Nhà thơ Phạm Hổ (28.11. 1926 - 4.5.2007) thọ 82 tuổi, bút danh Hồ Huy, sinh tại xã Thanh Liêm (nay là xã Nhơn An), huyện An Nhơn (Bình Định). Anh trai ông là nhà văn Phạm Văn Ký và em trai là nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ. Ông đỗ bằng Thành chung năm 1943. Sau Cách mạng tháng Tám ông làm công tác tuyên truyền và tham gia hoạt động văn học nghệ thuật.
Sau Hiệp định Geneva năm 1954, ông ra Bắc, tham gia sáng lập Hội Nhà Văn miền Bắc (1957) và cũng là một trong những người đầu tiên hình thành NXB Kim Đồng, nơi chuyên xuất bản văn hóa phẩm dành cho trẻ em. Sau ba năm làm việc tại NXB Kim Đồng, ông chuyển sang Nhà xuất bản Văn học rồi về báo Văn Nghệ, cơ quan ngôn luận của Hội Nhà văn. Năm 1957, ông là thành viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam. Chức vụ cuối cùng của ông ở tờ báo này là chức Phó tổng biên tập. Từ năm 1983, ông là Phó trưởng ban đối ngoại của Hội Nhà văn Việt Nam và là Chủ tịch Hội đồng văn học thiếu nhi của hội.
Ông vừa viết văn, làm thơ, viết kịch và vẽ tranh. Nổi bật trong các sáng tác của ông là dành cho thiếu nhi; nhiều tác phẩm đã được đưa vào giảng dạy trong trường phổ thông. Năm 2001, ông được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật, đợt 1.
Nhà thơ Phạm Hổ
Không hiểu vì sao, tự nhiên hôm nay có điều gì đó khiến tôi nhớ tới chú Phạm Hổ. Xé tờ lịch, mới biết đã là lần giỗ thứ Bảy của chú (4/5/2014). Chú Phạm Hổ là người mà khi còn nhỏ chị em tôi rất yêu mến! Với cha mẹ tôi, chú như em út trong gia đình; chú còn là bạn láng giềng, tối lửa tắt đèn đều có nhau; các cụ xưa chẳng đã nói như vầy “bán bà con xa, mua láng giềng gần” đó sao. Nhắc đến người láng giềng thân thiết này, trong tôi, không gian thị trấn An Nhơn đìu hiu những năm trước khi chưa đi tập kết lại hiện về: Ngày ấy, gia đình tôi tuy nhà tranh, vách đất, nền có chỗ tráng xi măng, có chỗ nền đất do đi lại nhiều mà láng coóng. Diện tích nhà khoảng 100m² chia làm 3 gian, hai chái, và bị quy là tiểu tư sản thành thị.
Trong nhà gồm ba má và bốn chị em (hai gái, hai trai). Nhà luôn có tiếng cười vui vẻ. Hôm nào cũng có chuyện quan trọng để người lớn chia sẻ. Bởi chính nơi đây, là điểm hẹn văn hóa - các chú nhà thơ- bạn của ba hay quây quần trong gian nhà tranh này. Họ tựu về đây để bàn chuyện quốc sự và đọc thơ mình làm cho bạn bè góp ý v.v... Tôi thấy chú nào cũng trẻ măng và đẹp trai. Tóc ai cũng đen nhánh.
Dăm bữa, nửa tháng tôi nhìn thấy mái tóc dày, bùm xum, cặp mắt to tròn, ngơ ngác như nai của chú Nguyễn Thành Long. Chú ở Quy Nhơn lên bàn chuyện văn chương với ba. Ông Phạm Xuân Cang cho biết, chú Long có tác phẩm “Ta và chúng nó” được in ngay tại thị trấn đìu hiu này! Ông bảo: “Thị trấn lúc đó, sống đời nô lệ, thiếu thốn mà in được sách thì thật là quí và đáng tự hào lắm!
Từ trái: Nhà thơ Nguyễn Đình, Yến Lan, Mịch Quang và Lâm Huy Nhuận - con trai Yến Lan
Tôi thường gặp chú Nguyễn Đình. Chú bị hỏng một mắt; nghe các bà già nói “người một mắt hung lắm”; vậy mà chú Đình lại là người vui vẻ, dễ gần nhất trong các chú đến đây. Quê chú ở tận Hội An - Quảng Nam. Xa thế mà tiếng cười của chú luôn rộn lên ở nhà tôi. Có lẽ, vì quí tình ba nên chú thương chúng tôi như con. Còn chú Trinh Đường (tên thật là Trương Đình) người to bè bè, cao lớn, chú cười nghe âm khà khà, dòn như bắp rang, rất tự nhiên. Chuyện của chú bao giờ cũng làm cho người lớn cười chảy cả nước mắt; còn bọn trẻ chúng tôi nghe lõm thì tè ra cả quần. Chú Nguyễn Khoáng (tức Mịch Quang). Ai ngờ, sau này chú là dượng của ông xã tôi. Khuôn mặt chú xương xương, đặc trưng của người xứ nẫu; da trắng, mắt sáng, hao hao giống ba. Nhưng theo tôi, thì ba đẹp hơn chú chút xíu. Đi đâu chú cũng đem theo máy ảnh. Chính những bức ảnh còn giữ được đến giờ là nhờ tài chớp đúng khoảnh khắc rất đời thường của các bạn chú đó!
Chị em tôi, đứa nào cũng thích chú Phạm Hổ. Chú Hổ nhỏ hơn ba 9, 10 tuổi; nhưng họ quan hệ bình đẳng và thân thiện với nhau. Chúng tôi bé tí tẹo, mỗi lần chú đến, chúng tôi bắt chú phải cùng chơi trốn tìm; chú thường giả vờ không tìm ra, xưng hô với chúng tôi một cách thân mật: “Mấy cái nấm của chú ở đâu ta…?” Chúng tôi thích lắm cơ! Má tôi kể: Một hôm, từ ngoài cửa bước vào, quẳng chiếc túi xà-cột xuống phản, chú lại gần má thì thầm: “Chị Bảy, nhà còn gì cho em ăn với, em đói bụng quá?”. Má tôi vuì vẻ hỏi: “Chỉ còn it cơm nguội với mắm ruốc thôi, chú chịu chứ?". Mắt chú sáng rỡ: “Tốt quá rồi chị ạ!”. Thế là má tôi xuống bếp, xới bát cơm nguội và dích cục mắm ruốt đỏ tươi lên đưa chú. Má tôi nói: “Ngày ấy, nhìn chú Hổ ăn cơm nguội với mắm ruốt sống thấy thương, nhưng chú ăn ngon như ăn sơn hào, hải vị vậy mà vui”.
Tập kết ra Bắc, chú làm việc tại Hà Nội. Vợ chồng chú vẫn là chỗ dựa thân tình của ba má tôi. Dẫu cho vật đổi sao dời, ngày lễ, tết cô chú là người thứ hai, sau vợ chồng chú Nguyễn Thành Long đến xông đất. Rồi, ba và chú lại ôn chuyện cũ để khỏi nhớ quê hương. Nói chung, thiếu nhi của thế hệ chúng tôi, đều yêu mến chú. Thơ chú viết cho thiếu nhi đọc dễ thương lắm. Tôi thích bài: “Tết của ông, Tết của cháu” và “Mười chú gà con”...
Thế rồi giải phóng. Thời gian trôi mau! Ba tôi - nhà thơ Yến Lan - về hưu và quay về sống tại chính nơi chôn nhau cắt rốn. Anh em cách biệt trên ngàn cây số, nhưng tình người văn vẫn trọn nghĩa. Mỗi lần ba ra Hà Nội chửa bệnh, thì bấy nhiêu lần chú Hổ đến thăm. Một chiều tháng 7 năm 1991, mưa lất phất bay, sân ga Hàng Cỏ ướt nhẹp. Mẹ con tôi đưa ba ra Hà Nội đề mổ u tiền liệt, sau đó lại đưa ông trở lại quê. Trên sân ga, mưa mỗi lúc một nặng hạt, chú Hổ đi tiễn, vẫn đúng nguyên. Thấy chú cứ đứng dưới mưa chờ tàu chạy, chúng tôi luôn miệng giục chú về, chú vẫn mặc kệ, cho đến khi con tàu mất dạng sau bức thành. Tôi cảm động lắm! Lúc ấy, tôi đọc được ở mắt chú một sự tiếc thương vô hạn đối với ba tôi mà chú không nỡ nói ra. Tôi hiểu điều chú nghĩ “đây là lần gặp cuối với người bạn già”.
Ngày ấy, ba tôi thật yếu, sắc thái nam tử xưa đã bị vùi sâu bởi những nếp gấp trên mặt, xem ra “sắp theo anh Tấn, anh Hàn và em Chế rồi!”.
Tháng 4 năm 2002, mẹ con tôi ra Hà Nội, thăm lại bạn vong niên của ba. Hầu như ai cũng có dấu hiệu sắp đi vào thế giới bên kia cả rồi; buồn quá đi mất! Đến thăm vợ chồng chú Phạm Hổ, tại K/10A Khu tập thể Bách Khoa. Thoạt nhìn, tôi thấy vẻ mệt nhọc, chán chường trên khuôn mặt cô chú. Chú thở rất khó, nói chưa trọn ý phải dừng để thở. Tôi thương chú quá! Chú nói với má tôi về lớp trẻ:
- Chị Bảy thấy không, bọn trẻ bây giờ làm gì mà chúng kiếm được nhiều tiền quá, chúng xài tiền tính bằng triệu triệu chứ không như thời chúng mình! Cả tháng, người nào kiếm được vài trăm đồng đã là giỏi lắm!”.
Tất nhiên không có chị em tôi trong những người kiếm và xài tiền như nước ấy! Cuộc sống ở gia đình tôi còn nhiều mối lo. Song, tôi không quên được hình ảnh chú, khi nói câu đó. Về Sài gòn, tôi viết thư thăm và “Kính biếu chú Phạm Hổ 10 vé xổ số. Cháu nhờ cô mua giúp. Cháu cảm ơn cô”. Tôi ngây ngô nghĩ rằng: “Biết đâu mấy vé số của tôi sẽ mang đến cho chú điều may mắn”. Vì vậy cuối thư tôi viết thêm “Cháu cầu mong, trời phụ hộ để chú trúng độc đắc”. Và tôi tin chắc thần tài sẽ tới ban lộc cho người hiền lành dễ thương như chú Hổ.
Gặp chú lần thứ hai, vào năm 2006, chú cười, bảo: “Tặng vé xổ số, chỉ có con nhà thơ Yến Lan mới nghĩ ra điều đó. Nhận được thư cháu, chú vui lắm, cháu nhớ thường xuyên viết thư cho chú nhé!”
Tiếc rằng ngày chú đi xa, tôi không hay biết! Tôi thấy như có lỗi, ân hận mãi vì sự thờ ơ này.
L.B.T
< Lùi | Tiếp theo > |
---|