LÊ VŨ QUỲNH PHƯƠNG: For Obese Teen Girls, Aerobic Exercise May Trump Resistance Training in Health Benefits

Mục lục
LÊ VŨ QUỲNH PHƯƠNG: For Obese Teen Girls, Aerobic Exercise May Trump Resistance Training in Health Benefits
* For Obese Teen Girls, Aerobic Exercise May Trump Resistance Training in Health Benefits
* People Tend to Communicate With Similar People, Even More Than Previously Thought
Tất cả các trang

 

Sau các bản dịch: Thơ dịch từ tiếng Anh của một nữ sinh lớp 11, Khoảng cách giúp tình yêu bền vững hơn, Trẻ em thường bắt chước thói quen xem tivi của bố mẹ, Làm thế nào để sống một mình mà không cô đơn, chúng tôi vui mừng nhận được cả trăm comment của bạn đọc xa gần. Vừa góp ý, vừa khen ngợi.

Nay, em Lê Vũ Quỳnh Phương vừa gửi đến trang web www.leminhquoc.vn 2 bản dịch mới.


phuongR

Em LÊ VŨ QUỲNH PHƯƠNG


Khi post, chúng tôi giữ nguyên bản tiếng Anh, hy vọng độc giả xa gần sau khi đọc sẽ đối chiếu, thẩm định và nhiệt tình góp ý để em Phương có được bản dịch hoàn hảo hơn nữa. Các bản dịch này thế nào? Có chuẩn về từ ngữ? Mọi ý kiến đóng góp, chia sẻ xin trực tiếp gửi vào phần comment. Qua đây, cũng là dịp chúng ta cùng thiện chí trao giồi thêm về khả năng tiếng Anh.

Xin cám ơn bạn đọc xa gần.

L.M.Q

(I.2014)


For Obese Teen Girls, Aerobic Exercise May Trump Resistance Training in Health Benefits


Obesity has more than doubled in children and tripled in adolescents in the United States in the past 30 years, according to the Centers for Disease Control and Prevention. The growing rate of childhood obesity is a major health concern since overweight and obese youth are at increased risk of developing several diseases once considered reserved for adults. These new pediatric diseases include type-2 diabetes, metabolic syndrome, and non-alcoholic fatty liver disease, a condition in which fat builds up in the liver, potentially impairing its function over time.

Although both diet and exercise have been considered as first lines to treat childhood obesity, SoJung Lee of the  Children's Hospital of Pittsburgh, University of Pittsburgh School of Medicine and her colleagues recently showed that when obese adolescent boys increased physical activity alone, they improved several markers of health. These include reducing total fat, fat packed around organs in the abdomen (known as visceral fat, a risk factor for diabetes), and liver fat, and improving fitness of their heart and lungs.

To see if physical activity might work in the same way for obese adolescent girls, Lee and her colleagues performed a new study that compared the health effects of two different types of exercise -- aerobic exercise and weight lifting -- over three months to remaining sedentary. Although their results show beneficial effects for both types of exercise, the researchers found that girls who performed aerobic exercise, but not weight lifting, had significant reductions in visceral fat and liver fat, as well as improvements in insulin sensitivity, another risk factor for diabetes that's linked with obesity.

The article is entitled "Aerobic Exercise But Not Resistance Exercise Reduces Intrahepatic Lipid Content and Visceral Fat and Improves Insulin Sensitivity in Obese Adolescent Girls." It appears in the online edition of the American Journal of Physiology-Endocrinology and Metabolism, published by the American Physiological Society.

Methodology

The researchers recruited 44 obese girls between 12 and 18 years old. They separated these volunteers into three groups. One group was assigned to perform 60 minutes of aerobic exercise three days a week for three months, either running on a treadmill or using an elliptical trainer. A second group was assigned to perform the same amount of resistance exercise, but instead participated in aerobic exercise program, doing 10 whole body resistance exercises using weight machines over the course of each hour-long session. A third group was asked not to participate in any structured physical activity program over the course of the study. Before the exercise programs began, all the study participants had a detailed physical exam, which included measuring their total fat, visceral fat, liver fat, and fat embedded in their muscles through various noninvasive means. The researchers also measured the volunteers' insulin sensitivity, a risk factor for diabetes, as well as basic health measures including weight and physical fitness.

Results

The researchers found that those in both exercise groups had less total fat and intramuscular fat by the end of the three-month study period compared to the sedentary group. However, the two exercise groups differed significantly in other measures. Overall, those in the aerobic exercise group lost visceral and liver fat and improved their insulin sensitivity, but those in the other groups didn't.

Importance of the Findings

These findings suggest that for teen girls, aerobic exercise might be superior to resistance exercise for cutting health risks associated with obesity. They also note that, anecdotally, girls in the aerobic exercise group seemed to enjoy their workouts more than those in the resistance exercise group, an opposite sentiment from the obese boys in their previous study.

"Therefore, given the superior improvements in metabolic health with aerobic exercise and the enjoyment factor, we propose that aerobic exercise may be a better mode of exercise for adolescent girls of this age group," they write.

ban-diich-quynh-phuong-1RR


Girls who performed aerobic exercise, but not weight lifting, had significant reductions in visceral fat and liver fat, as well as improvements in insulin sensitivity, another risk factor for diabetes that's linked with obesity.

( Nguồn: sciencedaily.com)

Bản dịch:

VỚI CÁC THIẾU NỮ BỊ BÉO PHÌ, THỂ DỤC NHỊP ĐIỆU CÓ THỂ MANG LẠI NHIỀU LỢI ÍCH VỀ SỨC KHỎE HƠN LUYỆN TẬP ĐỐI KHÁNG

Theo Trung tâm Phòng chống và Kiểm soát Bệnh tật, trong vòng 30 năm qua , tình trạng béo phì đã tăng  gấp đôi ở trẻ em và gấp ba lần đối với độ tuổi thanh thiếu niên ở Hoa Kì. Tỉ lệ trẻ béo phì gia tăng đang là vấn đề sức khỏe được quan tâm hàng đầu, bởi giới trẻ thừa cân và béo phì đang gặp nguy hiểm khi  mắc nhiều căn bệnh một thời từng được xem là chỉ có ở người lớn. Các chứng bệnh nhi mới này bao gồm  bệnh tiểu đường tuýp 2, hội chứng rối loạn trao đổi chất, và chứng gan nhiễm mỡ (điều kiện để mỡ tích  tụ trong gan và có thể gây suy giảm chức năng gan theo thời gian).

Cả chế độ ăn kiêng và tập luyện đều được xem là bước đầu tiên để điều trị chứng béo phì ở trẻ nhỏ. Tuy nhiên, gần đây, Tiến sĩ Lee So Jung thuộc Bệnh viện Nhi Pittsburgh, Đại học Dược Pittsburgh, cùng  các đồng nghiệp đã chỉ ra rằng: khi các nam thiếu niên bị béo phì chỉ tăng cường hoạt động thể chất thì  sức khỏe cũng được cải thiện đáng kể. Những tiến triển này gồm cắt giảm tổng lượng mỡ trong cơ thể: mỡ bao quanh nội tạng vùng bụng (được biết như mỡ nội tạng, một nhân tố nguy hiểm gây bệnh tiểu đường), mỡ trong gan; và cải thiện sức khỏe tim và phổi.

Để kiểm nghiệm hiệu quả của hoạt động thể chất đối với các đối tượng nữ giới, Lee cùng đồng nghiệp đã  tổ chức một cuộc nghiên cứu để so sánh ảnh hưởng đến sức khỏe của hai loại hình luyện tập khác nhau - thể dục nhịp điệu và cử tạ - trong vòng ba tháng so với việc ngồi một chỗ. Tuy kết quả cho thấy nhiều lợi ích với cả hai loại hình, nhưng các nhà nghiên cứu thấy rằng những cô gái chỉ tập thể dục nhịp điệu, không nâng tạ, đã giảm một lượng đáng kể cả mỡ nội tạng và mỡ trong gan, cũng như cải thiện độ nhạy của hoocmon insulin, một nhân tố nguy hiểm khác của bệnh tiểu đường và liên quan đến bệnh béo phì.

Bài báo có tên là “Thể dục nhịp điệu nhưng không luyện tập đối kháng giúp giảm lượng chất béo trong gan, mỡ nội tạng và cải tiện độ nhạy của insulin đối với các thiếu nữ bị béo phì”. Nó xuất hiện trên phiên bản trực tuyến của Nhật báo Mĩ về Sinh lý học - Nội tiết và Trao đổi chất, xuất bản bởi Hội Sinh lý học Mĩ.

Phương pháp

Các nghiên cứu viên tuyển 44 cô gái bị béo phì từ 12 đến 18 tuổi. Họ chia các tình nguyện viên thành ba nhóm. Một nhóm được phân công tập 60 phút thể dục nhịp điệu, ba ngày một tuần trong ba tháng, hoặc chạy trên bánh xe hoặc sử dụng một dụng cụ tập luyện có dạng elip. Nhóm thứ 2 cũng tập một lượng  bài tập đối kháng tương tự nhưng thay vì tập các bài tập thể dục nhịp điệu thì thực hiện 10 bài tập đối kháng với máy tập tạ trong thời gian 1 giờ với mỗi bài tập. Nhóm thứ ba được yêu cầu không tham gia bất kì chương trình hoạt động thể chất nào trong suốt thời gian nghiên cứu. Trước khi chương trình luyện tập bắt đầu, tất cả những người tham gia đều phải qua một bài kiểm tra thể chất chi tiết, bao gồm tổng lượng mỡ trong cơ thể, mỡ nội tạng, mỡ trong gan và mỡ gắn với cơ bằng nhiều phương tiện không cần mổ. Các nhà nghiên cứu còn đo độ nhạy của insulin, nhân tố nguy hiểm gây bệnh tiểu đường, cũng như các phép đo cơ bản như cân nặng và sức khỏe thể chất.

Kết quả

Các nghiên cứu viên tìm ra rằng tất cả tình nguyện viên trong hai nhóm tập luyện đều có lượng mỡ trong toàn cơ thể cũng như mỡ trong cơ thấp hơn so với nhóm đối chứng sau thời gian ba tháng nghiên cứu. Tuy nhiên, hai nhóm này lại rất khác nhau trong các kết quà kiểm tra khác. Nhìn chung, nhóm tập thể dục nhịp điệu mất nhiều mỡ nội tạng và trong gan, cải thiện độ nhạy của insulin trong khi các nhóm khác thì không.

Tầm quan trọng của nghiên cứu

Những kết quả này cho thấy rằng: đối với nữ giới ở tuổi thanh thiếu niên, thể dục nhịp điệu có thể hiệu quả hơn luyện tập đối kháng trong việc làm giảm các hiểm họa về sức khỏe có liên quan với bệnh béo  phì. Họ cũng lưu ý rằng, các cô gái trong nhóm tập thể dục nhịp điệu có vẻ thích công việc của mình hơn những người trong nhóm luyện tập đối kháng, đối lập với các nam thiếu niên trong nghiên cứu trước của họ.

“Vì thế mang lại những bước tiến cao trong chuyển hóa thể chất với thể dục nhịp điệu và yếu tố yêu thích, chúng tôi hứa hẹn rằng thể dục nhịp điệu sẽ là chế độ hiệu quả hơn với các cô gái thuộc lứa tuổi thanh thiếu niên,” họ cho biết thêm.

 

ban-diich-quynh-phuong-1RR


Những cô gái chỉ tập thể dục nhịp điệu, không nâng tạ, đã giảm một lượng đáng kể cả mỡ nội tạng và mỡ trong gan, cũng như cải thiện độ nhạy của hoocmon insulin, một nhân tố nguy hiểm khác của bệnh tiểu đường và liên quan đến bệnh béo phì.

 

LÊ VŨ QUỲNH PHƯƠNG (dịch)


 

People Tend to Communicate With Similar People, Even More Than Previously Thought


People's tendency to communicate with similar people is stronger than earlier believed, which restricts the flow of  information and ideas in social networks. These are the findings that an Aalto University research group will publish this week in an article in the Proceedings of the National Academy of Sciences.

The results were obtained by means of a computational method developed by the research group and then applied to massive amounts of anonymised mobile phone call data. The data came from a mobile phone operator's billing  system and includes detailed information about the timing of hundreds of millions of mobile phone calls and the age, gender and billing types of anonymised callers and recipients.

The research is linked to computational social science, an area of multidisciplinary research that has become highly important in recent years. In this area, computational methods are used to mine information about human behavior from massive data sets. Rather than focusing on the individual, computational social science strives to understand general properties in the behavior of large groups of people. This contrasts with data collection and mining used for intelligence purposes, which has recently attracted a lot of publicity. Furthermore, the data used is always anonymised.

The research group's computational method is based on statistical analysis of the precise timing of phone calls. This allowed researchers to show that various patterns where phone calls immediately follow each other (for example, A calls B, who then calls C) are more common between people who are similar in terms of age, gender and mutual friends than could be observed based only on numbers of calls made.
Application of the developed method is not only limited to research on communication between people; it also has potential uses in areas like brain research.

( Nguồn: sciencedaily.com)

 

Bản dịch:

CON NGƯỜI CÓ XU HƯỚNG GIAO TIẾP VỚI NHỮNG NGƯỜI TƯƠNG ĐỒNG NHIỀU HƠN CHÚNG TA TỪNG NGHĨ


Xu hướng giao tiếp với người giống mình của con người có vẻ mạnh hơn những gì chúng ta đã tin, và  điều này hạn chế dòng chảy thông tin và ý nghĩ trong mạng lưới xã hội. Đây là những khám phá mà nhóm nghiên cứu Đại học Aalto sẽ công bố tuần này trong một bài báo trên biên bản của Học viện Khoa  học Quốc gia.

Kết quả có được nhờ nhiều phương tiện của phương pháp sử dụng máy tính điện tử phát triển bởi nhóm nghiên cứu và sau đó áp dụng với một lượng lớn dữ liệu các cuộc gọi di động được ẩn danh. Dữ liệu đến từ hệ thống tính cước phí của một nhà cung cấp dịch vụ di động, bao gồm thông tin chi tiết về thời gian của hàng trăm triệu cuộc gọi cùng tuổi tác, giới tính và loại cước của những người gọi và người nhận ẩn danh.

Nghiên cứu liên kết với ngành khoa học xã hội dùng công nghệ máy tính, một lĩnh vực của nghiên cứu đa kỷ luật đã trở nên cực kỳ quan trọng trong những năm gần đây. Trong lĩnh vực này, phương pháp ứng dụng máy tính điện tử được sử dụng để khai thác thông tin về hành vi con người từ lượng lớn các thiết lập dữ liệu. Thay vì tập trung vào từng cá nhân, khoa học xã hội dùng công nghệ máy tính cố gắng để hiểu được những thuộc tính chung trong hành vi cư xử của những nhóm nhiều người. Việc này đối lập với việc thu thập và khai thác thông tin cho những mục đích trí tuệ - điều thu hút nhiều công chúng hiện nay. Hơn nữa, dữ liệu được sử dụng luôn được ẩn danh.

Phương pháp điện tử của nhóm dựa trên phân tích thống kê thời gian chính xác của các cuộc gọi. Việc này cho phép các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng những kiểu mẫu đa dạng mà các cuộc gọi nối tiếp nhau liên  tục (ví dụ, A gọi B, sau đó B gọi C) phổ biến hơn với những người tương đồng về lứa tuổi, giới tính và  bạn thân so với những gì nhận thấy được khi chỉ dựa trên số lượng cuộc gọi.
Trang thiết bị của phương pháp được phát triển không bị giới hạn với nghiên cứu trên sự giao tiếp giữa người với người, và còn nhiều tiềm năng trong nhiều lĩnh vực như nghiên cứu về não bộ.

(Nguồn: sciencedaily.com)

 

LÊ VŨ QUỲNH PHƯƠNG (dịch)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com