BÁO CHÍ Lê Minh Quốc viết

Lê Minh Quốc: VÀI KỶ NIỆM CÙNG NHÀ THƠ THY NGỌC


1.


Lần đầu tiên tôi biết đến nhà thơ Thy Ngọc là nhờ đọc một đoạn ngắn trong quyển Thơ Việt Nam hiện đại (NXB Hồng Lĩnh, Sài Gòn - 1969) của Uyên Thao phát hành tại miền Nam. Sau này gặp ông, tôi cảm thấy ông không khác xa bao nhiêu trong trí tưởng tượng tuổi thơ của tôi. Đó là nhà thơ hiền lành, đôn hậu và dễ mến. Còn nhớ, khi kỷ niệm tuổi “cổ lai hy”, ông đã cho xuất bản tập Thơ tặng cháu (NXB Kim Đồng) và tự bạch:

 

thy-ngoc

Bìa tập sách phát hành nhân dịp giỗ đầu nhà thơ Thy Ngọc (1925 - 2012)

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Lê Minh Quốc: TẤM LÒNG CỦA NHÀ VĂN NGUYỄN CÔNG HOAN DÀNH CHO TRẺ EM


Từ thuở văn xuôi viết bằng chữ quốc ngữ còn chập chững đi những bước đầu tiên, nhà văn Nguyễn Công Hoan đã xuất hiện. Sự có mặt của tập truyện ngắn Kiếp hồng nhan xuất bản năm 1923 đã ghi nhận điều này. Trong trào lưu của dòng văn học hiện thực phê phán, bằng tác phẩm của mình, ông đã khẳng định vị trí hàng đầu và được xem như một trong những người đặt nền móng cho nền văn học bằng những tác phẩm xuất sắc nhất. Hơn 50 năm cầm bút. Ông đã có dành một khoảng thời gian để sáng tác cho thiếu nhi. Trong hồi ký Đời viết văn của tôi (NXB Văn Học 1971) có đoạn ông viết: "Lại một người bạn của tôi là Nguyễn Đức Phong, tức Thái Phỉ, xuất bản tờ báo nhi đồng lấy tên là Cậu Ấm. Báo Cậu Ấm đăng hai truyện dài và một truyện ngắn. Một truyện dài là Tấm lòng vàng" (tr. 181). Xin đặt câu hỏi: - Ngoài tác phẩm đã nêu trên thì một truyện dài và một truyện ngắn còn lại tên gì?

 

NgCongHoan

Nhà văn Nguyễn Công Hoan (1903-1977)

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Lê Minh Quốc: KỶ NIỆM 30 NĂM SINH VIÊN KHOA NGỮ VĂN (niên khóa 1983 - 1987)

 

1RR

Từ trái: Trương Nam Hương, Thu Thủy, Ái Linh, thầy Võ Văn Nhơn, Ngô Thu An, Quốc Hương, Lê Minh Quốc


Ngày hôm qua đáng nhớ. Kỷ niệm 30 năm ngày vào học Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp TP.HCM. Niên khóa 1983-1987. Cụ thể, ngày đó là ngày nào? Một bạn cho biết, đó là ngày 3.10.1983 các tân sinh viên họp mặt tại làng Đại học. Thời đó, 2 năm đầu học tại đây; 2 năm sau chuyển về cơ sở Đinh Tiên Hoàng. Thời gian thấm thoát như bóng ngựa vụt ngoài cửa sổ, cứ nghĩ, chỉ một giấc ngủ trưa. Bừng con mắt dậy. 30 năm trôi qua cái vèo. 30 năm nhìn lại, bạn bè đã chồng/ vợ đề huề, sinh con đẻ cái, thậm chí có người đã lên chức nội/ ngoại.

Khiếp, thế mới biết thời gian chẳng chờ đợi một ai. Cứ lừng lững đi qua và nghiến nát tất cả chúng ta.

Khiếp, các gương mặt chẳng hề xa lạ chút nào, lúc gặp nhau vẫn nhớ như in, chẳng ai thay đổi gì. Có lẽ, hình ảnh bạn bè đọng trong trí nhớ là thế nên gặp nhau chỉ thấy như thuở nào.

Khiếp, cứ như cái thời trai trẻ mới vào trường bởi cũng là những câu chuyện vừa rôm rã lại vừa thân thiết của kỷ niệm.

Bạn bè từ Tiền Giang, Tây Ninh, Đồng Nai… có mặt. Thầy chủ nhiệm Võ Văn Nhơn cũng về dự.

Có thể nói, niên khóa 1983  - 1987 là thế hệ vàng, thế hệ lãng mạn cuối cùng của sinh viên thế kỷ XX.

Bởi sau đó, cả nước đã bắt đầu Đổi mới. Đời sống sinh viên cũng khác. Làm sao quên những đêm khuya đốt lửa giữa sân trường, vùi trong lửa là những củ khoai, củ sắn ăn đỡ đói mà bàn chuyện văn chương. Làm sao quên những lúc đang học, vài ba sinh viên lẻn ra khỏi giảng đường, chạy tọt xuống nhà bếp chờ xin cơm cháy. Do cơm nấu trong nồi quân dụng nên miếng cháy to đùng. Quý lắm. Có được “chiến lợi phẩm” là đem về chia nhau cho bạn bè. Nhai ngấu nghiến. Thèm thuồng. Làm sao quên những buổi trưa tan học, uể oãi bước vào nhà ăn tập thể. Khi cửa phòng mở ra, sinh viên ùa vào là cả binh đoàn ruồi từ các thau cơm bay tán loạn, sà luôn vào tô canh không người lái. Làm sao quên những ngày đạp xe từ Thủ Đức về Sài Gòn tìm mua những quyển sách hay. Muốn mua sách phải chìa tấm thẻ sinh viên ra và đứng xếp hàng chầu chực cả mấy tiếng đồng hồ.

Lại nhớ những ngày lăn lê bò toài học quân sự. Nằm dài trên cỏ nhìn trời xanh mây trắng mà làm thơ, viết văn. Những bài thơ tình của biết bao mối tình đơn phương. Mối tình trong tưởng tượng. Ngày hôm qua bạn bè còn nhắc lại bài thơ này, bài thơ kia. “Tiếc quá, nếu hồi đó bọn em giữ lại thì quý quá anh nhỉ?”. Chỉ cười khì khì với nhau. Rồi nhớ những ngày cuối tuần đạp xe về Sài Gòn, lang thang chán chê và đến trưa láu cá vào trong chùa xin cơm, nếu không, chỉ cái bụng đói meo quay ngược lại trường. Thời đó thơ mộng, nhiều mơ mộng nhưng khốn khổ quá. Nghèo quá. Cả đất nước còn nghèo. Còn nhớ, mỗi dịp cuối năm mua vé về quê là một cực hình. Phải thức cả đêm xếp hàng, đến lúc rạng sáng, đến lượt mình là hết vé! Mỗi sáng bước vào giảng đường là cái bụng đói meo. Lúc nào cũng thấy đói. Thời bộ đội mà còn khá hơn, bởi có lúc còn săn bắn được thú rừng cải thiện bữa ăn. Thời sinh viên thì chịu chết. "Chữ ký đẹp bởi nhiều lần ký nợ là rất thật. Hầu như các quán dọc ký túc xá đều nhẵn mặt các sinh viên ký sổ. Ước mơ lớn nhất vẫn là tô phở, là bữa cơm sườn. Vậy mà trong câu chuyện lúc nào cũng bàn về những chân trời xa vời vợi. Chân trời của niềm say mê văn chương lúc nào cũng thôi thúc trong lòng. Có lần, y nhớ lại:

Có những đêm khuya cô độc một chỗ ngồi

Cúi gằm vào trang sách

Chữ chạy lên trời còn chúng tôi thấy bóng mình lênh đênh trên vách

Mà cười chua chát như không

Có đêm khuya với mơ ước viễn vông

Được lội ngược dòng văn chương cổ điển

Để gặp một Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến...

Cũng từng lều chõng

Cũng từng có nhiều đêm lạnh cóng

Mượn sách thánh hiền sưởi ấm giấc mơ

Chúng tôi học văn và liều lĩnh làm thơ

Còn nhớ ngày ra trường, Trương Nam Hương bảo: “Sau này gặp lại, đứa nào còn đi xe đạp, còn mua thuốc lá lẻ từng điếu là nhục lắm”. Chuyện này, giờ nghĩ lại cỏn con nhưng lúc ấy là cả một thử thách. Chính vì thế, thời sinh viên y cùng bạn bè viết nhiều lắm, chỉ mong sáng tác được in để có nhuận bút. Trường ca Bài hát giữa sân trường, y viết trong thời gian này.  Viết khi nằm trên giường sắt hai tầng chung phòng số 6 với Trương Nam Hương, Nguyễn Quốc Chánh, Lê Đại Anh Kiệt. Thi sĩ Đinh Hùng có câu thơ hay: “làm học trò không sách vở cầm tay/ có tâm sự đi nói cùng cây cỏ” là đúng hình ảnh của y, bạn bè y ngày đó.

Ngày hôm qua, bạn bè gặp nhau lại đọc cho nhau nghe. Những bài thơ viết thời sinh viên. Tự khúc cho em là bài thơ, Trương Nam Hương tỏ tình thời xa lắc xa lơ:

Có con đường gió ngang qua buổi chiều

Có em ngồi nhớ dọc miền thương yêu


Có bông cúc dại phù du nắng vàng

 Có cơn mưa nhỏ nhọc nhằn đa mang


Có lời hẹn hò xốn xang xa lắc

 Có cuộc tình ngoài mây trôi bèo dạt


Có đôi mắt nâu nhìn ta thăm thẳm

 Có nụ hôn nồng môi sao chát đắng

 

Có nửa giấc mơ ngập tràn sông suối

 Có nửa cuộc đời tỉnh trơ đá cuội

 

Có câu thơ lặng sóng treo giữa lòng

 Có trong cái có vô vàn cái không!

Lúc ấy, có một ánh mắt nhìn buồn rười rượi. Rồi lại cười. Có câu chuyện chẳng nhớ nữa, nghe bạn bè kể, y tưởng bịa rằng thì là mà lúc ấy, có lần giữa khuya, y bước sang dãy phòng nữ đập cửa ầm ầm: “Y ơi anh yêu em!” khiến cả các bạn nữ náo loạn vì không ngờ trên đời này có kiểu tỏ tình quá hớp đến thế. “Làm gi có chuyện đó?”, y cười lỏn lẻn hỏi lại. “Không, chuyện có thật một trăm phần trăm thế mới ấn tượng chứ”. Hỏi “đương sự” thì bạn gật đầu và còn thòng thêm một câu: “Em không yêu anh là may mắn cho anh quá rồi còn gì?”. Bạn bè cười vang. Rồi Trương Nam Hương lại đọc thơ H. thiên thần, ngày xưa viết tặng H. Bạn bè sực nhớ đến cô bạn ngày đó học khoa ngoại ngữ là nhân vật chính trong bài thơ này:

Hôn lên giấc mơ em - gặp tuổi mình trong trẻo

Nắng qua mưa òa ập đến hoang đường

Câu thơ viết đầu tiên cho em đấy

H. thiên thần đâu biết có anh thương


Thuở hoa cúc vu vơ - thời cánh me ngơ ngác

Em nhìn ai xanh biếc lá sân trường

Ta đứng lẫn giữa bao nhiêu bè bạn

H. thiên thần đâu biết có anh thương


Những mảnh vụn câu thơ - áo Mỹ Châu lông ngỗng

Hai mươi năm tắc giấy dọc vun buồn

Ôi quầng mắt hai mươi mùa nhớ lặng

H. thiên thần đau biết mãi anh thương

Vài năm trước, y và Trương Nam Hương có gặp lại, cô nàng H trêu: “Bây giờ anh Hương còn dám làm thơ tặng em nữa không anh?”. Trong cuộc vui, Ngô Thị Thu An cũng đọc thơ. Chà, cô bạn tiết lộ là “họa” lại bài thơ của y từ thời sinh viên. Chuyện này, nghe cảm động quá. Thời đó, y viết bài thơ lấy câu câu thơ Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương của Chế Lan Viên đặt tựa:

“Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”

Câu thơ vỗ vể lúc tôi cay đắng

Dù không thể gừng cay muối mặn

Để tôi về làm rể ở quê em


Không yêu được người thì yêu đất, yêu tên

Từ buổi chia tay tôi còn ám ảnh

Giọng nói ngọt như nước dừa xiêm sóng sánh

Tôi uống ngập hồn mà muôn thuở chát chua


Nhưng em ơi tôi không thể vào chùa

Cạo trọc đầu đi tu như ngày trước

Chỉ nhủ lòng cám ơn em hạnh phúc

Như khi yêu em tôi hạnh phúc lạ lùng


Đừng ví tôi như sỏi đá miền Trung

Tình yêu đến ai không nghe cỏ hát?

Tôi vội vã vì trong ruột đất

Mẹ tôi gieo hạt lúa phải còng lưng


Tình yêu làm nắng hạ hóa mưa xuân

Có phải tôi về nên mùa này mưa vội?

Qua kênh Chợ Gạo một chiều bão nổi

Đôi mắt tôi chìm trong đôi mắt của em


Cám ơn Tiền Giang cái nhớ thênh thênh

Sông Thu Bồn hóa thành sông Bảo Định

Cũng tiếng chim rót qua vườn trái chín

Đất nước cưu mang ta lớn từng ngày


Tôi chọn về mình chua xót để chia tay

Tình yêu lứa đôi muôn đời khó hiểu

Tôi uống nước Tiền Giang, Cửa Tiểu

Vẫn ngọt lành như lúc mới yêu em


Không yêu được người thì yêu đất, yêu tên

Bài thơ này viết năm 1986 là tỏ tình với L.T.M.H. Thời đó, H mới là tốt nghiệp đại học, được giữ lại trường và nhà trường phân công hướng dẫn tổ của y đi sưu tầm văn hóa dân gian. Còn nhớ, lúc đó, y và Nguyễn Quốc Chánh đạp xe đến nhà H ở trọ trên đường P.V.C và y trao tận tay bài thơ này. Sau đó, cô H có gặp và bảo: “H. đã đính hôn rồi anh à”. Nghe buồn mấy ngày liền. Khi đọc bài thơ này ở lớp cho bạn bè nghe, không ngờ từ ngày đó Ngô Thị Thu An đã âm thầm họa lại với tựa Không yêu được người thì yêu đất, yêu tên:

Buổi chia tay tưởng còn nghe anh nói

Không yêu được người thì yêu đất, yêu tên

Sông Thu Bồn nỗi nhớ không quên

Sao cứ muốn hóa thành sông Bảo Định


Chia tay nhau trong mùa trái chín

Tình yêu anh mãnh liệt đến ngỡ ngàng

Tôi muốn về uống lại nước Tiền Giang

Xem sông mẹ có ngọt ngào quá thể


Hay tình yêu ngàn đời là như thế

Như buổi đầu cha mẹ đến tìm nhau

Sông Thu Bồn có ngào ngạt hương cau

Như Cửa Tiểu mỗi lần tôi trở lại


Quả chín nuôi tôi một thời con gái

Chắc cũng ngọt lành như cây trái quê anh

Cứ ngỡ anh là viên sỏi của miền Trung

Qua cay đắng lại càng thêm rắn rỏi


Thêm óng ánh sắc màu sau cơn bão nổi

Như nhọc nhằn - cây lúa vẫn oằn bông

Tình yêu làm nắng hạ hóa mưa xuân

Mưa tắm mát ruộng đồng hoa cỏ


Tôi ưa nụ cười anh yêu đời vậy đó

Dù nước dừa còn lẫn vị chát chua

Dù cho lòng đất hạn cứ mong mưa

Tình yêu lứa đôi vẫn muôn đời khó hiểu


Anh đã đến với sông Tiền, Cửa Tiểu

Không yêu được người thì yêu đất, yêu tên

Nước sông nào chẳng ấm vị quê hương

Như sữa mẹ nuôi đời ta khôn lớn


Buổi chia tay bông bần rụng trắng

Không thể nào muối mặn gừng cay

Nên âm thầm giọt nắng chia hai

Anh một nửa, gửi sông Tiền một nữa

Ôi tình yêu, muôn đời là ngọn lửa

Bài thơ giấu kín gần 30 năm mới đọc công khai cho bạn bè và :người trong cuộc" cùng nghe. Xao xuyến và cảm động quá chừng. Thời đó đi học vui thật. Đeo đuổi An là C - sinh viên Trường Đại học Nông lâm, sát Trường Đại học Tổng hợp nên mỗi lúc không có tiết học là C chui vào trong lớp ngồi chung luôn. Riết rồi anh em xem như lớp có thêm thành viên mới. Mới đây, An và C mời đi dự đám cưới của con gái. Thế đó, mới đó mà ai cũng đã lên ông lên bà cả rồi. 30 năm gặp lại, nghĩ cũng lạ. Có những cặp cưới nhau, nay đã chia tay nhau, hoặc hạnh phúc thì hôm gặp lại vẫn ríu rít như thuở nào. Trong cuộc vui, Đào Ngọc Lai có đọc bài thơ Tình xưa:

Hai nhà thơ gộp lại bằng em

Bình Dương ngà ngọc, Tiền Giang mãi tìm

Ngót ba mươi năm ngỡ ngủ yên

Cuối thu tỉnh giấc tình rung chuyển thầm

Hai nhà thơ là Quốc và Hương, gộp lại là tên bạn gái học chung lớp. Thì ra là thế! Lúc Lai đọc thơ, cô vợ Lai liếc nhìn bạn gái mình mà… cười! Thời gian 30  năm rồi còn gì. Cuộc vui nhộn nhạo, đầy ắp tâm sự. Có bạn gái bảo: “Anh Hương với anh Quốc chụp chung ảnh với em đi. Chụp càng nhiều càng tốt”. Bèn đùa: “Đem về khoe với chồng à”. “Không, em khoe con gái em. Nó nhất định tin là mẹ nó học chúng với những người nổi tiếng như hai anh”. Chà, nổi tiếng cái quái quỷ gì. Gặp lại nhau, vui nhất là bạn bè thành đạt, cuộc sống ổn định là mừng cho nhau rồi. Mà bạn bè thì ai cũng thành đạt. Chỉ điều đó là quý nhất. Cuộc họp ngày hôm qua, cả lớp có tặng thầy Võ Văn Nhơn món quà của tình thầy trò. Và cả lớp cũng bầu ra Ban liên lạc: Lê Minh Quốc (Báo Phụ Nữ TP.HCM), Trương Nam Hương, Đào Ngọc Lai (Báo Pháp Luật TP.HCM). Ngô Thu An (Báo Tuổi Trẻ), Trần Thị Phong Lan (Báo Sài Gòn Giải phóng).

Một ngày của 30 năm. Tình bạn vẫn đầy. Nắng ngoài đường lúc ấy đang xanh. Bạn bè à, nhớ lắm. Rất thương. Và rất nhớ.

L.M.Q


VÀI HÌNH ẢNH KỶ NIỆM 30 NĂM HỌP LỚP NGỮ VĂN NIÊN KHÓA 1983 - 1987


DSCN0644

Thu thủy, Ái Linh, thầy Võ Văn Nhơn, Quốc Hương

CHON-ANH-NAYP1270779

Tập thể sinh viên về dự kỷ niệm 30 năm

2ERR

Thầy Võ Văn Nhơn, nhà thơ Trương Nam Hương, Lê Minh Quốc

3RR

Đứng: Hồ Thị Phượng, Trương Nam Hương, Lê Minh Quốc, Quốc Hương, Phạm Văn Thanh

ngồi: Thu Thủy, Phạm Thị Hà, Hoàng Yến, Phạm Thị Hằng, Mộng Thu

4RR

Hồ Thị Phượng, Thu Thủy, Phạm Thị Hà, Phạm Thị Hằng, Quốc Hương, Mộng Thu, Hoàng Yên, Trương Nam Hương

5RR

Phuong Khanh, Hồ Văn Chừng, Nguyễn Thị Hạnh, Trương Nam Hương, Phạm Văn Thanh

6RR

Phương Khanh, Phạm Thị Hà, Kiều Kim Loan, Ái Linh, Thanh Hà

7RR

Phong Lan, Lê Minh Quốc, Ngô Thị Thu An, Trần Việt Dũng

DSC05379

Hồ Thị Phượng

DSC05382

Phạm Thị Hằng

DSC05401

Thủy Triều

DSC05402

Ái Linh

DSC05404

Nhà báo Hồ Văn Chừng (Báo Đồng Nai)

DSC05412

Vợ chồng nhà báo Đào Ngọc Lai & Thu Tâm (Báo Pháp luật TP.HCM)

DSC05418

Nhà báo Phạm Văn Thanh (Đài Truyền hình Đồng Nai)

DSC05425

Nhà báo Quốc Hương (Báo Sài Gòn Giải phóng)

DSC05431

Nhà báo Ngô Thị Thu An (Báo Tuổi Trẻ)

DSC05448RR

Hoàng Yến

DSCN0640

Đứng: Thu Tâm, Trương Nam Hương, Hồ Văn Chừng; ngồi: Kiều Kim Loan, Ái Linh

DSCN0649

Đứng: Phương Khanh, Thu Tâm, Ái Linh; ngồi; Phạm Thị Hà, Thu Thủy, Hoàng Yến

DSCN0652

Đứng: Phong Lan, Phương Hoa, Nguyễn Thị Thủy, Kim Thủy, Thu Thủy; ngồi: Thủy Triều và hai con gái bạn học trong lớp

P1270788RR

Đứng: Kim Thủy, Phương Hoa, Nguyễn Thị Thủy, Thu An, Phong Lan, Thu Thủy; ngồi: Thủy Triều và hai con gái bạn học trong lớp

DSCN0660

Vợ chồng (cũ) Trần Việt Dũng, Phong Lan và con gái

DSCN0668

Đứng: Hồ Thị Phượng, Trương Nam Hương, Lê Minh Quốc, Quốc Hương, Phạm Văn Thanh; ngồi: Thủy Triều, Hoàng Yến, Phạm Thị Hằng, Mộng Thu

P1270806RR

Thu Thủy, Kim Thủy, Nguyễn Thị Thủy, Thủy Triều, Thu An, Phương Hoa, Thu An, Phong Lan

DSCN0681

Hồ Thị Phượng, Thu Thủy, Phạm Thị Hà, Phạm Thị Hằng, Quốc Hương, Mộng Thu, Hoàng Yến, Trương Nam Hương

DSCN0682

Kiều Kim Loan, Nguyễn Thị Hạnh, Hồ Văn Chừng, Ái Linh, Thu Tâm, Thanh Hà, Phương Khanh, Đào Ngọc Lai

DSCN0664

Đứng: Thanh Hà, Nguyễn Thị Thủy, Ái Linh, Kim Thủy, Hồ Thị Phượng, Thanh Hoa, Thu Thủy; ngồi: Phạm Văn Thanh, Kiều Kim Loan, Thủy Triều...

6RRR

Ngồi: Kiều Kim Loan; đứng: Nguyễn Thị Hạnh, Thu Tâm, Kim Thủy, Nguyễn Thị Thủy, Phương Khanh, Ái Linh, Dương Hồng Lâm, thầy Võ Văn Nhơn, Trương Nam Hương, Hồ Văn Chừng, Thu An, Phạm Văn Thanh

1DHTH

Nhà thơ Trương Nam Hương

2RR

Phạm Thị Hà, Phương Khanh, Nguyễn Thị Hạnh, Ái Linh, Thanh Hà, Kiều Kim Loan, Hoàng Yến, Thu Tâm

4RDHTHR

Nguyễn Thị Hạnh, Phương Khanh, Kiều Kim Loan, Ái Linh, Thanh Hà, Thu Tâm

DSCN0695

Phong Lan, Lê Minh Quốc

QRR

Lê Minh Quốc & Trương Nam Hương


Chia sẻ liên kết này...

 
 

Lê Minh Quốc: VIẾT NHƯ ĐỜI SỐNG

1.


“Làm thơ là một sự phi thường”, đã có lúc thi sĩ Hàn Mặc Tử rú lên trong niềm đau sảng khoái tột cùng. Tôi nghĩ, tâm thế của nhà báo cũng không khác.

Từng ngày họ phải sống trong tâm thức của sự say mê nhọc nhằn qua từng con chữ. Tâm thức ấy không chai lì, xơ cứng mà phải từ cảm hứng sáng tạo. Ngày lại ngày, dòng dòng thời sự cuồn cuộn đổ vào trang viết, nếu không có cảm hứng sáng tạo thì làm sao có thể đi hết một đời cùng hành trình chữ nghĩa? Nhờ vậy, có những nhà báo đã thành danh trong nghề nhưng bài viết của họ không lặp lại, luôn tìm tòi cách thể hiện mới.

Với tập sách này, sẽ không thừa khi nhắc lại, đây là thành quả lao động bền bĩ của các nhà báo nữ thuộc CLB Nhà báo nữ TP.HCM. “Sân chơi” này do Hội Liên Hiệp Phụ nữ TP.HCM tổ chức hiệu quả và có tiếng vang trong dư luận xã hội từ nhiều năm qua.

 

viet-nhu-la-sontg

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Khêu ngọn lửa ấm

 

pncn-13.10

 

Trong từ ngữ tiếng Việt, thật lạ lùng có những từ chỉ mới vừa thốt ra, tự sâu thẳm tâm hồn đã thấy ấm áp, gần gũi và yêu mến vô cùng. Tôi nghĩ đến “cây lúa”. Trên đồng cạn dưới đồng sâu, từng nhánh lúa trĩu hạt luôn gợi về mùa vàng no ấm. Đã thế, hạt lúa khi rụng về Đất Mẹ, lúc ấy lại bắt đầu một Sự sống mới. Sự sống ấy tiếp tục sinh sôi trong dòng đời bất tận. Ngọn lửa nuôi sống con người lại nhen lên từ hạt mầm bé nhỏ ấy. Không gì có thể hủy diệt được.

Và cũng kỳ diệu thay, có những con người ngay sau khi họ từ giã “cõi tạm”, lại có thể khêu dậy ngọn lửa ấm trong tiềm thức của người đang sống.

Trong những ngày này, hình ảnh dòng người chỉnh tề, lặng lẽ đến thắp nén nhang vĩnh biệt Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khiến tôi nghĩ về ngọn lửa ấm. Họ đến từ nhiều vùng miền, có thể trong đời chưa một lần diện kiến, chưa chạm mặt nhưng tự sâu thẳm tâm hồn là niềm ngưỡng mộ về một tài năng, một nhân cách. Nhìn vào từng đôi mắt chứa chan từng giọt lệ, tôi đã thấy ở đó niềm thương tiếc về một Con Người. Một con người xứng đáng viết hoa, bởi lúc sống đã tận hiến cho cộng đồng, bằng tất cả những gì mình đã có. Tôi nghĩ rằng, khi đứng trước một người đã mất, lúc ấy, con người tầm thường chúng ta luôn tự vấn một câu hỏi: “Những ngày qua, mình đã sống như thế nào?”.

Sống trên đời, đi hết hành trình một kiếp người chao ôi biết bao nhọc nhằn, trần ai khoai củ, lên bờ xuống ruộng. Để có được sự tĩnh tại, an nhiên ấy trong tâm hồn thật không dễ dàng. Không khác gì bảo gió đứng yên, không khác gì níu lại dòng sông đang chảy. Bởi có những lúc, trong sự vận động của dòng đời, ta vọng động lúc này, ta ngoắt ngoảy chỗ kia chẳng khác gì “tâm viên ý mã”. Biết làm sao được, những cơm áo gạo tiền, những mưu sinh kiếm sống đã có lúc đẩy bàn chân bước chệch ra khỏi con đường đã chọn. Lúc ấy, có thể những toan tính vụn vặt đời thường đã khiến ta dễ dàng thỏa hiệp vục mặt xuống bụi bặm những mong thu vén một chút hư danh…

Rồi có lúc, ta giật mình tự hỏi: “Những ngày qua, mình đã sống như thế nào?”. Loay hoay một chốc, ngoảnh lại, đã thấy gần hết một đời người. Vì lẽ đó, có những con người khi nhắm mắt xuôi tay chỉ là dấu chấm đơn độc cuối cùng kết thúc một câu văn. Hỡi ôi! Có những câu văn lại không có ý nghĩa gì, thậm chí còn sai lệch về cú pháp.

Ngược lại, có những con người, với cái chết của họ lại mở ra một trang viết mới cho thế hệ sau. Trang viết đó khêu lại ngọn lửa ấm từ tinh thần của Tướng Giáp. Ngọn lửa đó là bài học giản dị và vĩ đại về một giá trị sống mà lúc sinh thời ông đã xác tín mãnh liệt. Dưới gầm trời này không có gì đứng yên, bất động mà luôn có sự vận động, thay đổi theo tâm thức thời đại. Thế nhưng lại có những giá trị bất biến, dù Đông  hay Tây cũng đều có một mẫu số chung. Một trong những giá trị ấy, của nhiều người biết sống, của Tướng Giáp vẫn là sự ý thức tồn tại của mình chính, không gì khác, “từ Nhân dân mà ra”.

Đã đành, vĩnh biệt một con người bao giờ cũng có những lời tiếc thương, như thế vẫn chưa đủ. Điều cốt lõi, có ý nghĩa thiết thực nhất là hãy làm sống lại tinh thần của người đã khuất.

Hạt lúa đem lại ấm no cho con người, khi chết đi lại tiếp tục khơi dậy một mầm sống mới. Và cũng kỳ diệu thay, có những con người ngay sau khi họ từ giã “cõi tạm”, lại có thể khêu dậy ngọn lửa ấm trong tiềm thức của người đang sống. Ngọn lửa ấy, đang có. Ấm áp và lan tỏa trong cộng đồng, từng ngày…

 

L.M.Q

(nguồn: Báo PNCN  ngày 13.10.2013)

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Một nghệ sĩ lớn đã rời bục giảng


PN - Khi nhớ về trường cũ, dù chỉ thoáng qua trong tất bật đời thường, chúng tôi vẫn luôn nhớ đến thầy Hoàng Như Mai (1919 - 2013). Ngày ấy, thầy giảng bài với phong cách rất nghệ sĩ, giọng ngâm thơ hào sảng, cuốn hút người nghe. Đêm qua, vừa nghe tin thầy mất (27/9/2013), tôi đã nhận được bài Khóc thầy của bạn thơ Trương Nam Hương:

Nhớ giọng Thầy đọc thơ Thâm Tâm

Tống biệt hành rung sóng tri âm

Thời gian chợt hóa con sông nhớ

Con tiễn Thầy qua khói - sóng - trầm!

Đại diện thế hệ sinh viên Khoa Ngữ văn niên khóa 1983 - 1987, Hương đọc bài thơ trên trước linh cữu thầy. Khi đi học chúng tôi gọi “thầy” và xưng “con”, sau này, khi ra trường có đôi lúc làm việc cùng nhau vẫn giữ cách gọi tôn sư trọng đạo ấy. Thầy dễ gần gũi bởi tự bản thân nhà mô phạm ấy đã có cốt cách của một nghệ sĩ.

9-THAY-HOAG-NHU-MAI-2

Thầy Hoàng Như Mai

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Phố văn hóa ở Melbourne


Ở Việt Nam hiện nay, đã bắt đầu hình thành những phố đi bộ. Phố dành cho những người nhàn tản, nhất là những du khách từ phương xa đến và muốn chiêm ngưỡng một không gian tiêu biểu, đậm chất văn hóa của người dân bản địa. Sự hình thành ấy đang từng bước trở thành hiện thực, dù trong cung cách và quá trình thực hiện vẫn còn đâu đó những “lời ong tiếng ve”, bởi chỗ người này thấy được nhưng người kia thấy “chưa được”. Đó cũng là điều bình thường. Cái mới ra đời, bao giờ cũng có một quá trình để hoàn thiện.

 

choinhac

Chơi nhạc trên phố ở Melbourne

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: Trung thu là tết thiếu nhi

 

 

Có nhiều cách giải thích về nguồn gốc của Tết Trung thu. Tuy nhiên, để có một kết luận chuẩn xác rằng tục ăn Tết Trung Thu ở Việt Nam có từ lúc nào, theo tôi là khó. Ngay cả các nhà nghiên cứu văn hóa như Phan Kế Bính, Đào Duy Anh, Nhất Thanh, Toan Ánh… khi viết về ngày Tết Trung thu cũng miêu tả, chứ không đi sâu vào truyền thuyết ra đời của nó. Chỉ biết, rằng từ xa xưa, dân tộc ta đã có tục ăn Tết Trung thu rồi.


trung-thu-1

Chia sẻ liên kết này...

 
 

LÊ MINH QUỐC: SỬ CHO MỌI NHÀ

 

Cho đến nay, giới nghiên cứu sử học nước nhà vẫn chưa “giải mã”: Ai là người trực tiếp viết “Chiếu Cần Vương”? Không thể là vua Hàm Nghi, lúc đó ngài chỉ mới 12 xuân xanh. Chiến tướng Tôn Thất Thuyết chăng? Cụ là một võ tướng, nhân vật số một Viện Cơ mật, không phải là người giỏi về văn học. Thế thì, văn bản được công bố được công bố từ ngày 13.7.1885 tại căn cứ kháng chiến Tân Sở (Quảng Trị), chỉ có thể do Thăng Hiệp biện Đại học sĩ Phạm Thận Duật ( 1825- 1885) viết.

 

pham-than-duat

Ảnh cụ Phạm Thận Duật chụp ngày 14.4.1883 tại Thiên Tân (Trung Quốc) khi đi sứ Trung Quốc. Nguồn: Phạm Thận Duật - cuộc đời và tác phẩm (NXB KHXH - 1989)

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Chị HUYỀN SƯƠNG: Những tình huống oái oăm trong tình yêu


Tạp chí Phụ nữ diễn đàn số 1 phát hành vào tháng 7.1993, từ số 2 ngoài bìa có in măng sết của báo Ấp Bắc, màu đỏ; phía dưới “Số chuyên đề cuối tháng về Phụ nữ”  màu xanh. Chữ “Phụ nữ” to gấp nhiều lần chữ “Ấp Bắc”. Chịu trách nhiệm xuất bản: Trần Thanh Hải; Biên tập: Minh Sơn; Thường trực tòa soạn: Đoàn Dũng; Trình bày: Minh Hạnh.


HUYENSUONG

Chia sẻ liên kết này...

 
 

Trang 70 trong tổng số 78

Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com