LÊ VŨ QUỲNH PHƯƠNG: Long-Distance Relationship May Strengthen Couple’s Bond

phoca_thumb_l_son-dau-kho-nhoRR-1

 

Sau Thơ dịch từ tiếng Anh của một nữ sinh lớp 11, trang web www.leminhquoc.vn rất vui mừng khi nhận được cả trăm comment của bạn đọc xa gần. Vừa góp ý, vừa khen ngợi. Điều này cho thấy, những tấm lòng yêu văn chương, yêu cái đẹp tư tưởng của nhân loại đã giúp chúng ta gần với nhau hơn. Kỳ này chúng tôi trân trọng giới thiệu hai bản dịch mới. Một, về sự xa cách trong tình yêu; hai, thói quen bắt chước cha mẹ của trẻ em.

Bản dịch này thế nào? Có chuẩn về từ ngữ? Mong các bạn tiếp tục comment góp ý nhằm giúp bản dịch hoàn thiện hơn. Qua đây, cũng là dịp chúng ta cùng thiện chí trao giồi thêm về khả năng tiếng Anh.

Xin cám ơn bạn đọc xa gần.

L.M.Q

(VIII.2013)

 

Long-Distance Relationship May Strengthen Couple’s Bond

(HealthDay News)  Does distance really make the heart grow fonder? Maybe so: According to a new study, people in long-distance romantic relationships can form stronger bonds than those in normal relationships.

Dating couples in long-distance and normal relationships told researchers about their daily interactions using different methods: face-to-face, phone calls, video chat, texting, instant messaging and email.

For a week, the participants reported to what extent they shared about themselves and experienced intimacy, and how much they they felt their partners did the same thing, for the study in the June issue of the Journal of Communication.

Long-distance couples had greater feelings of intimacy due to two factors: They disclosed more about themselves and they idealized their partners’ behaviors, said study authors Crystal Jiang of City University of Hong Kong and Jeffrey Hancock of Cornell University.

Long-distance relationships are increasingly common and people use many kinds of communications technologies to maintain their romantic bonds, a journal news release noted. Recent figures show that 3 million married couples in the United States live apart. Between 25 percent and 50 percent of college students are currently in long-distance relationships and up to 75 percent have had one at some point.

Even so, many people believe that long-distance relationships are challenging.

“Indeed, our culture emphasizes being together physically and frequent face-to-face contact for close relationships, but long-distance relationships clearly stand against all these values. People don’t have to be so pessimistic about long-distance romance,” Jiang said in a journal news release. “The long-distance couples try harder than geographically close couples in communicating affection and intimacy, and their efforts do pay back.”

 

Phần dịch:

KHOẢNG CÁCH CÓ THỂ GIÚP TÌNH YÊU BỀN VỮNG HƠN


Liệu khoảng cách địa lí có thật sự khiến trái tim rung động nhiều hơn? Có thể là thế. Theo một nghiên cứu gần đây, các cặp đôi xa cách về mặt địa lí có mối liên kết bền chặt hơn những cặp đôi bình thường khác.

Những cặp đôi đang hẹn hò bình thường và những cặp đôi ở xa nhau cho các nhà nghiên cứu biết về sự tương tác hàng ngày của họ bằng nhiều cách thức khác nhau như: “mặt đối mặt”, gọi điện thoại, nhắn tin, trò chuyện qua video và thư điện tử.

Trong thời gian một tuần, những người tham gia tường thuật cuộc nghiên cứu này cho tạp chí Journal of Communication về mức độ chia sẻ, mức độ thân thiết và cảm giác của họ với đối phương.

 

hinh-minh-hoa-1-Ranh-nay

 

Theo lời các tác giả nghiên cứu Crystal Jiang của Đại học Hồng Kong và Jeffrey Hancock của Đại học Cornell: “Những cặp đôi cách xa nhau có cảm xúc thân thiết mãnh liệt hơn vì 2 nguyên nhân sau: họ thổ lộ nhiều hơn bản thân và lí tưởng hòa hành động của đối phương”.

Một tờ tạp chí tin tức lưu ý thêm rằng tình yêu cách trở về mặt địa lí ngày càng thêm phổ biến và người ta sử dụng nhiều công nghệ thông tin để giữ gìn mối quan hệ tình cảm. Một khảo sát gần đây cho thấy khoảng 3 nghìn cặp vợ chồng Mỹ sống xa nhau. Từ 25% đến 50% sinh viên đại học hiện nay có những mối quan hệ xa cách về mặt địa lí, và có đến 75% từng có một mối quan hệ như thế trong một vài giai đoạn.

Tuy vậy, nhiều người vẫn cho rằng khoảng cách địa lý trong tình yêu vẫn là một thử thách.

Nhà nghiên cứu Crystal Jiang của Đại học Hồng Kong bộc lộ thêm rằng: “Thật ra, văn hóa của chúng ta nhấn mạnh việc gần gũi về mặt thể xác và gặp gỡ trực tiếp thường xuyên để có một mối quan hệ thân thiết, nhưng rõ ràng yêu xa chống lại những điều này. Người ta không cần phải quá bi quan về chuyện tình cảm khi xa nhau. Những cặp đôi yêu nhau nhưng có khoảng cách về địa lí cố gắng nhiều hơn những cặp gần nhau khi thể hiện sự yêu mến và thân thiết, và nỗ lực đã giúp họ gắn bó nhau nhiều hơn”.

 

Lê Vũ Quỳnh Phương

(nguồn tham khảo: HealthDay News)

 

Kids Mimic Parents’ TV Viewing Habits

(HealthDay News) - If you want your kids to spend less time parked in front of a television, you need to set the example.

That’s the message of a new study that links TV viewing habits in kids to how much time their parents spend in front of the tube.

“The best predictor of children’s TV time is their parents’ TV time,” said study author Amy Bleakley, a policy research scientist at the University of Pennsylvania’s Annenberg Public Policy Center in Philadelphia. “If Mom and Dad automatically turn on the TV when they have free time, it’s likely that their kids will learn to do the same.”

There are some caveats. For one, the study relied on an online survey, so parents who aren’t on the Internet couldn’t take part. Also, it’s not clear what the kids were watching; the programming could have been educational. In addition, TV watching could potentially prevent kids from taking part in more harmful activities.

It’s especially hard for researchers to isolate the impact of TV because so many other factors affect the lives of children. Still, “we know that high levels of TV viewing are associated with increased risk of obesity and associated illnesses among children and adults,” said Russ Jago, a professor of pediatric physical activity and public health at the University of Bristol in the United Kingdom.

“However, TV viewing also provides many benefits for children in terms of learning that are different to alternative mediums, and therefore some TV viewing is not a bad thing in itself,” Jago noted. “It is about moderation.”

The American Academy of Pediatrics recommends no TV for kids under 2 and a limit of two hours a day of non-educational programming for older children.

In the new study, researchers examined the results of surveys with 629 adolescents and 1,550 parents with children aged 5 or under, 6 to 11, and 12 to 17. The researchers adjusted the results so they’d better reflect American parents with kids in each age group.

“In general, we found that across children of all ages, the amount of time a parent spends watching television is strongly associated with their child’s television time,” Bleakley said.

The research offers a view of the importance of parental viewing time as compared to topics of other research, such as the presence of TVs in bedrooms, she said. “Parents may not realize how their media habits shape their children’s habits. They may find that if they curtail their own time with TV, their children will follow suit.”

Jago praised the study as large and well-designed, and said it “provides insights into factors that could be potential targets for interventions to reduce TV viewing.”

The study appears online July 15 and in the August print issue of the journal Pediatrics.

 

Phần dịch:


TRẺ EM THƯỜNG BẮT CHƯỚC THÓI QUEN XEM TI VI CỦA BỐ MẸ


Nếu bạn muốn con mình bỏ ít thời gian xem ti vi hơn, bạn cần làm gương cho chúng. Đó là thông điệp của một nghiên cứu mới đây về mối liên hệ thói quen xem ti vi của trẻ với thời gian bố mẹ chúng bỏ ra để xem ti vi. Theo tác giả nghiên cứu Amy Bleakley, nhà khoa học chuyên về nghiên cứu chính sách của Trung tâm Nghiên cứu Chính sách cộng đồng Annenberg thuộc Đại học Pennsylvania ở Philadelphia, thì cách tốt nhất để dự đoán thời gian xem ti vi của trẻ là thông qua bố mẹ chúng. Nếu bố mẹ có thói quen mở ti vi khi rảnh rỗi, chắc chắn con cái sẽ bắt chước làm như thế.

 

hinh-minh-hoa-2Ranhnay

By Randy Dotinga (HealthDay Reporter)


Tuy nhiên có một số lưu ý. Cuộc nghiên cứu này dựa trên khảo sát thông qua Internet, do đó những phụ huynh không sử dụng Internet thì không thể tham gia. Ngoài ra, vẫn chưa rõ trẻ em xem gì, và những chương trình đó có thể mang tính giáo dục gì hay không. Thêm nữa, xem ti vi có thể ngăn trẻ tham gia các hoạt động khác tai hại hơn.

Các nhà nghiên cứu cho biết thêm, có nhiều nhân tố khác ảnh hưởng đến đời sống của trẻ. Theo giáo sư Russ Jago, chuyên nghiên cứu hành động thể chất của trẻ em và sức khỏe cộng đồng tại Đại học Bristol, Anh Quốc cho biết: xem ti vi mang lại nhiều lợi ích cho trẻ trong lứa tuổi học hỏi, bản thân việc xem ti vi không phải là xấu. Đó là do sự điều tiết. Tuy nhiên, giáo sư cũng nhấn mạnh rằng xem ti vi quá nhiều liên quan đến mối nguy ngày càng gia tăng của chứng béo phì cũng như các chứng  bệnh  liên quan khác của trẻ em và người lớn.

Viện Hàn lâm Nhi đồng Hoa Kì khuyến cáo không cho trẻ dưới 2 tuổi xem ti vi và giới hạn 2 giờ đồng hồ mỗi ngày cho chương trình không mang tính giáo dục với trẻ lớn hơn độ tuổi này.

Trong cuộc nghiên cứu nói trên, các nhà nghiên cứu kiểm tra kết quả khảo sát với 629 thanh thiếu niên và 1550  phụ huynh cùng con cái từ 5 tuổi trở xuống, 6 đến 11 tuổi và 12 đến 17 tuổi.  Amy Bleakley cho hay: “Nhìn chung, chúng tôi nhận ra rằng qua những đứa trẻ thuộc những lứa tuổi khác nhau, lượng thời gian phụ huynh xem ti vi có liên hệ chặt chẽ với thời gian xem ti vi của con cái họ”.

Nghiên cứu đem lại cái nhìn về tầm quan trọng của thời gian xem ti vi của bố mẹ khi so sánh với các chủ đề nghiên cứu khác, ví dụ sự có mặt của ti vi trong phòng ngủ. Bố mẹ có thể không nhận ra thói quen sử dụng phương tiện thông tin đại chúng của họ tạo nên thói quen của con cái như thế nào. Họ có thể nhận thấy rằng nếu họ rút ngắn thời gian với ti vi của riêng họ, con cái cũng sẽ làm y như thế.

Jago khen ngợi cuộc nghiên cứu vì phạm vi rộng và tổ chức tốt, và nói rằng nó “cung cấp hiểu biết sâu sắc về các nhân tố có thể lả mục tiêu quan trọng để can thiệp và giảm bớt việc xem ti vi.”

Nghiên cứu xuất hiện trên mạng Internet vào ngày 15 tháng Bảy và trong số phát hành tháng Tám của tạp chí Pediatrics.

 

Lê Vũ Quỳnh Phương

(nguồn: tham khảo HealthDay News)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com