.
Cầm trăng ngảnh lại lòng buồn rức,
Chi- tứ trông ra khí uất dồn.
Hỏi bóng trăng kia sao chẳng đoái,
Tấm lòng bức tức, dạ bôn- chôn.
QUỐC- HOA nữ- sĩ, di- cảo
(1) Bồng- mao- nhà tranh.
(2) Kinh- khuyết- là cung điện ở kinh thành nhà vua.
(3) Linh- tiền- ở trước linh- cữu.
KHẢO VỀ VIỆC NỬ - TỮ GIÁO - DỤC CỦA NƯỚC NHỰT - BỔN.
Ðàn bà ở Phương Ðông ta ngày nay, chỉ có một mình đàn bà nước nhựt là tiến - bộ hơn hết. Trong các phương diện nào là họ cũng tiến - bộ một cách lạ lùng. Ta đã từng nghe nói đàn bà nhựt đậu tới bác sĩ, chủ - trương một xưởng công - nghệ lớn ; hay là ra ứng cữ hạ -nghị -viên; hay là định ngồi máy bay vượt qua Thái -bình -dương, danh tiếng của họ lẩy lừng trong bốn biển năm châu, đã chẳng kém gì chị em ở Âu Mỹ, mà họ còn tự nhận là bực chị của phụ nữ ở Phương Ðông nầy. Vì sao mà họ tiến bộ mau mắn như vậy? Ðó là một vấn - đề mà chị em nước ta nên biết.
Ðàn bà Nhựt-bổn mà đi tới trình - độ như ngày nay, là nhờ việc nữ - tử giáo dục của họ đã dày công- phu lắm. Nhơn đọc cuốn " Nhựt - bổn khai - quốc ngủ thập niên sữ " của bá- tuớc đại- ôi trọng- tínchép về việc nữ- tử giáo- dục kỹ lưởng lắm, vậy xin lược thuật ra đây, để cống- hiến cho chị emmột cái gương phụ- nữ tiến - hoá.
< Lùi | Tiếp theo > |
---|