LÊ MINH QUỐC
NGHĨ VỀ TIẾNG VIỆT
lắt léo lượn lờ luôn lịch lãm
tiếng ta thanh thoát thiết tha thương
chọn chữ chắt chiu chan chứa chữ
thắm thiết tình ta thấy tỏ tường
ngâm nga nghĩ ngợi, này, ngây ngất
nọ, nghe nằng nặng nước non nhà
nhấn nhá, nhẩn nha, nhâm nhẩm nhớ
ngút ngàn nu nống nối nu na…
văn Việt vỗ về vương với vấn
chống chèo, chững chạc, chẳng choảng, choang
chằng chịt, chung chạ, chêm chặt chịa
vướng víu vòng vo vẫn vững vàng
chơi chữ chanh chua chan chát chữ
ví von văn vẻ vẫn vèo vèo
lưỡi lươn lẹo lẹ làng lắt léo
rộn ràng, rổn rảng, rập rềnh, reo...
dích dắc dặt dìu dư dí dỏm
cò, báo - cáo, bò; cò - sóc, cóc - sò…
cứng cựa cười cợt cùng cắc cớ
lém lỉnh lái liền, lại líu lo
ngữ nghĩa - nhìn nghiêng, nhoài ngó ngửa
đỉnh đạc đã đời đó đến đây
lung linh, lúng liếng lên lả lướt
nâng niu, niềm nở nước Nam này
dịu dàng, day dứt dùng da diết
nặng nợ ngàn năm núi níu non
hồn nước nằm trong hồn tiếng Việt
tiếng ta tự tại tới trường tồn…
LÊ MINH QUỐC
Chú thích: Bài thơ này in tay gấp 3 quyển sách
CẢM NGHĨ SAU KHI HOÀN THÀNH
BỘ SÁCH VĂN HÓA VIỆT, NHÌN TỪ TIẾNG VIỆT
Từng ngày lầm lũi
Nhẫn nại bền lòng
Đi vào từ điển
Nhặt được gì không?
Đi vào giữa chợ
Tìm thấy tiếng lòng
Lời quê rơm rạ
Gieo trên cánh đồng
Ngàn năm vẫn đượm
Mồ hôi ròng ròng
Se duyên tình tự
Nên vợ thành chồng
Nay vẫn xao xuyến
Hương vị núi sông
Mặc kệ bão giông
Chen âm sắc lạ
Lấn lướt từng ngày
Đau lòng buốt dạ
Vững tin người ơi
Không gì xô ngã
Tiếng Việt mãi còn
Lời ru thong thả
Tục ngữ, ca dao
Như ngô, khoai, sắn
Như lúa như tre…
Suối nguồn vô tận
Như nắng như mưa
Tượng hình sức sống
Ngàn đời nuôi nấng
Linh hồn Việt Nam
L.M.Q
< Lùi | Tiếp theo > |
---|