THỂ LOẠI KHÁC Biên Khảo LÊ MINH QUỐC: Thơ Thầy Thông Chánh, Sáu Trọng, Hai Miêng

LÊ MINH QUỐC: Thơ Thầy Thông Chánh, Sáu Trọng, Hai Miêng

Mục lục
LÊ MINH QUỐC: Thơ Thầy Thông Chánh, Sáu Trọng, Hai Miêng
Về ba bổn thơ lưu hành ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX mới tìm được
* Lời giới thiệu thơ Thầy Thông Chánh
Thơ thầy Thông Chánh
* Lời giới thiệu thơ Sáu Trọng (Lê Minh Quốc)
Sáu Trọng thơ
* Lời giới thiệu Thơ cậu Hai Miên
Thơ Cậu Hai Miêng
Tất cả các trang

Quái lạ cho trí nhớ con người. Thuở nhỏ, tôi đọc trong tủ sách của ba tôi có nhiều tác phẩm khảo cứu văn hóa của cụ Vương Hồng Sển mà đến nay có chi tiết vẫn chưa thoát khỏi trí nhớ. Trong đó có một quyển, cụ bày tỏ ý muốn đau đáu muốn tìm lại bản tìm là bổn thơ Thơ Thầy Thông Chánh lưu hành tại miền Nam đầu thế kỷ XX. Vì thế, trong các cuộc trà dư tửu hậu, khi cụ nói ra ước vọng của mình, lập tức ai ai cũng hứa với cụ là sẽ cung cấp ngay. Thế nhưng, sau đó chỉ bặt tăm tin cá. Tôi nhớ cụ có viết câu chua chát, đại khái, trong cuộc nhậu thì ai cũng tốt, ai cũng hứa hẹn giúp này nọ nhưng sau đó họ quên tuốt.

tho-hai-mien


Khi lớn lên, tôi bắt đầu lưu ý đến bổn thơ này. Học giả cỡ như cụ Sển còn muốn tìm đọc, hẳn nó phải có một giá trị nhất định chứ không phải đùa. Nhân 300 năm Sài Gòn - TP.HCM, tôi bắt đầu nhận lời của NXB Trẻ viết "cái gì đó" về Sài Gòn xưa. Tôi bắt tay vào viết tập đầu tiên của bộ sách 300 năm Sài Gòn - TP.HCM, và đi tìm bổn thơ này. Tôi chỉ tìm được bổn thơ Sáu Trọng. Như một cơ duyên, nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiệp (anh bạn rất đáng quý của tôi) từ An Giang báo tin là đã tìm được bổn thơ Thầy Thông Chánh. Tôi mừng hơn nhặt được vàng. Kế tiếp, tình cờ tôi biết tù sách ông Nguyễn Q. Thắng có giữ tập thơ Hai Miên.

Nhờ cơ duyên đó, tập Thơ Thầy Thông Chánh, Sáu Trọng, Hai Miêng lần đầu tiên được công bố. Nay nghĩ lại, tôi vẫn còn vui và qua trang web www.leminhquoc.vn,  tôi chia sẻ với những ai yêu mến dòng thơ dân gian Việt Nam nói chung, trong đó có Nam bộ. Nghĩ cho cùng, lời ăn tiếng nói của dân gian là di sản quý báu của cả một dân tộc. 

L.M.Q

IX.2012



Về ba bổn thơ lưu hành ở Nam Kỳ đầu thế kỷ XX mới tìm được

Khi biên soạn Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976), nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh có viết: “Những bài vè thầy Thông Chánh, Sáu Trọng, Hai Miêng in năm 1890 ở Sài Gòn. Đó là một pho sử sống do nhiều loại người sáng tác, hoặc người quen cày cuốc trong lũy tre xanh, hoặc anh hát xẩm nói thơ trên đường phố, hoặc ông đồ nghèo, ông tú xuất thân bình dân lại có cả nhà sư yêu nước thức thời. Pho sử ấy ngay từ buổi đầu đã có bản được chép, có đoạn được in, nhưng đều bị quân Pháp tịch thu ngay. Hầu hết đều ghi trong óc, cất trong trí nhớ và truyền đi bằng miệng qua lời hát, cách kể, lối nói của từng địa phương, của từng loại người. Và như vậy, dù cho bọn thực dân, bọn quan lại có cấm đoán, lời thơ của nhân dân vẫn cứ cất cao bay bổng. Nó tươi tắn, chân chất như cuộc sống, nóng hổi và cuồn cuộn, hấp dẫn mọi người. Ai cũng muốn kể, ai cũng muốn biết, ai cũng muốn truyền…” (tr.223). Đây cũng là nhận định chung về thể loại thơ tự sự dân gian.

Trong Địa chí văn hóa TP. Hồ Chí Minh - tập 2 (NXB TPHCM, 1988) gọi là “truyện thơ” (tr.46) cũng có ghi nhận: “Nếu thơ thầy Thông Chánh và thơ Sáu Trọng - Hai Đẩu được coi là ‘truyện thơ làm rung rinh chế độ thực dân Pháp vào đầu thế kỷ XX’ hì các truyện thơ Sáu Nhỏ, Năm Tỵ, Hai Miêng là những cuộc nổi loạn của những con người ‘dọc ngang nào biết trên đầu có ai’ (tr.46).

Trong khi đó, một nhân chứng của thời đại là nhà nho Nguyễn Liên Phong, khi viết Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca (Phát Toán in năm 1909 tại Sài Gòn) lại có cái nhìn lệch lạc, đánh giá không đúng về những bài vè này:

Sau thêm Sáu Trọng hành hung

Sát nhơn bạch nhựt, mạng đồng phù du

Thông Chánh chuyện không đáng thù

Bắn quan biện lý tu du bỏ mình

Quốc gia cứ lẽ công bình

Hai người xử tử, phân minh răn người

Nghĩ đi nghĩ lại nực cười

Mang câu khí huyết ở đời sao xong

Làm người không xét đục trong

Đặt vè tầm bậy, điên khùng bia danh

Nếu quả thật những bổn vè này “tầm bậy, điên khùng” thì chắc chắn thực dân Pháp đã không ra lệnh tịch thu, thậm chí ai lưu truyền còn bị chúng bắt bỏ tù nữa là khác. Rồi sau này, các nhà nghiên cứu nặng tình với nền quốc học và quốc sử nước nhà đã dày công tìm tòi. Chẳng hạn, từ năm 1968, ông Vương Hồng Sển, trong bài “Chung quanh vấn đề viết soạn tiểu sử Nguyễn Trung Trực cũng như các nhân vật lịch sử khác” đăng trên Tập san Sử Địa số 12, phát hành tại Sài Gòn có đoạn viết: “Tôi muốn tìm lại bài vè, nguyên văn bài thơ lục bát, lúc nhỏ tôi đã được nghe đầy lỗ tai, do mấy anh mù đờn độc huyền ngồi nói thơ tại chợ Sóc Trăng, nơi các ngã tư hay ngang các tiệm hút, kể lại rành rọt sự tích thầy Thông Chánh này. Tôi tổ chức một bữa tiệc tại nhà. Các anh em có mặt, trong số có một ông ở Bến Tre, một ông ở Trà Vinh và một ông còn nhỏ tuổi, gốc gác người Rạch Giá, nay mỗi tuần vãn nghe tiếng nói trên Đài Phát thanh, ba ông đều hứa tìm dùm bổn thơ tôi đang cần dùng. Nhưng cho đến hôm nay, nước vẫn chảy dưới cầu, mà việc đâu còn đó, tại số thầy Thông Chánh chưa đi đầu thai được. Bổn thơ nói về thầy, tôi nhớ lấy được vài câu khởi đầu:

“Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra

“Chép làm một bổn để mà xem chơi

“Trà Vinh nhiều kẻ kỳ tài

“Có thầy Thông Chánh thiệt người lớn gan…”

Nhớ tới đây rồi hết, tôi không nhớ được, mà các bạn của tôi, duy khi nào có rượu, có động dao động thớt thì mới thấy mặt. Cái câu: “Anh Vương cứ yên tâm. Để đó cho các em. Anh đừng lo. Hễ tôi về tới xứ sở, tôi hỏi lại kỹ rồi tôi chép ngay gởi lên anh tức thì”. Câu ấy còn nghe văng vẳng bên tai, nhưng tôi đã biết dư và không lấy làm lạ lắm. Bạn tôi ba người, có đứa mắc lo “gả chị vợ”, đứa bạn lo “nuôi vợ người ta đẻ”, đứa chót không lo gì hết, nhưng có làm gì có ích đâu, ngoài việc đi nhóm, đi hội, trông mong tiền xúp.

…. “Hỏi kỹ lại thầy Thông Chánh giết Biện lý Tây là vì lão này hết chỗ chơi, nhè vợ thầy mà mò. Thầy chết bị gươm máy chém mà dân không sợ vì hiểu trái ngược ý muốn của Tây, dân xem gương thầy Chánh là người hùng, dám ăn dám làm, không như nhiều người, vợ cho Tây, cho Mẽo mượn làm món đồ chơi, lại còn hãnh diện”.

Ông Sơn Nam, trong cuốn “Thiên địa hội và cuộc minh tân” (Phù Sa, Sài Gòn, 1971) trang 89-93:

“Thơ thầy Thông Chánh do người sau kể lại, sự can đảm của thầy trở thành huyền thoại, những sự kiện trình bày trong tập thơ có thể không đúng với sự thật, thầy Thông Chánh đã giết tên Biện lý Trà Vinh và Jaboin, vào ngày 14 Mai 1893. Nên nhắc rằng trước đó đúng năm 1889, vào khoảng 8 giờ tối, viên tham biện chủ tỉnh tên là Langlais cũng bị ám sát hụt tại Trà Vinh.

Vì không tìm ra được tập thơ thầy Thông Chánh, chúng tôi đành tóm lược và trích dẫn vài đoạn ghi lại theo trí nhớ của một nhơn sĩ ở Chợ Giữa (Mỹ Tho). Tập thơ này thời Pháp thuộc bị cấm lưu hành và cấm trình bày nơi công cộng vì nội dung đề cao một người dám giết kẻ thù là tên Biện lý người Pháp".

Ông Phạm Long Điền, trong bài “Hai tập thơ bình dân đã làm rung rinh chế độ thực dân miền Nam vào đầu thế kỷ hai mươi”, đăng trên tạp chí Bách Khoa số 412, phát hành ngày 30.7.1974:

“Cho tới nay, nhiều tác giả tại miền Nam đã nghiên cứu thơ Sáu Trọng. Nhưng thơ thầy Thông Chánh mới đáng được nghiên cứu vì nó nêu rõ tính chất đối kháng của sĩ dân miền Nam chống lại chế độ thực dân… Thầy Thông Chánh được mô tả như một nhân vật đầy huyền thọai. Thầy là thông ngôn hưởng nhiều ưu quyền của chế độ thực dân: Vợ thầy đẹp, nhẹ dạ, bị tên Biện lý Jaboin ở Trà Vinh quyến rũ, thầy Chánh ghen, bắn tên Biện lý. Dân chúng Nam Kỳ hồi ấy phục thầy dám cầm súng bắn người Pháp, xem thầy như một anh hùng dân tộc” (…) Trước năm 1909 tại Nam Kỳ đã có hai tiểu thuyết văn vần:  Thơ thầy Thông Chánh thơ Sáu Trọng. chúng ra đời như hai tia lửa báo hiệu sự đoạn tuyệt của quần chúng Việt Nam đối với di sản văn hóa bắt nguồn từ Trung Hoa và tố cáo bộ mặt thực do thực dân áp đặt trên mảnh đất thân yêu này.

Thể tài của thơ thầy Thông Chánh thơ Sáu Trọng không còn dựa vào nguồn cảm hứng Trung Hoa xa xôi mà trái lại, nó được hình thành từ cuộc sống hàng ngày gần gũi của người dân Việt. Người soạn hai tập thơ trên quan niệm sáng tác cho quần chúng, chẳng những cốt truyện, mà lời thơ cần đi sát với nếp sống của quần chúng. Ảnh hưởng nhờ đó mới được sâu rộng và sứ mạng của người cầm bút mới được chu toàn.

… Cho nên, chúng ta không lấy làm lạ khi thấy nhà cầm quyền thực dân cấm lưu hành hai tập thơ trên. Cấm lưu hành chưa hả dạ, thực dân còn cầmtuyệt người dân nói thơ thầy Thông Chánh để rồi sau hơn nửa thế kỷ, tại miền Nam hiện nay không ai còn nhớ tới một vài câu thơ liên hệ đến thầy Thông Chánh. Thậm chí hiện nay khi đề cập đến thời kỳ đầu nền văn học quốc ngữ người ta đã quên hẳn đi sự có mặt của thơ thầy Thông Chánh, thơ Sáu Trọng, hai tập thơ đã đoạn tuyệt nguồn cảm hứng Trung Hoa và nói lên được mức đề kháng của quần chúng trong Nam đối với chế độ thuộc địa”.

Ông Nguyễn Văn Hầu, trong bài “Thơ trong phong trào nói thơ miền Nam với một số tác phẩm mang tính chất đối kháng” đăng trên tạp chí Bách Khoa số 414 ra ngày 19.10.1974:

“Chúng ta làm sao quên được những bổn thơ mà chúng ta không xếp nó vào loại đối kháng thực dân! Người ta công khai ca ngợi anh hùng tính, đề cao những người chống phá pháp luật, gây rối trật tự. Giữa lúc mà Tây tổ chức bộ máy cai trị chặt chẽ tại cái xứ gọi là “thuộc địa” này rồi, các cuộc sắt máu tranh đấu trước sau kể như bị đẩy vào tàn lụi rồi, vậy mà dân chúng mạnh dạn đua nhau ngâm nga ca hát, đua nhau khen phục những người coi “phép nước” như chơi ấy, thật đâu phải là chuyện dễ thường mà nên!

Đó là một tâm lý đối kháng ngấm ngầm, một sự bất phục tùng tiêu cực, được phát tiết từ những chèn ép nặng nề mà vô hình trung, đa số đã vô tình đồng lõa dấy lên, gây thành một phong trào công khai và rộng lớn.

Thực dân đã có lúc cấm thơ cậu Hai Miêng, bởi vậy thơ cậu Hai Miêng loại bổn cũ soạn lại đã thiếu nhiều chi tiết. Họ cũng truyền bắt bỏ tù những ai nói thơ thầy Thông Chánh, cho nên thơ thầy Thông Chánh ngày nay hết sức hiếm hoi.

(…) Cho nên về phương diện tâm lý, ta thấy đó là một hình thức phản đối thực dân thống trị, gián tiếp khuyến khích chống luật pháp đương thời và cổ võ, tiếc thương cho những tay khí phách can cường mang trong mình một dòng máu anh hùng, thể hiện bản tính bộc trực, nhứt ngôn ninh thọ tử bất ninh thọ nhục của con người lục tỉnh.

Tác dụng của thơ chắc chắn đã có lúc làm thực dân điên đầu bực tức. Bằng cớ là ngoài việc cấm đoán không cho phổ biến loại thơ đối kháng nói trên, người ta còn thấy những lời phản tuyên truyền do một bàn tay theo Tây đưa ra. Điều này thêm lần nữa xác định tác dụng tâm lý đáng kể của các bổn thơ vừa nói.”

Chính cũng vì ý thức được như thế nên chúng tôi đã chú tâm tìm tòi trong nhiều năm nay. Và đã may mắn tìm được. Được sự giúp đỡ của NXB Trẻ, chúng tôi xin được phép in lại ba bổn thơ này, không ngoài mục đích chứng liệu để làm rõ hơn nhận định của Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh - tập 2: “Các truyện thơ lịch sử - xã hội cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã kể về cuộc đời của những con người như thế đó. Nó phản ánh một cách trung thực xã hội bất công và suy đồi. Ở đây cũng lóe lên những tia sáng của tinh thần phản kháng. Đó là những ngọn lửa âm ỉ cháy để đến những năm 30,40 bùng lên thành biển lửa cách mạng của dân tộc. Được sáng tác bằng thể loại thơ lục bát truyền thống của dân tộc, các truyện thơ này đã cung cấp cho sinh hoạt “nói thơ” những tác phẩm nóng hổi tính thời sự và có thể nói chúng đã mở đầu cho loại tiểu thuyết hiện thực về đề tài thành thị.\” (tr.51).

Nhân đây cũng xin nói qua về những bổn thơ này.

Thứ nhất, thơ thầy Thông Chánh do Nguyễn Hữu Hiệp sưu tầm được - do bà Đào Thị Mười ở Thủ Thừa (Long An) đọc thuộc lòng (nói thơ) - gồm 262 câu. Thứ hai, thơ Sáu Trọng là do Lê Minh Quốc tìm mua được bổn in cũ tại nhà sách cũ trên đường Nguyễn Thị Minh Khai (Q.3). Thứ ba, thơ cậu Hai Miêng thì tình cờ xem trong tủ sách gia đình của ông Nguyễn Q. Thắng thấy có bổn thơ này -  tuy nhiên do mất bìa nên không rõ in năm nào. Tập sách này dày 18 trang gồm 564 câu thơ. Trang đầu tiên, dưới tựa lớn “Cậu Hai Miêng” thì có ghi: Tác giả: Van Phước dit Nguyễn Bá Thời. Chúng tôi ngờ rằng, tác giả trong trường hợp này không là người đã sáng tác như chúng ta từng hiểu, mà là người đứng ra in tập thơ này. Điều này cũng giống như trường hợp bổn thơ Sáu Trọng lại ghi là Nguyễn Kim Đính dịch (?) mà chúng tôi sẽ lý giải sau. Trang cuối cùng có ghi: “Bán sỉ, lẻ đủ các thứ sổ, sách, giấy, mực, thơ, tuồng, truyện bài ca, tiểu thuyết mới cùng sách học, thì do nơi hiệu Phạm Đình Khương, Cholon, 31 Boulevard, Bonhoure”. Chi tiết này có thể giúp cho chúng ta xác định thời điểm mà tập thơ được in.

Khi in lại ba bổn thơ này, chúng tôi chủ trương in đúng nguyên văn, không thêm bớt, chỉ sửa vài lỗi chính tả. Trước mỗi tập thơ, chúng tôi có viết đôi lời giới thiệu, nhằm giúp bạn đọc nắm rõ nội dung của ba truyện thơ này.

Thiết nghĩ, trong dịp long trọng kỷ niệm 300 Sài Gòn - TP Hồ Chí Minh, việc in lại các áng thơ bình dân từng “làm rung rinh chế độ thực dân Pháp đầu thế kỷ XX” cũng là điều ôn cố tri tân. chúng tôi cố gắng làm hết sức mình để tập sách ra đời hoàn chỉnh nhất, tuy nhiên cũng không thể tránh khỏi những thiếu sót nào đó, rất mong được sự chỉ bảo, giúp đỡ chân tình của các bậc học giải đi trước.

Nhóm sưu tầm, giới thiệu

Nguyễn Hữu Hiệp - Lê Minh Quốc


  

 

Thơ thầy Thông Chánh

Lời giới thiệu

Chuyện đã trên trăm năm

Đối với thực dân Pháp, Thơ thầy Thông Chánh là một tác phẩm có nội dung nguy hiểm, làm rung rinh hệ thống chính quyền thuộc địa tại Việt Nam và Đông Dương, do đó họ không thể không cấm ngặt phổ biến dưới mọi hình thức, kể cả hát ru em trong phạm vi gia đình, hoặc trà đàm, ngâm nga giải buồn.

Cuối thế kỷ 19, trong bối cảnh đất nước bị đặt dưới ách cai trị tàn bạo của ngoại bang xâm được, giữa lúc lương dân đang chịu vô vàn lao khổ, bỗng dưng có một người thông ngôn tên Chánh hiên ngang bạo động ngoạn mục giữa thanh thiên bạch nhựt, ngay trong châu thành Trà Vinh, đúng vào ngày quốc khánh nước Pháp, rõ ràng là một hành động dũng cảm, rất đáng để nhân dân ca ngợi.

Thân thế sự nghiệp của thầy Chánh như thế nào, đến nay chưa thấy ai nói. Có lẽ không ai rõ thì đúng hơn. Chỉ biết ông tên “Nguyễn Văn Chánh còn gọi là Nguyễn Trung Chánh, bị tòa Đại hình Mỹ Tho kết án ngày 19.6.1893 và bị xử tử ngày 8.1.1894 tại Trà Vinh” (1). Theo Sơn Nam trong Thiên địa hội và cuộc minh tân, thầy Chánh bắn kẻ thù là Biện lý Jaboin ngày 14.5.1893. Nếu quả vậy, sự tử đẩy lùi biến cố này lại 2 tháng, “cho” thầy Chánh bạo động đúng vào ngày 14.7 giữa lúc chính quyền thực dân đang tổ chức kỷ niệm lễ Quốc khánh Pháp, rõ ràng người đặt thơ đã cố ý gây chấn động về mặt tâm lý, chính trị, cho to chuyện. Đây là một trong những suy nghĩ sắp xếp hết sức tuyệt vời để nâng cao tác dụng, kích động lòng yêu nước của nhân dân trong tác phẩm văn chương bình dân của mình. Do đó hiện nay mỗi khi đề cập vụ án, người ta chỉ có thể nói được một cách lờ mờ và rất hạn chế về tiểu sử người gây án suy ra từ nội dung bổn thơ. Nhưng cũng không chắc đúng, bởi khi sự việc đã được văn nghệ hóa thì, tất nhiên tính xác thực của vấn đề sẽ không thể trung thực một trăm phần trăm. Ở đây, cái đặc sắc và độc đáo của tác phẩm là, tác giả đã nhân người thật việc thật mà hư cấu thêm một số tình tiết hấp dẫn, lôi cuốn, với dung lượng vừa phải, hợp lý, đủ sức kích động lòng yêu nước của nhân dân.

Chỉ mấy câu mở đầu chúng ta thấy ngay rằng, người sáng tác truyện thơ lục bát này – một tác giả vô danh nào đó – đã tỏ ra hết sức tế nhị, đồng thời cũng hàm chứa nhiều điều muốn nói:

Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra,

Chép làm một bổn để mà xem chơi.

Trà Vinh nhiều kẻ kỳ tời,

Có thầy Thông Chánh thiệt người lớn gan.

Vừa thận trọng vừa sâu sắc. Tác giả cố né tránh sự khó dễ của nhà đương cuộc bằng cách nói là dựa theo bản tin đăng trên nhựt trình – tờ Gia Định báo do ông Trương Vĩnh Ký điều khiển, một loại công báo in bằng chữ quốc ngữ đầu tiên ở Việt Nam của “nhà nước bảo hộ” – mà đặt ra thành vần để người bình dân dễ ngâm nga, tiện truyền bá. Rõ ràng mang tính sáng tác nhưng tác giả lại khéo nói là “chép”, và chỉ “chép làm một bổn”, hơn thế nữa, “để mà coi chơi” chứ không nhằm mục đích phổ biến ra đại chúng, hầu ngừa trước chuyện lôi thôi có thể xảy ra. Ngay sau đó là lời khâm phục “Trà Vinh nhiều kẻ kỳ tời” (kỳ tài – nhiều chứ không phải chỉ có một), và khi giới thiệu nhân vật cụ thể thầy Thông Chánh, tác giả dùng cụm từ “thiệt người lớn gan” cũng không ngoài cái ý thán phục khí phách anh hùng. Điều này được đề cao rõ ở một đoạn sau đó:

Thương thầy Thông Chánh hùng anh,

Ngày sau hậu thế lưu danh muôn đời.

Qua đó, chúng ta nhận biết một cách khái quát dụng tâm của tác giả. Cứ cho rằng vụ án thầy Thông Chánh giết tên Biện lý người Pháp chỉ là một sự ghen tuông thường tình như lập luận của những người làm việc cho Tây thời ấy, nhưng khi sự việc đã được văn nghệ hóa thì, tác phẩm Thơ thầy Thông Chánh đã trở thành một thứ vũ khí đánh giặc đáng gờm. Điều hiển nhiên này không ai dám phủ nhận, kể cả hạng người vừa nói.

Tác giả đã tỏ ra rất sâu sắc trong việc chọn bối cảnh không gian, thời gian, đối tượng, ngôn từ… để làm bật lên dụng ý kích động của mình, bởi trong công cuộc chống giặc ngoại xâm bằng bạo lực, yêu nước không hề là chuyện riêng của một người, một nhóm người hay một đẳng cấp xã hội, cho nên, ngoài hình thức chiêu tập nghĩa dân, lập mật khu kháng chiến, người yêu nước hãy còn nhiều phương thức thể hiện khác, có khi chỉ một mình cũng bất ngờ tạo thành “trận giặc” náo lọan, chẳng những tiêu hao nhiều tên giặc đầu sỏ, đúng đối tượng, mà còn gây được tiếng vang lớn có ý nghĩa. Điển hình như trường hợp thầy Chánh. Ông trút căm hờn lên đầu từng tên giặc:

Thuốc đạn nạp sẵn một khi,

Tức mình súng nổ đạn ria giáp vòng.

Trúng nhằm ông Chánh Vĩnh Long,

Trúng ngay bắp vế điệu về nhà thương.

Trúng nhằm ông Đốc Cần Thơ,

Bây giờ lại trúng Chánh Tòa Bạc Liêu.

Người Tây bị bệnh cũng nhiều,

Khen cho cây súng dị kỳ,

An Nam không trúng, trúng nhằm người Tây.

Hành vi đại nghĩa của người yêu nước luôn được nhân dân thương mến. Tác giả không thể quên chi tiết này: “Tàu về mới tới Trà Vinh. Vợ con bằng hữu đệ huynh đều mừng”. Và, hành động “kỳ tời” của thầy tất nhiên “Ngày sau hậu thế lưu danh muôn đời”.

Cả những người vì lý do nào đó ra làm việc với Pháp nhưng còn mang chút “chất Việt Nam” cũng không thể không thương tình, giúp đỡ:

Phủ Hơn lời mới tỏ bày:

-Nghe đâu lính tới tịch biên gia tài.

Bà Phủ lời mới chỉ bày:

-Vàng vòng tom góp lại thì một ô.

Chạy ra rồi lại chạy vô,

Tới chùa mà gởi cho thầy lục Nghiêm.

Nhưng hơn hết là những người hợp tác với giặc không thể không hứng lấy số phận bẽ bàng, như trường hợp của chính thầy Thông Chánh, dù “Làm việc nhà nước, ai mà cũng thương”, nhưng đến khi có việc thì cái nhà nước ấy không cần biết phải trái là gì, có oan ức, chống án thì ở đâu, cấp nào, cũng cứ “phủ bênh phủ, huyện bênh huyện”, người cô thế nên đành phải chịu thiệt thòi, ức hiếp. Đây cũng là một chi tiết mà tác giả có dụng ý cảnh tỉnh vậy.

Kết cục thầy Thông Chánh bị án tử hình. Chuyện không thể khác, vì đó là “người thật việc thật”. Nhưng để bù đắp lại phần nào sự mất mát ấy, tác giả đã khéo tìm cách cân bằng trạng thái tâm lý người đọc bằng cách hư cấu những tình tiết như “đạn bay giáp vòng” trong khi điều kiện cấp bách không có đủ thời gian để tỉnh táo nhắm ngay đầu từng tên ác ôn, nhưng nhờ “trời khiến” nên “An Nam không trúng, trúng nhằm người Tây”, toàn ông Đốc, ông Chánh, ông Tòa… những người tiêu biểu cho chính quyền thuộc địa! Tác giả cũng sắp xếp bố cục chặt chẽ, tạo điều kiện cho thầy Chánh có dịp mắng chửi bọn người ác ôn đã miệng, bất kỳ ở đâu, cấp nào, kể cả Ngươn soái (“Mày mà hỏi nữa còng va lên đầu”) cũng không chỉ loanh quanh trong phạm vi các nước thuộc địa, mà còn diễn ra ngay tại “mẫu quốc”. Cho đến giờ chót, gia đình thầy cũng kịp tom góp vòng vàng lưu đi một cách an toàn trước khi chúng đến tịch biên. Rõ ràng, thơ thầy Thông Chánh được xây dựng trên cơ sở “có hậu”. Chính cái “bản sắc dân tộc” ấy đã nâng thêm không ít giá trị nghệ thuật của tác phẩm bình dân.

Về nội dung vụ án, chuyện kể rằng thầy Thông Chánh có vợ rất đẹp, có thể nói thuộc vào hạng “sắc nước hương trời”. Với cái nhan sắc tuyệt vời đó, bà đã làm nhiều người đê mê ngây ngất khi phải một lần nhìn.

Jaboin, một viên quan Biện lý người Pháp tùng sự tại tòa án Trà Vinh đã phải lòng thím Thông Chánh! Khi mà hình ảnh của một người đàn bà tuyệt vời lọt vào mắt xanh của kẻ có nhiều uy quyền và tiền bạc, thì vấn đề chinh phục chỉ còn là cơ hội và thời gian. Thầy Chánh thấy Jaboin muốn chiếm đoạt vợ mình, toan dở trò đồi phong bại tục, phá hoại gia cang, bèn tìm cách đối phó.

Thầy Chánh nghĩ rằng nếu làm lớn chuyện, chống cự hơn thua với một viên quan Biện lý có nhiều quyền hành, chắc chắn sẽ không kết quả mà còn phải mang họa vào thân, sẽ bị mất chức, ở tù, nghĩa là những bất hạnh phũ phàng, đắng cay sẽ trút đổ lên, lần lượt tới, mà không sao lường trước được, bởi chính quyền thuộc địa vốn hống hách, coi mạng sống lương dân như cỏ rác, chứ nào có phán xử công bình, phân biệt phải trái. Cho nên để tránh những tai họa chực sẵn, ông đành chọn con đường nhịn nhục bằng cách xin đổi đi xa. Thầy xin về làm việc tại Sài Gòn, mang theo cả vợ lẫn con, cốt tránh tên Biện lý ác ôn cứ theo ve vãn vợ mình.

Thầy về Sài Gòn tưởng đã xong chuyện, nhưng chỉ mới mấy ngày, tên mũi lõ Jaboin cũng lại lót tót xin về làm tại Sài Gòn.

Thầy Thông ngăn giữ vợ cẩn thận, nhưng nào ngờ tên Biện lý quá sàm sỡ, ve vợ không được lại quay sang ve con thầy:

Biện lý trở lại nó hòng ve con

Làm cho tôi bỏ Sài Gòn,

Quả đồ lục súc vợ con ve đùa

Thôi thôi tôi cũng chịu thua…

Con thầy Thông Chánh là cô Ba Thiệu. Cô Ba là một phụ nữ Việt Nam có nhan sắc tuyệt vời. Tuyệt vời đúng với ý nghĩa của nó. Mẹ cô đẹp, cô lại càng đẹp hơn nhiều lần bởi cô hãy còn nhỏ (17 tuổi), cái tuổi thanh xuân mơ mộng ngập tràn, mơn mởn trong thời trổ mã, dậy thì. Cô Ba nổi bật nhứt trong giới huê khôi thời bấy giờ. Tuy hãy còn nhỏ, nhưng cô cũng đã có chồng. Chồng cô là một người Pháp:

Thứ này đến thứ cô Ba,

Mới mười bảy tuổi lấy người chồng Tây.

Theo học giả Vương Hồng Sến thì “cô đẹp tự nhiên, không ai bì được. Không răng giả, không vú cao su, tóc dài chấm gót, mướt mượt và thơm phức dầu dừa mới thắng”. Theo lời kể lại, thì nét đẹp cô mặn mà, tóc bới ba vòng một ngọn. Văn đã hay, nữ công lại khéo, mà võ thì khó ai bì đặng, cho dù là nam nhi khỏe mạnh. Đẹp đến nỗi nhà dây thép phải phát hành một loại tem đặc biệt in hình cô Ba! Đẹp đến nỗi một hãng xà bông lớn nhứt Việt Nam xin phép được họa hình làm nhãn hiệu: xà bông cô Ba, và cũng để mấy anh quảng cáo múa mép rằng, cô Ba con thầy Thông Chánh tắm xà bông này nên da thịt mới trắng mịn, mặn mà như thế! Và, ngay cả “Ngân hàng Quốc gia Việt Nam” của chế độ Sài Gòn trước đây cũng chọn “in nổi” hình cô (?) trong vòng trắng các loại giấy bạc lớn!

Do cái sắc nước hương trời đó mà kiều nữ Ba Thiệu không thể không lọt vào mắt xanh của tên Biện lý dâm dục!

Còn thầy Thông Chánh, với bản tính của một người đàn ông phương Đông trọng lễ giáo, giàu tình thương và không khuất phục, thầy nghĩ rằng cứ làm thinh mãi như thế này thì hóa ra mình là người nhu nhược ươn hèn, nếu nhịn mãi sẽ bị khinh thường, và biết đâu những hành động loạn luân sẽ được đưa ra đùa giỡn ngay trước mặt?! Nhưng rồi thầy Chánh cũng cố nuốt hận làm quên. Chủ trương hòa hưỡn là chước cao của người quân tử, nên một lần nữa, thầy lại quyết định ra đi.

Thầy xin đổi về Nam Vang (Campuchia lúc bấy giờ cũng là thuộc địa của Pháp – đối với họ, ba nước Việt Nam, Lào và Căm Bốt, trên phương diện cai trị, chỉ coi như một). Thầy cũng mang hết vợ con lên xứ Chùa Tháp. Định đi xa như vậy cho êm chuyện, nhưng nào ngờ nơi xứ lạ quê người xa xôi vạn dặm ấy mà cũng chưa thoát được móng vuốt của con quỷ râu xanh. Gia đình thầy Chánh chưa kịp sắp xếp chỗ ăn, chỗ nghỉ thì hắn đã lù lù hiện đến và dở trò sàm sỡ cũ.

Thầy Chánh quá tức giận, định bụng rằng, thế gian này hoặc Thông Chánh chết đi để tránh chứng kiến cảnh tượng phi luân, hoặc tên Biện lý ác ôn này phải nằm xuống đền tội phá hoại gia cang mới hả dạ. Nghĩ đến, thầy Chánh định ra tay, nhưng kịp suy nghĩ, Nam Vang xa xôi cô thế, nếu gây sự với kẻ nhiều quyền hành thế lực, chắc chắn khó thành, vả lại, nếu thất bại, chết đi cũng xa nhà xa cửa, thân bỏ xứ người không ai hay biết. Do vậy thầy quyết dạy cho tên Biện lý bài học đích đáng bằng cách xin đổi ngược về nguyên quán Trà Vinh, vì nghĩ rằng thế nào Jaboin cũng theo đuổi tới cùng, nghĩa là cũng xin đổi về Trà Vinh, quê thầy, chừng ấy mới ra tay cũng không muộn.

Quả thật, Jaboin không rời vợ con Thông Chánh nửa bước!

Về đến Trà Vinh, thầy Chánh dựng lại nhà cửa, nhưng thợ mộc lãnh tiền trước mà không làm hết việc như đã giao kèo:

Làm rồi thì đã khuôn viên,

Còn một cái cửa thợ không chịu làm.

Tức quá, thầy Chánh bèn đưa đơn thưa thợ mộc để nhờ chính quyền xét xử, nhưng tên Biện lý Jaboin xử hiếp, Thông Chánh thua kiện:

Thiệt tôi giận nó căm gan,

Mắng nhiếc thợ mộc đâm đơn kiện vào.

Biện lý xử thất một khi,

Bênh vực thợ mộc bỏ tôi ngày rày.

Vì vậy thầy không thể dằn nén được nữa.

Nhân ngày 14 tháng 7 nhà cầm quyền thực dân tổ chức trọng thể lễ Chánh chung tại châu thành tỉnh lỵ. Các trò giải trí được bày ra. Đúng 4 giờ chiều, cuộc đua ngựa bắt đầu. Hàng ngàn dân chúng tụ tập. Hàng trăm viên chức cầm quyền các làng, các tổng trong tỉnh cũng được lịnh gọi về dự lễ. Trên khán đài, các quan lớn địa phương và lân cận ngồi đông nghẹt.

Giữa lúc mọi người đang vui mừng, đang cười cười nói nói, bàn luận về các tay tuyệt phích, thì…

- Đùng!

Súng nổ. Trên khán đài, Biện lý Jaboin và nhiều tên “người Tây” khác ngã gục. Mọi người nhốn nháo, la hét, ù chạy tán loạn. Lễ Chánh chung bị phá vỡ. Thầy Thông bị bắt. Thầy định quay súng lại bắn vào đầu tự tử để khỏi bị hành phạt của thực dân:

Thầy thông làm việc ngoan ngùy,

Bắn rồi trở lại bắn mình, để chi!

-Dù ta có sống một khi,

Tây cũng hình phạt sống thì nhơ danh!

Nhưng Phủ Hơn đã kịp thời giựt súng:

Phủ Hơn thấy vậy thất thanh,

Bắt tay Thông Chánh giựt rày súng đi.

Thầy Thông Chánh bắn mình không được, nhưng ngặt nỗi đạn đã lên nòng nên súng nổ, trúng thêm được mấy tên thực dân nữa.

Thuốc đạn nạp sẵn một khi,

Tức mình súng nổ đạn ria giáp vòng.

Trúng nhằm ông Chánh Vĩnh Long.

Trúng ngay bắp vế điệu về nhà thương.

Các quan, thiên hạ chạy tuôn,

Đua nhau mà chạy ra đường ngẩn ngơ.

Trúng nhằm ông Đốc Cần Thơ,

Bây giờ lại trúng Chánh Tòa Bạc Liêu.

Người Tây bị bệnh cũng nhiều…

Có điều đặc biệt là không một người Việt Nam nào bị lạc đạn trong vụ này:

Khá khen cây súng dị kỳ,

An Nam không trúng trúng nhằm người Tây.

Thế là thầy bị thực dân Pháp giam giữ để chờ ngày xử án.

Ngay sau khi bị bắt, sau lần tự tử bằng súng không được, bọn Tây đánh đập tra khảo, thầy Chánh nhứt định không nói một lời, còn mạt sát thậm tệ bọn cướp nước. Bị đánh quá tàn nhẫn, thầy toan cắn lưỡi tự vận nhưng cũng vẫn không thực hiện được ý định bởi thầy bị Tây dụ cho uống thuốc rụng hết hai hàm răng:

Tây đem thầy Chánh một hồi khảo tra:

- Sao mày dám bắn Lang-sa?

Mày bắn Biện lý thiệt mày to gan.

Thầy thông nổi giận chửi ngang,

-Chết tao tao chịu hỏi mà sao ra?

Chúa sanh tao đứng người ta,

Quân bây ăn cướp con nhà nước Nam.

Tao là quân tử chẳng tham…

Thông Chánh cắn lưỡi còn chi hỏi hoài.

Quan thầy vốn thiệt cao tài,

Đổ thuốc vào rượu giao cho Ký Hòa.

Bảo thầy Thông Chánh kia là,

Uống vào một chén vậy mà giải khuây.

Thầy Thông không biết không hay,

Vị lòng, thầy Chánh uống vào rụng răng.

Lần khác, nhân lúc thực dân giải giao thầy bằng tàu, ra đến cửa sông, thầy Chánh giả đò xin đi tiểu, thừa lúc không ai để ý, thầy nhảy ùm xuống sông tự vận, định bụng thà chết chứ không để Tây giết, nhưng lại một lần nữa, tử thần cũng không chịu rước người quyết chết, bởi lúc đó thầy mặc áo bông rất dày nên người thầy cứ nổi phình trên mặt nước chớ không chịu chìm, do đó Tây vớt thầy lên tàu:

Tàu ra giồng Tượng, bãi Sang,

Thầy Thông nói gạt vậy mà bằng nay:

- Chúng bây nghe thửa lời này,

Mở còng một chút thầy ra bô tàu.

Thầy Thông gan dạ như bàu,

Giả đò đi tiểu té nhào xuống sông.

Trong mình mắc bận áo bông,

Móc sắt nó móc kéo lên bô tàu.

Thầy Thông ruột thắt gan bào,

Liều mình chẳng đặng làm sao bây giờ…

Thế là một lần nữa thầy Chánh không thực hiện được ý định tự tử của mình.

Điều đáng chú ý là tánh tình của Thông Chánh rất cương dũng. Có lần thầy toan đập còng sắt lên đầu tên Ngươn soái chỉ vì tên này cứ theo hỏi lải nhải những câu mà thầy không muốn trả lời.

Đem thầy Thông Chánh đến Tòa,

Đặng mà Ngươn soái xử tra công đồng.

-Làm sao mày quá anh hùng,

Dám bắn Biện lý thiệt mày to gan.

Thầy Thông nổi giận chửi ngang:

-Mày còn hỏi nữa còng va lên đầu…

Bọn Pháp căm gan Thông Chánh, bèn quyết định xử tử hình thầy. Nhưng trước khi thi hành bản án, thực dân Pháp giải giao thầy về Huế cho triều đình ta xét xử (thực quyền ở Việt Nam lúc bấy giờ đều hoàn toàn lệ thuộc vào người Pháp. Triều đình ta chỉ là hư vị, một cái vỏ để mà mắt quần chúng và những kẻ non lòng. Do đó, giải giao thầy Thông Chánh cho triều đình, chỉ là một hình thức mang tính chiếu lệ, làm như luật pháp được hành xử công minh và cũng để chứng tỏ bộ máy cai trị của thực dân vẫn còn tôn trọng triều đình nhà Nguyễn vậy.

Đến Huế, thầy tâu bày tự sự:

Thánh hoàng ngồi ngự chương tòa,

Hỏi thầy Thông Chánh sao mà bắn Tây?

Thầy Thông đặt gối tâu quỳ:

- Muôn ơn Thiên tử dân di tỏ tường.

Trước sau thần hạ tỏ phân,

Cái thằng Biện lý ve rày vợ tôi.

Thì thôi tôi cũng bỏ trôi,

Vợ chồng tôi mới đổi về Chợ Trong.

Sài Gòn làm việc mới xong,

Biện lý trở lại nó hòng ve con.

Làm cho tôi bỏ Sài Gòn,

Quả đồ lục súc vợ con ve đùa.

Thôi thôi tôi cũng nhịn thua,

Vợ chồng tôi mới trở về Nam Vang.

Làm cho tán bại gia cang,

Biện lý xin phép Nam Vang đổi về.

Làm cho rời rã phu thê,

Vợ chồng tôi mới đổi về Trà Vinh.

Đặng gần bằng hữu đệ huynh,

Biện lý xin phép Trà Vinh đổi về…

Để rồi phải bị thầy bắn chết (và bản án tử hình do cố sát, đã đến với thầy).

Nghe xong, vua khen người quả cảm, cương dũng, định can thiệp giúp để thầy được ân xá, hoặc được hưởng biện pháp khoan hồng, nhưng thầy tha thiết xin vua cứ để tự nhiên cho số phần, định mệnh, vì đây là chuyện nhỏ, có tính cách riêng tư, không đáng cho vua hạ mình can thiệp:

Năm nay thời vận không nên,

Ngươn soái y án một lời như ghi.

Nên tôi những luống sầu bi,

Xin vua đừng xử để mà mặc tôi.

Cúi đầu tâu vọng Thánh hoàng,

Xin vua an nghỉ nghị ngơi chương tòa.

Việc này là việc Lang-sa,

Giết tha mặc nó vua xin làm gì.

Làm vua chánh trị trào nghi,

Đi chiều lòng nó vậy mà thất danh.

Bởi những lời lẽ đầy lòng cương trực đó, vua ta đã phải ngậm ngùi thương tiếc cho một con người bản lĩnh bất khuất trước bạo lực cường quyền.

Do đó thực dân “y án”.

Trước khi chém đầu, thực dân đưa thầy sang Pháp để gọi là “trình diện hung thủ” với bà mẹ của tên Biện lý. Gặp Thông Chánh, mẹ của Jaboin đùng đùng nổi giận kẻ đã giết con mình:

Đem thầy Thông Chánh về Tây,

Cho mẹ Biện lý xử mà làm sao.

Mụ đầm nổi giận lôi đình,

-Thông Chánh dám giết con tao bỏ mình.

Thầy Thông nổi giận lôi đình,

-Mẹ nào con nấy một lòng chẳng sai.

Cuối cùng thầy Thông Chánh được đưa về Trà Vinh, vào ngày 17.6 năm sau (1894) thầy Chánh thọ án tử hình bằng dao máy (có người nói là ngày 19.6). Cuộc xử án được tổ chức thật lớn. Chính quyền thực dân Pháp truyền rao giáp khắp lục tỉnh cho dân hay, đến coi:

Quan trên mới phán một khi,

Mười bảy tháng sáu xử hình thầy thông.

Truyền rao lục tỉnh giáp vòng,

Đi coi Thông Chánh đứng nên anh hùng.

Càng Long, Ác Ếch, Trà Vinh,

Ba Xuyên, Rạch Giá cũng đi đùng đùng.

Bắc Tranh, Trà Cú, Gò Công,

Sài Gòn, Tân Lạc, cả ngàn muôn dân.

Thiên hạ đông đảo, quá đông,

Bến Tre cũng đến, Mỏ Cày cũng sang…

Thế là vụ án thầy Thông Chánh kết thúc. Kết thúc một biến cố chứ không chấm dứt được những uất hận trào dâng trong lòng người dân Việt Nam vốn phải hứng chịu nhiều cay đắng phũ phàng bởi ách thống trị hà khắc thực dân; bởi sự hà lạm, cướp bóc của bọn quan lại xu thời, tay sai cho giặc.

Tuy biến cố thầy Thông Chánh chỉ là vụ bắn ghen, bắt nguồn từ một nguyên nhân nhỏ giữa cá nhân với cá nhân, nhưng nó không đơn thuần trong cái ý nghĩa ghen tuông thuộc địa hạt tình cảm cá nhân. Trái lại, chính những hành động hà khắc, bóc lột, bức hiếp và hống hách của thực dân, không tôn trọng quyền tự do tối thiểu của người dân, dồn dân vào chân tường… và bao nhiêu nhịn nhục dằn nén dồn ép đến cực độ, để rồi một sự vùng lên bất thần, một hành động táo bạo và liều lĩnh của người bé miệng thấp cổ nhứt định phải có. Có, để nói lên sức đề kháng mãnh liệt của người dân mất nước, và có, để dạy cho thực dân một bài học đích đáng về những hành động hống hách bất nhân bất nghĩa của họ.

Vụ án thầy Thông Chánh đã gây tiếng vang lớn, làm xúc động mọi người, mọi giới (tuy mọi người vẫn ít nhiều thành kiến với thông ngôn, ký lục… những người cam tâm làm bồi cho Tây để ăn bơ, liếm sữa mà còn quay mặt xấc xược với đồng bào). Người dân thời ấy coi hành động của thầy Thông Chánh là một hành động can đảm phi thường. Ai cũng nức lòng, vừa bụng. Cứ mỗi lần có một tên thực dân nằm xuống là hào khí đấu tranh lại có dịp dấy lên trong lòng quần chúng. Và cũng cứ mỗi lần có người Việt Nam nào bị Tây giết hại, là lòng căm thù thực dân lại cứ trào dâng sôi sục! Vì hoàn cảnh nên họ chỉ lén lút luận bàn trong những lúc trà dư tửu hậu, hoặc kể lại cho con cháu nghe trong những hồi công rãnh việc nhàn. Điều đáng ghi nhận là, người bình dân lúc bấy giờ đã có một sáng kiến coi như độc đáo, là họ đã nghĩ ra một hình thức nhắc nhở đến thầy bằng cách đặt ra câu hát đề cập đến, nhưng nội dung không phải là nội dung thầy Thông Chánh bắn Biện lý Tây, mà là một hình thức đề cao giới kim hoàn – xuất xứ câu hát rất có thể do từ giới này – họ hát lên công khai, dậy xóm mà không ai có thể làm gì được. Câu hát có tác dụng gợi khéo một hình ảnh giết Tây hiên ngang của thầy Thông Chánh, nhắc đến thầy để liên tưởng đến gương anh dũng đó. Câu hát nay vẫn còn truyền tụng sâu rộng:

Mười giờ ông Chánh về Tây,

Cô Ba ở lại lấy thầy thông ngôn.

Thông ngôn bạc chục, ký lục không thèm,

Để lấy thằng chồng thợ bạc đeo vàng đỏ tay.

Nhờ vào câu hát này, chúng ta biết thực dân đưa thầy Chánh về Pháp lúc mười giờ.

(2) Trong Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức, khi giải về chữ Chánh, tác giả viết rằng: Chánh là chính, người đứng đầu một sở, một hội, một ban, và ông chua thêm hai câu ca dao: “Mười giờ ông Chánh về Tây, cô Ba ở lại lấy thầy thông ngôn”, tôi e rằng không đúng, vì chữ Chánh trong câu ca dao này không phải có nghĩa là người đứng đầu một sở, một hội… mà Chánh ở đây là tên, là thầy Thông Chánh, bởi câu dưới có đề cập đến cô Ba, tức cô Ba Thiệu con thầy.

(Trong cuốn Nói về miền Nam (Lá Bối, Sài Gòn, 1967), ông Sơn Nam cũng có đề cập đến hai câu này, ý nói đó là những người con gái Vân Nam chuyên nghề lấy Tây để kiếm tiền).

NGUYỄN HỮU HIỆP


 

Thơ thầy Thông Chánh

Nhựt trình Vĩnh Ký đặt ra,

Chép làm một bổn để mà coi chơi.

Trà Vinh nhiều kẻ kỳ tời,

Có thầy Thông Chánh thiệt người khôn ngoan(*)*** Dị bản “Có thầy Thông Chánh thiệt người lớn gan”.***

Đêm nằm khô héo lá gan,

Nghĩ giận Biện lý không an tấm lòng.

Chừng nào tỏ nỗi đục trong,

Giết tên Biện lý trong lòng mới thanh.

Lang sa làm việc châu thành,

Mười bốn tháng bảy lễ rày Chánh chung.

Chỉ sai đua ngựa rần rần,

Trát đòi làng tổng tư bề đến đây.

Bốn giờ đua ngựa cát bay,

Phủ Hơn, Biện lý đương rày ngồi coi.

Có thầy Thông Chánh hẳn hòi,

Xách súng nai nịch đi coi châu thành.

Phủ Hơn lời mới hỏi rằng:

-Do này thầy Chánh đi rình bắn ai?

Thầy thông thưa lại cùng ngài:

-Tôi bắn Biện lý chớ ai bao giờ.

Thầy thông thiệt lẹ như cờ,

Bắn quan Biện lý suối vàng mạng vong.

Các quan, đua ngựa rần rần,

Tưởng đâu trận giặc không hay sự gì.

Thầy thông làm việc ngoan ngùy,

Bắn rồi trở súng bắn mình, để chi!

“Dù ta có sống một khi,

Tây cũng hình phạt sống thì nhơ danh”.

Phủ Hơn thấy vậy thất thanh,

Bắt tay thầy Chánh giựt rày súng đi.

Thuốc đạn nạp sẵn một khi,

Tức mình súng nổ đạn ria giáp vòng.

Trúng nhằm ông Chánh Vĩnh Long,

Trúng ngay bắp vế điệu về nhà thương.

Các quan thiên hạ chạy tuôn,

Đua nhau mà chạy ra đường ngẩn ngơ.

Trúng nhằm ông Đốc Cần Thơ,

Bây giờ lại trúng Chánh Tòa Bạc Liêu.

Người Tây bị bệnh cũng nhiều,

Cảm thương thầy Chánh chín chiều sầu bi.

Khen cho cây súng dị kỳ,

An Nam không trúng trúng nhằm người Tây.

Các hàng phủ huyện đông vầy,

“-Do nào nó oán người Tây chuyện gì?”

Trong trại kèn thổi vang vầy,

Nhà việc hồi trống vang vầy thôn hương.

Vui thay như hội Tần dương,

Cháo bồi, chè đậu đổ đường sạch trơn.

Nước chanh, nước đá chi sờn,

Nem bì gỏi rượu sạch trơn chẳng còn,

Đi coi lạc vợ mất con,

Cũng vì thông Chánh phá rày tiệc chơi.

Ngoài thời hàng xén kêu trời,

Mất vàng mất chuỗi đếm đàng no nê.

Bài cào, bông vụ, số đề,

Thùng xà giựt hết chẳng còn bạc xu.

Đề lao cai đội canh tù,

Việc này lộn xộn nó lưu chẳng còn.

Mấy thầy trở lại lầu son,

Cảm thương thầy Chánh hao mòn lá gan.

Vợ con thầy Chánh đoạn trường,

Bây giờ phụ tử hai đường xa nhau.

Thầy Thông phát mắng một khi:

-Phụ nhơn nan hóa biết gì mà lo.

Tội tao dù có của kho,

Chuộc làm sao đặng khá lo làm gì.

Phủ Bình dời gót chân lui,

Tây đem thầy Chánh một hồi khảo tra:

-Sao mày dám bắn Lang sa,

Mày bắn Biện lý thiệt mày to gan

Thầy thông nổi giận chửi ngang:

-Chết tao tao chịu hỏi mà sao ra.

Chúa sanh tao đứng người ta,

Quân bây ăn cướp con nhà nước Nam.

Tao là quân tử chẳng tham,

Thông Chánh cắn lưỡi còn chi hỏi hoài.

Quan thầy vốn thiệt cao tài,

Đổ thuốc vào rượu giao cho Ký Hòa.

Bảo thầy Thông Chánh kia là,

Uống vào một chén vậy mà giải khuây.

Thầy thông không biết không hay,

Vị lòng thầy Ký uống vào rụng răng.

Thuốc chi hay đã quá chừng,

Thầy thông mắc kế rụng răng cả rồi.

Ký Hòa xem thấy hỡi ôi,

-Nào tôi có rõ khúc nôi sự tình.

Tôi đâu nỡ hại trưởng huynh,

Xin thầy xét lại sự tình cho tôi.

Thầy thông nghe nói ngùi ngùi:

-Việc này cũng bởi Tây thời hại ta.

Rạng ngày đến bữa thứ ba,

Điệu thầy Thông Chánh đi ra Sài Gòn.

Cảm thương cùng vợ cùng con,

Xin thầy sống thác chẳng còn kể chi.

Vợ con lưỡng mục lâm ly,

Đi đưa thầy Chánh xót xa đoạn trường.

Thông Hồ, Ký Hớn, Ký Hòa,

Mấy thầy ở lại lệ sa dầm dề.

Ngày nay phân biệt phu thê,

Bỗng đâu tàu tới súp lê thổi liền.

-“Ngày nay áo lại rẻ bâu,

Vợ con bây chớ đau sầu hư thân,

Nhan Hồi sự cũng ba mươi,

Phải chi Bành Tổ sống đời trăm năm?

Thầy thông gan mật nát dầm,

Mấy thầy than khóc ướt dầm gối loan.

Tàu ra Giồng Tượng, Bãi Sang,

Thầy thông nói gạt vậy mà bằng nay:

-Chúng bây nghe thửa lời này,

Mở còng một chút thầy ra bô tàu.

Thầy thông gan dạ như bào,

Giả đò đi tiểu té nhào xuống sông.

Mình này mắc phải tay còng,

Móc sắc nó móc kéo lên bô tàu.

Thầy thông ruột thắt gan bào,

Liều mình chẳng đặng làm sao bây giờ.

Mã tà lớn nhỏ sợ thay,

Phải thầy chìm mất bị đày Côn Nôn.

Mã tà sợ đã hết hồn,

Một lần thầy tiểu biết khôn tới già.

Thứ này đến thứ cô Ba,

Mới mười bảy tuổi lấy mà chồng Tây.

Nghe cha mắc phải nạn này,

Cúi đầu xin phép vậy thì quan ba:

-Cho tôi đi tới giữa Tòa,

Đặng mà tôi thấy mặt cha tôi rày.

Quan ba lụy nhỏ châu mày:

-Phụ thân tội trọng xin rày đặng đâu.

Cô Ba từ giã ngọc lầu,

Tay cầm súng sáu miệng hầu kêu xe.

Mình mẩy võ nghệ ai dè,

Đứng kề lại đó lắng nghe sự tình.

Mau chân bước tới châu thành,

Tai nghe quan soái xử mà làm sao.

Nếu mà xử hiếp cha rày,

Ta bắn Ngươn soái phát nay mới đành.

Cha ta dù thác bỏ mình,

Cũng trong đạo Chúa cầu xin thiên đường.

Sống chi ở tại nhơn gian,

Phân ly phụ tử hai đàng cách xa.

Đem thầy Thông Chánh đến Tòa,

Đặng mà Ngươn soái xử tra công đồng:

-Làm sao mầy quá anh hùng,

Dám bắn Biện lý thiệt mày to gan.

Thầy thông nổi giận chửi ngang:

-Mày còn hỏi nữa còng va lên đầu.

Ngươn soái nghe nói lắc đầu:

-Thiệt dòng Thông Chánh hỗn hào lắm thay.

Nó không kiêng nể đến a,

Giữa Tòa Ngươn soái nó còn dọc ngang.

Cô Ba cầm súng nhảy vào:

-Hỏi thằng Ngươn soái nhiếc rày dòng ai?

Cha ta sanh tử chẳng nài,

Chớ phải cha kiếp một loài như bây.

Cao nguyên đất rộng trời đầy,

Chết thì ta chịu mình này cũng ưng.

Ngươn soái bèn mới tỏ phân:

-Mã tà bắt nó để mà làm sao?

Mã tà phú lích áp vào,

Cô Ba bèn đá té nhào sãy tay.

-Ta không thù oán chi bây,

Để ta đánh với người Tây mới tài.

Phủ Hơn nghe lọt vào tai,

-Xin cháu bớt giận chớ đừng hung hăng.

Khá khen lời bác nói rằng,

Nhứt nhơn địch vạn thế thường đặng đâu.

Phủ Hơn rình lại nắm đầu,

Phủ Bình giựt súng nắm đầu cô Ba.

Cả kêu phú lích mã tà:

-Đem còng nó lại bỏ ngoài đề lao.

Cô Ba lời mới nói vào:

-Bác ơi hại cháu làm sao cho đành.

Thiệt tôi sợ lỗi trời sanh,

Cảm thương thân phụ về thành đế đô.

Thầy thông gan héo ruột khô,

Bây giờ phụ tử lộ đồ xa nhau.

Đem thầy Thông Chánh xuống tàu,

Chở ra ngoài Huế nạp rày vua ta.

Thánh hoàng ngồi ngự chương tòa,

Hỏi thầy Thông Chánh sao mà bắn Tây.

Thầy thông đặt gối tâu quỳ:

-Muôn ơn thiên tử dân di tỏ tường.

Trước sau thần hạ tỏ phân,

Cái thằng Biện lý ve rày vợ tôi.

Thì thôi tôi cũng bỏ trôi,

Vợ chồng tôi mới đổi về Chợ Trong.

Sài Gòn làm việc mới xong,

Biện lý trở lại nó hòng ve con.

Làm cho tôi bỏ Sài Gòn,

Quả đồ lục súc vợ con ve đùa.

Thôi thôi tôi cũng nhịn thua,

Vợ chồng tôi mới trở về Nam Vang.

Làm cho tán bại gia cang,

Biện lý xin phép Nam Vang đổi về.

Làm cho rời rã phu thê,

Vợ chồng tôi mới đổi về Trà Vinh.

Đặng gần bằng hữu đệ huynh,

Biện lý xin phép Trà Vinh đổi về.

Từ tôi tạo lập gia tề,

Mới đặt thợ mộc làm nhà cho tôi.

Làm rồi thì đã khuôn viên,

Còn một cái cửa thợ không chịu làm.

Thiệt tôi giận nó căm gan,

Mắng nhiếc thợ mộc đâm đơn kiện vào.

Biện lý xử thất một khi,

Bênh vực thợ mộc bỏ tôi ngày rày.

Tôi ra làm việc cho Tây,

Làm việc nhà nước, ai mà cũng thương.

Ngày nay phân nỗi tỏ tường,

Không nghe, chống án lên rày Tòa trên.

Năm nay thời vận không hên,

Ngươn soái y án một lời như ghi.

Nên tôi những luống sầu bi,

Xin vua đừng xử để mà mặc tôi.

Đức vua nghe nói thêm thương,

Thiệt thầy Thông Chánh là người trung cang.

-Bây giờ để trẫm liệu toan,

Xin dùm thầy Chánh vậy mà kẻo oan.

-Cúi đầu tâu vọng thánh hoàng,

Xin vua an nghỉ nghị ngơi chương tòa.

Việc này là việc Lang sa,

Giết tha mặc nó vua xin làm gì.

Làm vua chánh trị trào nghi,

Đi chiều lòng nó vậy mà thất danh.

Thương thầy Thông Chánh hùng anh,

Ngày sau hậu thế lưu danh muôn đời.

Đem thầy Thông Chánh về Tây,

Cho mẹ Biện lý xử mà làm sao.

Mụ đầm nổi giận lôi đình,

-Thông Chánh dám giết con tao bỏ mình.

Thông Chánh nổi giận lôi đình,

-Mẹ nào con nấy một dòng chẳng sai.

Con mụ vốn thiệt quá tay,

Ta đâu theo đó nói sai bao giờ.

Tử sanh như máy thiên cơ,

Không biết mụ giận vậy là làm sao.

Đem thầy Thông Chánh xuống tàu,

Trở về công sở mau mau xử hình.

Tàu về mới tới Trà Vinh,

Vợ con bằng hữu đệ huynh đều mừng.

Thầy thông nước mắt rưng rưng,

“Trở về chịu chết mà mừng làm chi”.

Quan trên mới phán một khi,

Mười bảy tháng sáu xử hình thầy thông.

Truyền ra lục tỉnh giáp vòng,

Đi coi Thông Chánh đứng nên anh hùng.

Càng Long, Ác Ếch, Trà Vinh,

Ba Xuyên, Rạch Giá, cũng đi đùng đùng.

Bắc Trang, Trà Cú, Gò Công,

Sài Gòn, Tân Lạc, cả ngàn muôn dân.

Thiên hạ đông đảo quá đông,

Bến Tre cũng đến, Mỏ Cày cũng sang.

Người ta ăn uống muôn ngàn,

Bây giờ thầy Chánh hội này trả ơn.

Phủ Hơn lời mới tỏ bày:

-Nghe đâu lính tới tịch biên gia tài.

Bà Phủ lời mới chỉ bày:

-Vàng vòng tom góp lại thì một ô.

Chạy ra rồi lại chạy vô,

Tới chùa mà gởi cho thày lục Nghiêm.

Gởi rồi trở lại gia đường,

Phút đâu lính tới nó biên gia tài.


 

SÁU TRỌNG THƠ

LỜI GIỚI THIỆU

Tôi có duyên tìm được nguyên vẹn tập Sáu Trọng thơ, bổn in lần thứ 6, giá bán 0 đồng 30 xu, in tại nhà in Bảo Tồn, 176 đường Boulevard de la Somme – Sài Gòn. Tập thơ này dày 12 trang, khổ 24x16cm. Ngoài bìa ghi Nguyễn Kim Đính dịch (xem ảnh kèm theo). Tôi không hiểu “dịch” ở đây có nghĩa gì? Nhà báo Nguyễn Kim Đính đã sưu tầm lại bổn thơ này trong dân gian rồi đem đi in chăng? Ông Nguyễn Kim Đính là một trong những nhà báo tiên phong của đất Nam Kỳ. Năm 1916, ông là Trưởng ban biên tập của tờ Tân đợi thời báo, khi tờ báo này đổi thành Công luận báo vào ngày 29.8.1916 thì ông trở thành chủ bút. Đến ngày 2.5.1923, ông chủ trương tờ Đông Pháp thời báo. Ngoài việc đứng tên trên tập Sáu Trọng thơ, tôi còn giữ được tác phẩm Gương chí sĩ Phan Tây Hồ lịch sử toàn biên do ông biên soạn, xuất bản vào năm 1927.

Tập thơ Sáu Trọng gồm có 672 câu thơ lục bát, ngoài ra còn có hai lá thư của Sáu Trọng gửi cho bà con cô bác. Lá thư thứ nhất gồm 34 câu thơ loại bảy chữ, lá thư thứ hai gồm 62 câu thơ loại bốn chữ. Có thể tóm tắt nội dung: Sau vài năm phiêu bạt lên Sài Gòn kiếm sống, Sáu Trọng trở về quê thăm mẹ và kết duyên cùng Hai Đẩu. Sau đó, hai người cùng mướn xe chở đồ đạc lên cư trú ở chợ Bến Thành. Thời gian này Sáu Trọng làm bồi cho Tây, lương tháng 10 đồng. Hai Đẩu ở nhà ngoại tình với Tám Lịch. Ít lâu sau, mụ Tư Đến lại mai mối Hai Đẩu cho thầy ký lục Be Bo, xong hai người xuống Trà Vinh. Nhận được tin này:

Trọng ngồi thấm mật giận nàng

Âu ta xuống đó quyết đàng tử sinh.

Đến nơi, Sáu Trọng vào tận nhà để nói chuyện phải quấy với Be Bo, tên ký lục này rút súng ra định bắn, nhưng Sáu Trọng đâu có ngán, chàng liền thách thức: “Ngực đây ông bắn cho an một bề”. Tên Be Bo chùn tay, hắn liền phao cho chàng vào đây ăn trộm. Chàng bị bắt:

Trọng rằng: Thiệt quá ức lòng

Khi không kêu án ba trăng thình lình.

Lúc mãn hạn tù trở về thì chàng được tay du côn là Năm Tị cho biết Hai Đẩu đã:

Biểu qua giết chết em đi

Đừng để mày sống nó thì căm gan

Biểu tao mau phải lo toan

Giấy cent một tấm gửi sang đền nghì!

Thế đấy! Chỉ một trăm đồng đủ sức đổi một mạng người. Điên tiết, Sáu Trọng xách mác đi hỏi tội người vợ cũ. Sau khi phanh thây người lòng lang dạ sói, Sáu Trọng đi nạp mình chịu án chứ không thèm trốn tránh:

Trọng rằng: từ giã cố tri

Anh em ở lại vĩnh vi trọn bề

Anh hùng sống ở thác về

Nên hư cũng tiếng theo lề lối xưa

Người than, kẻ khóc như mưa

Phút đâu giờ tới chiêng đưa mấy hồi

Bá quan tựu tới vừa rồi

Diễn quan đọc án dứt lời đầu bay

Nôm na sự tích tỏ bày

Dở hay cũng tiếng để rày làm gương.

Về cái chết của Sáu Trọng, các tác giả của Địa chí văn hóa TP.Hồ Chí Minh nhận định: “Việc làm của Sáu Trọng là một biểu hiện bằng hành động cụ thể của xu hướng bài Tây của đông đảo nhân dân. Do đó chúng đã cấm lưu hành bổn thơ này vì sợ nó rao truyền cổ xúy tinh thần bất phục tùng và phẩm chất làm người “kiến nghĩa bất vi vô dũng giả”. Ở Sáu Trọng gia đình tan nát là do bọn cướp gây nên. Do đó hành động của Sáu Trọng có ý nghĩa lớn hơn việc giết một kể “bội phu” thông thường, nó còn hàm chứa ý nghĩa phê phán xã hội (Sđd, tr.49).

Về mặt ngôn ngữ, thơ Sáu Trọng đậm đặc lời ăn tiếng nói của người Sài Gòn xưa. Bên cạnh đó, sự giao lưu ngôn ngữ Việt-Pháp đã đi vào thể thơ truyền thống lục bát. Xin trích vài câu:

Bạc-đon ông chớ phát-sê

Ắt-tăng mổ rắc-công-tê tú-xà

A-quăng mết-trết của ta

Rén-đia cả-sối lủy mà xỗ huê

Lủy với Tám Lịch cu-sê

Mổ mà chẳng có tấp-bê chút nào.

Đây là đoạn Sáu Trọng phân bua với ký lục Be Bo, tạm dịch nghĩa: Xin lỗi ông chớ giận. Để tôi thuật lại tự sự trước sau. Trước nó là vợ của tôi. Tôi không nói động đến nó mà nó bỏ đi. Nó ngủ với Tám Lịch. Tôi chẳng đánh nó chút nào.

Những bổn thơ này do truyền khẩu, do đó, nó có nhiều dị bản cũng sẽ là tất nhiên. Theo Địa chí văn hóa TP.Hồ Chí Minh thì có bổn thơ thêm những câu như:

“Vung kiếm Tào công chẳng mấy tài

Khá khen Sáu Trọng phận làm trai.

Mấy năm oán quỷ lòng mong trả

Một lưỡi dao thần, tiếng để dai

Giọt máu bội phu mưa chẳng cháy

Đống xương dũng sĩ nắng nào phai

Sự riêng gan ruột xem cho đó

Ước đặng Cần Vương chép sử ngoài.

Người đời làm thơ khen Sáu Trọng như thế đó và lại mong sự việc này được chép vào “ngoại sử” của phong trào Cần Vương. Một chàng trai giết vợ “bội phu” đi lấy chồng Tây thì có gì mà người đề nghị ghi vào bên cạnh lịch sử chống xâm lược Pháp? Phải chăng người làm ra bổn thơ Sáu Trọng nhận thấy trong việc chàng trai Sáu Trọng tứ cố vô thân ấy đã dám nổi loạn đánh đổ không run sợ cái thể chế pháp luật và trật tự xã hội đầy rẫy những vô đạo đó, có tiềm ẩn một thái độ phản kháng? Và có lẽ trong thời điểm ấy, việc làm của Sáu Trọng là một biểu hiện bằng hành động cụ thể của xu hướng bài Tây của đông đảo nhân dân”. (tr.48,49)

Lê Minh Quốc


 SÁU TRỌNG THƠ

 

 Kỷ vì thọ pháp Tân trào,

Người nay nghĩ lại khác nào thuở xưa.

Du nhàn thành thị sớm trưa,

Có chăng Sáu Trọng tuổi vừa mười lăm.

Bỏ đi lính đã mấy năm,

Nghĩ lại chạnh lòng thương cảnh nhớ quê.

Bấy lâu cách mặt ủ ê,

Nay mới trở về thăm viếng mẫu thân.

Có tên Hai Đẩu ở gần,

Bán buôn chè cháo tảo tần nuôi cha.

Thấy chàng tánh nết thật thà,

Hỏi thăm: - anh có vợ nhà hay không.

Trọng nghe nàng nói động lòng,

Thơ ngây chưa chốn loan phòng kết đôi.

Đẩu nghe chàng Trọng bày lời,

Anh chưa có vợ em thời chỉ cho.

Trọng rằng: buôn bán không lo,

Nói chuyện đưa đò chè cháo lạnh tan.

Đẩu rằng: lòng khiến thương anh,

Cháo chè dẫu lạnh cũng đành dạ tôi.

Chẳng qua duyên nợ trời xuôi,

Dầu cha mẹ giết, chết tôi cũng đành.

Đẩu thề chứng cớ cao canh,

Nguyện cùng thiên địa lấy anh trọn đời.

Trọng nghe nàng nói mấy lời,

Biết em kết tóc ở đời đặng không.

Đẩu nghe Trọng nói khóc ròng,

Chàng đâu thiếp đó cho xong một bề.

Ngày nay gá ngởi phu thê,

Dứt tình theo bạn không màng việc buôn.

Ở đây nhiều nỗi thẹn thuồng,

Đi cho khuất mặt kẻo đồn tủi thân.

Nàng bèn bày tỏ nguồn cơn,

Mườn xe đồ đạc chở lên Bến Thành.

Vợ chồng mướn phố ở an,

Vui niềm chồng vợ yến oanh một nhà.

Chồng thời ở với Lang-sa,

Dặn vợ ở nhà gìn giữ ngoài trong.

Bạc lượng một tháng mười đồng,

Tiện tặn hết sức mới hòng đủ ăn.

Thua buồn Trọng mới tính nhăn,

Xuống ở tàu hãng nấu ăn dọn bàn.

Một mình nấu dọn cho quan,

Bạc tháng hai chục mới an việc nhà.

Nhín nhúc đồ đạc sắm ra,

Cửa nhà rực rỡ cũng là bực trung.

Đủ đồ vi kiến trong mình,

Hai Đẩu ngoại tình lại lấy anh nuôi.

Khiến nàng gia thế hư rồi,

Móc tai cũng bán vàng đôi cũng cầm.

Thiệt là con Đẩu lang tâm,

Đồ đạc đam cầm xa đắm gái trai.

Việc này cũng tại con Hai,

Si mê Tám Lịch gia tài tan hoang.

Thế gian đồn thấu tai chàng,

Sáu Trọng nghĩ lại gan vàng quặn đau.

Bấy lâu hẫm hút cháo rau,

Nay đặng sang giàu sanh sự lấy trai.

Còn chi sự nghiệp gia tài,

Tưởng là nhơn nghĩa lâu dài cùng nhau.

Đánh liều gia thế hư rồi,

Để coi nàng xử cuộc đời làm sao.

Thua buồn Trọng ở dưới tàu,

Chờ khi đêm vắng lén vào rình coi.

Thấy nàng quả thiết hẳn hoi,

Nồi cơm trách mắm chẳng coi trong nhà.

Đêm khuya vắng vẻ người ta,

Nằm bên Tám Lịch than mà hỡi anh.

Thấu tai thằng Trọng chẳng lành,

Thì ôi ắt chẳng lấy anh được đời.

Chung vui một bữa mà thôi,

Mai tôi dời gót phản hồi cựu quê.

Bán hết đồ đạc tôi về,

Ở với cha mẹ một bề cho xong.

Trọng nghe nàng nói làm thinh,

Dằn lòng không nói xây mình trở ra.

Nghĩ giận muốn giết dâm phu,

Song le nghĩ lại oán thù mà chi.

Như vầy mới đứng nam nhi,

Anh nuôi lấy vợ đừng phiền mới hay.

Trọng buồn kiếm việc làm khuây,

Bèn đi Châu Đốc mấy ngày cho xa.

Đẩu về ở với mẹ cha,

Có thầy Ký lục Lang-sa phải lòng.

Cậy chị Tư Đến mai dong,

Hỏi rằng: con Đẩu bằng lòng hay không?

Tao nghe thằng Trọng bình bồng,

Kiếm nơi thầy ký thầy thông cháu nhờ.

Đẩu rằng: Tôi cũng bơ vơ,

Xin làm phước mọn xe tơ tại Dì.

Sau dầu tôi đủ kiến vi,

Nghĩa tôi đáp nghĩa ơn thì đền ơn.

Tư Đến nghe rõ nguồn cơn,

Kêu thầy Ký lục mới đờn nhỏ to.

Mai dong kiếm chuyện mà o,

Bụng thầy thương nó muốn cho mấy đồng.

Lễ nghi năm chục mới xong,

Ký lục bằng lòng lấy bạc đem đưa.

Mày là con gái đời xưa,

Tao cưới năm chục có vừa hay không?

Con Đẩu lấy bạc mười đồng,

Đem ra đáp nghĩa đền công ơn Dì.

Nhờ Dì tôi được nỏn na,

Song lo một nỗi oan gia theo mình.

Hậu hôn điền thổ tội tình,

Thấu tai thằng Trọng làm thinh đâu mà?

Nói rồi lấy bạc đi ra,

Bông kiềng cà rá sắm mà đeo chơi.

Ba chục mua sắm đủ rồi,

Còn dư một chục nàng thời cho cha.

Phân trần ba má xét suy,

Lập thân trả thảo mẹ cha ơn dày.

Giao bôi một tháng mười ngày,

Ký lục sắm rày vòng đặng hai đôi.

Thiệt là sung sướng vô hồi,

Lên xe xuống ngựa chơi bời nhổn nha.

Coi phải người vợ Lang-sa,

Hình dung tươi tốt nết na dịu dàng.

Phút đâu có giấy gởi sang,

Đổi thầy Ký lục xa đàng phó li.

Thầy ký buồn bực sầu bi,

Nói cùng con vợ vậy thì em ơi.

Phen này anh đổi xa vời,

Đổi đi Lục tỉnh xứ thời Trà Vinh.

Vợ chồng Ký lục đồng tình,

Dọn đồ sắm sửa về trình mẹ cha.

Quan đổi con đi xứ xa,

Còn phận ở nhà vắng vẻ không ai.

Chẳng người khuya sớm vãng lai,

Cửa nhà sau trước không ai trong vào.

Mẹ cha nghe nói dào dào,

Mướn người ở giữ biết làm thời sao.

Bấy lâu ở chốn Sài Gòn,

Bây giờ xa cách lòng con thêm sầu.

Thằng Ngưu nó chẳng ở đâu,

Mướn nó săn sóc theo hầu chồng tôi.

Ký lục nghe nói kêu vô,

Mua quần mua áo bành tô cho rày.

Vợ chồng cha mẹ mừng thay,

Rạng ngày thứ sáu đưa ngay xuống tàu.

Nói cùng cha mẹ trước sau,

Bước cẳng xuống tàu từ giã mẹ cha.

Một trăm đồng bạc đưa ra,

Của này cho má với ba dưỡng già.

Con đi cách trở đường xa,

Chạnh lòng thương má với ba quá chừng.

Vợ chồng lão thợ rưng rưng,

Rể con có ngởi chạnh lòng ngẩn ngơ.

Xin ba với má làm lơ,

Con ở yên chỗ viết thơ gởi về.

Bớt thương bớt nhớ đừng chờ,

Lấy neo tàu chạy kịp giờ con đi.

Vợ chồng lão thợ hồi qui,

Xúp lê vội thổi tàu lui xa rồi.

Trà Vinh rày đã tới nơi,

Dọn đồ sắm sửa chơi bời chẳng lo.

Ký lục tên thầy Be Bo,

Phòng văn giúp việc ấm no gia đình.

Từ thầy đổi lại Trà Vinh,

Ăn cần ở kiệm bạc ngàn thiếu chi.

Vợ chồng sung sướng vinh vang,

Khiến hư Hai Đẩu vậy thì sanh tâm.

Đói cơm lạc mắm tèm hem,

No cơm ấm áo lại thèm nọ kia.

Vợ chồng như khóa với chìa,

Nỡ nào tham sắc mà lìa nhau ra.

Ngày đêm say đắm nguyệt hoa,

Trẻ già chẳng bỏ nhỏ mà chẳng dung.

Noi theo dâm nữ đời xưa,

Sắm thuyền cho rộng mà đưa bộ hành.

Thôn quê cho đến thị thành,

Ôm duyên đi bán người người đều hay.

Dưới đời mới thấy một tay,

Mấy thầy cũng đãi dọn bàn cũng ưa.

Thằng Ngưu nó nhắc tích xưa,

Cô không tu bỉ mà chừa lấy trai.

Bây giờ tao chẳng lấy ai,

Lấy mày tin cậy coi ngoài coi trong.

Trưa thời bắt cháu dủ phòng,

Cô cháu đồng lòng làm quấy ai hay.

Thằng Ngưu thưa với cô rày,

Dượng mà hay đặng ắt nay khó lòng.

Thằng Ngưu nước mắt ròng ròng,

Sợ súng sáu lòng dượng bắn tôi đi.

Dượng mày nào có biết chi,

Phải nó biết thì tao chẳng lấy ai.

Lấy người thiên hạ ở ngoài,

Huống hai cô cháu ai mà rõ đâu.

Cháu cô ân ái đã lâu,

Thằng Ngưu tuổi chất trên đầu mười lăm.

Tới ngày mười sáu tháng năm,

Sáu Trọng thôi mới về thăm quê nhà.

Xóm giềng to nhỏ gần xa,

Vợ mày đi lấy Lang-sa đã rồi.

Sáu Trọng nghe nói dầu sôi,

Anh em can gián thôi thôi chớ hiềm.

Chẳng qua thời vận đảo điên,

Sá chi một mảnh thuyền quyên buộc mình.

Số nàng gia thế tan tành,

Cơ dươn này thấu lòng trời chẳng hay.

Cũng bởi nhạc gia chẳng ngay,

Cầm ân không vững mực ngay không còn.

Muốn con năm bảy đời chồng,

Mà đem mà gả bạc phong cho nhiều.

Lấy hơi rể mới làm kiêu,

Âu ta tới đó đốt thiêu cửa nhà.

Bà tham chàng rể Lang-sa,

Cho nên tôi phải đốt nhà bà đi.

Vợ chồng phách tán hồn phi,

Ngó lên thấy lửa cháy thì rả tan.

Bà thợ chạy ra la làng,

Lửa này tôi biết lửa cưu lửa hờn.

Bởi mình ăn ở bất nhơn,

Cho nên có chuyện oán hờn vậy vay.

Tại bà ham chỗ rể Tây,

Cho nên tôi phải đốt nay gia đàng.

Trọng ngồi thấm mật giận nàng,

Âu ta xuống đó quyết đàng tử sinh.

Xuống tàu thẳng chỉ Trà Vinh,

Nhứt định liều mình vào chốn chông gai.

Thân này sanh tử bao nài,

Giết nàng khéo để giống loài gian dâm.

Làm cho rõ mặt phi thường,

Dựa hơi sang cả lập đường cầu cao.

Nói rồi Trọng mới bước vào,

Xem thấy mặt vợ nôn nao trong lòng.

Cô ngồi cửa sổ từng trong,

Sáo treo mành phủ tợ tiên non bồng.

Bỗng xem thấy rõ mặt chồng,

Trong lòng lơ láo xây lưng chẳng nhìn.

Ngày nay đặng chỗ hiển vinh,

Mắng rằng thằng Trọng dám nhìn tới ta.

Ỷ mình là vợ Lang-sa,

Bộ mày đáng mặt phòng khi xách giày.

Trọng nghe nàng nói giận thay,

Tao kỳ tam nhựt phân thây hành hình.

Căm loài Võ Hậu trớ trinh,

Sao không suy xét buộc mình bợn nhơ.

Đoái nhìn bóng ác hầu trưa,

Thiếu năm phút nữa trống đưa tan hầu.

Ký lục vốn chẳng ngồi lâu,

Trong lòng khoan khoái trông mau về nhà.

Về thấy sao vợ khóc la,

Mới kêu lại hỏi vậy mà việc chi.

Hai Đẩu mới nói vân vi,

Dễ tôi đâu giấy vậy thì với ông.

Thuở còn con gái đương đông,

Sáu Trọng nó cậy mai dong nó rày.

Bảo tôi kết tóc giao tay,

Lòng tôi không muốn ngày nay oán thù.

Nó là một đứa tội tù,

Sài Gòn nổi tiếng ban bù mặt rô.

Ký lục mới biểu kêu vô,

Đặng tao coi nó mặt rô thế nào.

Mới sai thằng Ngưu kêu vào,

Dượng tôi mời cậu sẽ trao một lời.

Sáu Trọng nghe nói biết rồi,

Nếu ta tới đó mạng thôi chẳng lành.

Đi vô mới đứng hùng anh,

Dẫu nó có bắn cũng đành dạ đây.

Dọn bàn can gián Trọng rày,

Nếu mày tới đó ắt lâm lao tù.

Trọng rằng chẳng phải thất phu,

Dẫu lâm chi tử lao tù sá bao.

Nguyện cùng đất rộng trời cao,

Hoàng thiên nỡ hại anh hào sa cơ.

Trong lòng Sáu Trọng trơ trơ,

Thay quần đổi áo kịp giờ ra đi.

Tới nhà Ký lục một khi,

Ông Tây thấy Trọng ra ni mời ngồi.

Đầu đuôi gốc ngọn kể coi,

Bạc lê vẽn sứa mổ thời em-mê. (1) Nói cho thiệt tôi ưa.

Bạc-đon ông chớ phát-sê, (2) Xin lỗi chớ giận.

Ắt-tăng mổ rắc-công-tê túc-xà. (3)Để tôi thuật lại tự sự trước sau.

A-quăng mết-trết (4) của ta, *** trước nó là vợ của tôi.

Rẽn-đía cả-sối lủy mà xỗ-huê. (5) Tôi không nói động đến nó mà nó bỏ nó đi.

Lủy với Tám Lịch cu-sê,(6) Nó ngủ với Tám Lịch.

Mổ mà chẳng có tấp-bê chút nào. (7)tấp-bê là đánh.

Thua buồn mả-lách mổ đâu,(8) Mả-lách là đau.

Na-ba đọt-mía những thao thức hoài. (9) Đọt-mía là ngủ.

Rủ-ê la-cát đánh bài, (10) Ru-ê la-cát là đánh bài.

Bẹt-đi của mổ một hai trăm đồng. (11) Bẹt-đi là thua.

Phi-ni lạt-sắng lũy dông, (12) Phi-ni lạt-sắng là hết tiền.

Bắt-ti đường lộ kiếm chồng Hàng sao. (13) Bắt-ti là đi.

Buồn thời phi-ni đi tàu, (14) Phi-ni là hết.

Con Đẩu nó ở Đa kao Sài Gòn.

Cu-dòn không đặng vuông tròn, (15) Cu-dòn là đồ bậy bạ.

Lũy làm xanh-bệt cô son ê hề. (16) Xanh-bệt cô-son là đồ thú vật con heo.

Cho nên mỗ mới kít-tê, (17) Kít-tê là bỏ.

Thiệt lũy mêm-sối theo lề bi-ten. (18) Mem-sối bi-ten như là đồ đĩ.

Dà-na lạc-sắng ken-ken, (19) Dà-na lạc-sắng là có tiền bạc.

Đon-nê on-dách lũy bèn bề sê. (20) Đon-nê on-dách lũy bèn bề-sê là cho nó một đồng bạc là ngủ với nó đặng.

Thằng Ngưu bồi chú nhà quê,

Dốt-pham cũng muốn bế-sê không nài. (21) Dốt-pham là vợ ông.

Tú-mông con-nết chị Hai, (22) Tú-mông cò-nết là ai ai cũng đều biết.

Xừ (23) đừng nghe nó là loài trổm-bê. (24) Xừ là ông. Trổm-bê là gạt gẩm.

Ký lục nghe nói phát-sê, (25) Phát-xê là giận.

Da-lu thôi mới toan bề bạc đen. (26) Da-lu là ghen.

Sao chú con-nết bi-ten, (27) Con-nết bi-ten là biết nó đồ đĩ.

Bạc-lê tút-xích không thì tấp-bê. (28) Nói cho mau không tao đánh.

Con Đẩu kề tai bạc-lê, (29) Bạc-lê là nói.

Tĩa-rê(30) Tỉa-rê là bắn**** lủy chết rồi đời oa-vu. (31) Oa vu là du côn.

Ký lục nghe nói ngẩn ngơ,

Cầm cây súng sáu muốn dơ bắn chàng.

Trọng rằng: Tôi thiệt vô can,

Ngực đây ông bắn cho an một bề.

Tới đây quyết một không về,

Cam tâm chịu bắn mỏ thề ba-bơ. (32) Ba-bơ là không sợ.

E cho Ký lục mẳng-tơ, (33) Mẳng-tơ là nói láo.

Chớ ta dầu thác bây giờ rạng danh.

Thầy ký đem dạ chẳng lành,

Trong lòng sắp đặt để dành mà phao.

Đạp bàn đá ghế té nhào,

Chén ly bể hết rồi phao cho chàng.

Phẹt-mê la-bót (34) vội vàng, (**** Phẹt-mê là đóng cửa.

Kêu lính bắt chàng đem bỏ đề lao.

Trọng nghe áo não tâm bào,

Ngày nay hoạn nạn biết ngày nào an.

Dọn bàn nước mắt hai hàng,

Ai dè mắc phải mưu gian làm vầy.

Anh em ta phải giăng tay,

Lên tòa sanh tử chớ rày bỏ nhau.

Sáng ngày Ký lục vào khai,

Dắc lên Biện lý bằng nay hỏi chàng.

Chẳng đòi chứng cớ dọn bàn,

Một mình Sáu Trọng hỏi han mọi lời.

Sao mày gan lớn bằng trời,

Tới nhà Ký lục vậy thời cách-xê. (35) Cách-xê là đập bể.

Trọng: Bẩm thầy ký măng-tơ,

Nào tôi có dám cách-xê đồ người.

Biện lý mới xử vậy thời,

Sáu Trọng tội đáng bỏ tù ba trăng.

Trọng rằng thiệt quá ức lòng,

Khi không kêu án ba trăng thình lình.

Dọn bàn nghe nói hãi kinh,

Đồng bang huynh đệ đồng tình nuôi nhau.

Anh em lớn nhỏ lao nhao,

Cảm thương Sáu Trọng tù lao oan tình.

Giận con Võ Hậu trớ trinh,

Hại anh Sáu Trọng lao hình không hay.

Dọn bàn huynh đệ mau tay,

Hùn tiền lo lót bằng nay vụ này.

Anh em kẻ ít người nhiều,

Góp được hai chục ta rày vô lo.

Cho chàng Sáu Trọng ấm no,

Nuôi chàng sung sướng chẳng cho hành hài.

Nói cùng sau trước đội cai,

Phân cùng lính tráng ai ai thương người.

Nói rồi từ giã chơn dời,

Giã từ cai đội bằng nay ra về.

Sáu Trọng trong lòng ủ ê,

Cám ơn huynh đệ nặng nề vì ta.

Tôi trông mãn án tôi ra,

Đặng tôi vậy mà lo trả nghĩa nhơn.

Ơn kia nghĩa nọ đâu sờn,

Anh em huynh đệ nhớ ơn ngàn ngày.

Phút đâu mãn án đến ngay,

Quan trên kêu sổ bữa nay tha chàng.

Sáu Trọng cám nghĩa chi lang,

Ngày nay ra khỏi rạc ràng mừng thay.

Trước nhờ cai đội mấy thầy,

Sau nhờ lính tráng thân này thảnh thơi.

Nói rồi đi thẳng lên tòa,

Lạy quan Biện lý vậy mà bước ra.

Sáu Trọng nước mắt nhỏ sa,

Ơn anh em bạn tôi mà đội ơn.

Dọn bàn nghe nói thiệt hơn,

Lấy năm đồng bạc cho em về tàu.

Sáu Trọng mặt ủ dàu dàu,

Ơn chư huynh đệ thuở nào mà khuây.

Dọn bàn mới nói lời này,

Làm ơn há để trông rày trả ơn.

Anh em tử tế thời hơn,

Cùng nhau huynh đệ keo sơn đời đời.

Anh em ta kiếp đến nơi,

Đưa chàng Sáu Trọng kịp thời hồi loan.

Phúc đâu tàu tới vội vàng,

Sáu Trọng từ giã bước sang xuống tàu.

Anh em bạc tác dàu dàu,

Em về anh ở biết ngày nào nguôi.

Cũng vì ác phụ khiến xuôi,

Anh em nên mới lui cui nhộn nhàn.

Sáu Trọng mới nói vội vàng,

Anh em ở lại nhứt đoàn bình an.

Nói ra nát ruột tím gan,

Xúp-lê vừa dứt tân gian giữa vời.

Mỹ Tho giây phút tới nơi,

Lên xe Sáu Trọng về thời bình yên.

Nội ngày xe tới Bến Thiềng,

Gặp người bạn cũ thấy liền hỏi thăm.

Đi đâu vắng mặt nửa năm,

Ngày nay nắng giãi mưa dầm về đây.

Sáu Trọng mới nói lời này,

Dễ đâu dám giấu xin bày phân minh.

Cũng vì con vợ Trà Vinh,

Hại tôi ba tháng bất minh ngục hình.

Anh em thấy vậy thương tình,

Ra công nuôi dưỡng ân sinh sáng tày.

Dọn bàn nghe nói mới hay,

Có anh Năm Tị ví tày thịt xương.

Thấy chàng Sáu Trọng càng thương,

Vợ mày là đứa bất lương những ngày.

Tao biết hồi trước ở đây,

Vợ chồng tao nói với mày không sai.

Tại em lấp bỏ ngoài tai,

Ngày nay mắc phải con Hai hại rày.

Nói rồi huynh đệ phân tay,

Năm Tị bước cẳng về ngay quê nhà.

Này đoạn con Đẩu tính xa,

Gởi thơ Năm Tị vậy mà anh hay.

Tôi giận thằng Trọng lắm thay,

Xin anh giết nó để rày làm chi.

Anh mà giết đặng một khi,

Một trăm đồng bạc tức thì đền công.

Năm Tị dở thơ xem xong,

Nực cười con Đẩu hai lòng bội phu.

Hại chàng Sáu Trọng ở tù,

Vậy mà trong dạ oán thù chưa nguôi.

Coi thơ tức giận một hồi,

Lấy tiền không giết ai mà làm chi.

Nói rồi quày quả ra đi,

Kiếm thằng Sáu Trọng vậy thì cho hay.

Gặp Trọng tại hàng cháo khoai,

Anh em mừng rỡ dắt ngay lên lầu.

Năm Tị mới tỏ đuôi đầu,

Hỏi em có biết chuyện nhà hay chăng?

Trọng nghe thôi mới thưa rằng,

Vốn tôi nào biết chuyện gì ở đâu.

Năm Tị nghe nói lắc đầu,

Thiệt con Hai Đẩu nó cầu hại mi.

Biểu qua giết chết em đi,

Đừng để mày sống nó thì căm gan.

Biểu tao mau phải lo toan,

Giấy săn một tấm gởi sang đền nghì.

Sáu Trọng nghe nói sầu bi,

Tôi mà còn sống vậy thì nhờ anh.

Tị rằng vốn nó chẳng lành,

Em dầu giết nó cũng đành sá chi.

Sáu Trọng mới nói một khi,

Trả thù cho đặng thác thì cũng yên.

Nói rồi vội vã đi liền,

Xuống tàu trực chỉ thẳng miền Trà Vinh.

Âm thầm để dạ một mình,

Tới nơi trời tối ta rình tiêu hao.

Anh em ai chẳng biết nào,

Sáu Trọng ẩn mặt chẳng vào không ra.

Thốt thôi con Đẩu phòng hoa,

Một đêm chẳng ngủ vào ra thức hoài.

Đêm nay chẳng biết nhớ ai,

Trong lòng buồn bực ai hoài sầu bi.

Đêm nay đêm thiệt lạ kỳ,

Không cho mình ngủ vậy thì chú nao.

Có con chim cú bay vào,

Vội vàng đậu trước hàng rào kêu lên.

Tiếng kêu nghe bắt rùng mình,

Bữa nay sao lại chim linh bày điềm.

Hèn chi trong dạ không yên,

Nhứt mình lâm nạn không thì mẹ cha.

Mãng còn nghĩ nghị gần xa,

Phút đâu trời đã vậy mà bình minh.

Ký lục mới hỏi sự tình,

Sao em không ngủ những thao thức hoài.

Thuở nay em ở cùng qua,

Em không cực khổ vậy mà móng tay.

Hai Đẩu nghe nói giận lắm thay,

Mày thằng chó chết hỏi rày làm chi.

Ký lục le lưỡi một khi,

Vội vàng xách nón liền đi nhà hầu.

Sáu Trọng chờ đợi đã lâu,

Trống hầu khởi đánh dạ âu mừng thầm.

Sáu Trọng hơi giận hầm hầm,

Bới đầu vén tóc chơn lần bước ra.

Bới đầu lại rút đuôi gà,

Sợ khi ngộ trận xổ ra khó lòng.

Con Đẩu thời vận tới rồi,

Sáu Trọng ăn cắp mát thôi của người.

Bước vô tới đó tức thời,

Coi mà con Đẩu buôn lời làm sao.

Chung quanh cửa đống then gài,

Thằng Ngưu con Đẩu ở nay trên lầu.

Sáu Trọng tới đó đã lâu,

Bèn kêu Hai Đẩu mày đâu hỡi mày.

Bởi mày đem dạ tà tây,

Đến nay mày phải hồn bay khỏi mình.

Ta là nên đứng hùng anh,

Há thèm húy tử tham sanh nỗi gì.

Nói rồi cạy cửa một khi,

Và cậy và đá cửa thì nát tan.

Vội vàng bước lại chưn thang,

Bước lên liền ngó tứ phan kiếm tìm.

Cả kêu Hai Đẩu bạn hiền,

Ra đây tao hỏi sạ duyên một lời.

Con Đẩu nổi giận tơi bời,

Chồng tao đi khỏi vào đây làm gì?

Sáu Trọng nổi giận sân si,

Hổ tử lưu bì nhơn tử lưu danh.

Cô mà lấy cháu sao đành,

Cũng như thú vật dạo gành ăn dơ.

Thằng Ngưu nghe nói bây giờ,

Không phương trốn tránh trơ trơ chịu rày.

Nguyện cùng đất rộng trời dày,

Dầu anh có giết mạng này sá chi.

Thằng Ngưu quì xuống tức thì,

Cúi đầu lạy dượng xin tha mạng toàn.

Việc này tại cô bày đàng,

Cóc đâu lắc lẽo trèo thang làm gì.

Lạy dượng tôi thiệt ngu si,

Dung tôi cho đặng mạng ni vẹn toàn.

Sáu Trọng mới nói vội vàng,

Mày là con nít tao màng sá chi.

Nói rồi làm bộ một khi,

Rút giáo chém trúng vậy thì ngang tay.

Cho mày một chút vít rày,

Răn mày cho biết sự nay đáo đầu.

Thằng Ngưu chạy xuống thang lầu,

Mình run bây bẩy dạ âu điếng hồn.

Tôi thằng con nít trí khôn,

Phải tôi sơ ý bay đầu còn đâu.

Lúc này Hai Đẩu trên lầu,

Đuổi thằng Sáu Trọng mày hầu xuống thang.

Mày thằng chó chết vô đoan,

Tao không mắc nợ đòi cang cớ nào.

Mày không nhớ thuở tù lao,

Tao làm ba tháng ràng ràng mới đây.

Chớ nên lấp lửng tới rày,

Bồi tao lấy chổi đánh ngay trên đầu.

Thật chàng tích giận đã lâu,

Ngày nay nghe mắng xiết bao lửa hừng.

Nói rồi xách mác lại gần,

Chém chơi một mác ngã lăn nằm dài.

Tiếp thêm một mác ngang tai,

Thọc luôn một mác trúng ngay cửa đì.

Hay tin lính tráng bố vi,

Kiếm bắt Sáu Trọng vậy thì bằng nay.

Sáu Trọng thôi mới nói rày:

Muốn như con Đẩu vô đây nạp mình.

Anh em chưa rõ chơn tình,

Tôi làm tôi chịu dám khinh luật trời.

Nói rồi tức tốc chơn dời,

Xách mác vậy thời tới nạp cửa công.

Biện lý mới hỏi làm song,

Ai mà chém nó vậy thì khai ra.

Cho nên xách mác tới ta,

Thông ngôn liền hỏi nói mà cho mau.

Thầy thông mới hỏi trước sau,

Ai mà đâm chém ở đâu với mày.

Biết tên khai thiệt ra đây,

Đặng quan bắt nó bằng nay gia hình.

Sáu Trọng bày tỏ chơn tình,

Không ai đâm chém sự mình bày ngay.

Tôi giết Hai Đẩu thác rày,

Phân thây muôn đoạn bằng nay tại nhà.

Thông ngôn nghe nói thiệt thà,

Bẩm cùng Biện lý vậy mà đặng hay.

Biện lý nghe nói kinh thay,

Biểu đem thằng Trọng giam rày đề lao.

Ký lục nghe rõ âm hao,

Vội vàng lấy nón mau mau về nhà.

Về đến thấy vợ xót xa,

Thây phân muôn miếng coi mà quá ghê.

Ký lục sầu thảm ủ ê,

Dặn em đóng cửa chớ hề lỏng lơ.

Em chết cũng vì ơ hờ,

Kêu Ngưu mà hỏi dươn do sự tình.

Tao đi căn dặn nhiều phen,

Biểu mày đóng cửa ở yên trên lầu.

Mày chẳng nghe chút lời tao,

Để cô mày thác thiệt tao giận mày.

Ngưu bèn đầu cúi lạy thầy,

Cửa tôi có đóng xem rày nát tan.

Nó thằng du côn to gan,

Ở đất Sài Gòn ai nấy biết danh.

Cô tôi thường bữa đánh bài,

Cũng vì thầy biểu một hai ở nhà.

Bây giờ cô thác ra ma,

Tôi liều mình thác theo mà cô Hai.

Thầy ký nghe nói ai hoài,

Em nuôi có nghĩa tại loài du côn.

Tốn hao lo chém hết phồn,

Để chi những đứa du côn khó lòng.

Ký lục chôn cất an bài,

Có giấy Biện lý đòi nay vô tòa.

Biện lý thôi mới hỏi qua,

Làm sao nó giết vợ mà chết đi.

Ký lục bày tỏ một khi,

Tôi mà còn ở tại ni nhà hầu.

Việc này thù oán đã lâu,

Nó quyết hãm hiếp làm rầu vợ tôi.

Đầu đuôi hỏi đã xong xuôi,

Kêu chàng Sáu Trọng ra thời vấn tra.

Làm sao giết vợ người ta,

Mày khai cho thiệt giữa tòa nghe coi.

Sáu Trọng mới nói hẳn hòi,

Nó loài ác phụ để mà làm chi.

Xin trên quan lớn xét suy,

Tôi thưa một chút ông thì rõ xa.

Quan trên thôi mới xét ra,

Cũng vì con Đẩu nó mà chẳng minh.

Tội này tuy đáng tử hình,

Song tao không chém lưu tình với mi.

Giam chàng khám tối một khi,

Đặng chờ giấy lại giải thì Mỹ Tho.

Ít ngày giấy lại cho hay,

Điệu chàng Sáu Trọng bằng nay xuống tàu.

Mỹ Tho nay đã tới rồi,

Đem chàng thôi mới hỏi tra sự tình.

Chín tây ngày xử đại hình,

Còng Lê Văn Trọng giữ gìn đam lên.

Mã tà lính tập đôi bên,

Đội cai súng ống nghiêm trang trong ngoài.

Lại thêm lục tỉnh gái trai,

Đều đến cửa ngoài nghe xử thể nao.

Quan tòa lẳng lặng nhìn nhau,

Bằng mai tới tối không rao đều gì.

Có quan Thầy kiện một khi,

Ở đâu đi đến vậy thì không hay.

Tay thời đập ghế vỗ bàn,

Chơn thời dậm đất hét vang những là.

Quan tòa thôi mới thốt ra,

Tên này có tội luật ra chém đầu.

Hai bên cô bác thảm sầu,

Tay lau nước mắt chơn hầu bước ra.

Trọng còn nói tiếng Lang-sa,

Quan trên dạy chém tôi mà mẹt-xi.

Tử sanh thiên số nan kỳ,

Nào tôi có tiếc thân ni làm gì.

Đem tôi xuống khám cho rồi,

Đặng tôi vậy thời làm một bức thơ.

Gởi thăm cai đội nội cơ,

Cùng là cô bác tóc tơ rõ tình.

Phút đâu trời đã bình minh,

Âu ta cất bút tả tình nên thơ.

VẬY CÓ THƠ RẰNG:

“Trước kính lạy Đội Cai bá bái,

sau gởi thăm huynh đệ bình an.

Kể từ ngày dời gót băng ngàn,

lên đất Mỹ sau tòa kêu án.

Nay quan trên công bình thẩm đoán,

lấy luật hình lại xử trảm chi.

Nay gởi thơ cô bác tường tri,

cùng thăm viếng đệ huynh mạnh giỏi.

Đường sanh tử tử sanh nào khỏi,

xin dưới này đừng nhớ đừng thương.

Mai sau dầu hồn xuống suối vàng,

ơn cô bác còn ghi ngàn thuở.

Chẳng thà thác cho trọn niềm chồng vợ,

sống đọa đày sống cũng nhơ danh.

Đứng làm người vậy mới hùng anh,

chẳng phải kẻ tiểu nhơn húy tử.

Sự cô bác cũng là hay chữ,

tỏ mấy lời mực chấp châu thơ.

Khám lớn còn nương náo đợi chờ,

trông giấy lại phản hồn âm cảnh.

Sự còn mất mấy ai tránh khỏi,

việc tử sanh tại ở thiên công.

Thơ làm gởi lại đã xong,

Giã từ cô bác ở ăn vuông tròn.

Mai tôi lên khám Sài Gòn,

Đặng chờ giấy lại phản hồi Trà Vinh.

Từ đây hai ngả u minh,

Giấy tờ không lại buồn tình dạ ta.

Trách thay quan lớn trên tòa,

Sao không đem chém để mà làm chi.

Nặng nề khó đứng khôn đi,

Năm sáu tháng thì chẳng đặng vào ra.

Cho nên châu lụy nhỏ sa,

Lấy mây làm viết tả thơ giải buồn.

VẬY CÓ THƠ RẰNG

“Hoàng thiên ôi có biết!

Địa hậu hỡi có hay!

Từ thuở giao tay

phân đoan cùng vợ.

Dốc tròn căn nợ,

chẳng nệ tử sanh.

Trai đứng hùng anh,

bao nài sanh tử,

Nào hay thục nữ

đem dạ bội phu.

Hại tôi ở tù,

Trà Vinh ba tháng.

Cho nên thù oán,

cũng bởi tại ai.

Sanh sự lấy trai,

biểu người giết bỏ.

Đội cai chưa rõ,

Phân lại cho tường.

Chớ đạo cang thường,

sao không thương tiếc.

Nhưng mà phải giết,

đặng sửa muôn dân.

Chịu chữ phong trần,

có hơn ba tháng.

Quan tòa công án,

xử quyết trảm chi.

Hai ngả biệt ly,

làm thơ một bức.

Sự tôi không ức,

cô bác đã hay.

Nay tôi tỏ bày,

anh em đặng rõ.

Quan tòa xử đó,

người ép kêu oan.

Chống án ngay gian,

về Tây xét lại.

Kẻo mà dỏng ngải,

tuổi hởi ấu xuân.

Nên đứng anh hùng,

nữ nam thương tiếc.

Lòng tôi chí quyết,

hồn xuống suối vàng.

Kẻo để đày sang,

xứ người cực khổ.

Chẳng qua mạng số,

sanh tử lẽ thường.

Ai có tiếc thương,

thì tôi cũng cám.

Lòng tôi đâu dám,

cãi lịnh Hoàng thiên.

Để xuống huỳnh tuyền,

vợ chồng trọn đạo.

Vì chưng quả báo,

kiếp trước làm sao.

Nên kẻ bị đao,

người thời bị chém.

Lại thêm lưu lạc,

mồ đã đất người.

Thiên hạ chê cười,

muôn phần xấu hổ.

Vài lời thô lỗ,

cẩn ký nay thơ”.

***

Thơ ghi một bức vừa xong,

Đặng cho cô bác rõ lòng ngay gian.

Bởi ai trước ở phụ phàng,

Nên sau tôi mới đứt đàng ngải nhân.

Nói ra tủi hổ muôn phần,

Tính ra cho hết trăm lần gian nan.

Ngày nay gần xuống suối vàng,

Tạm làm một bổn dương gian để đời.

Anh em lớn nhỏ xem chơi,

Những phường bóng sắc trên đời chớ tin.

Uống ăn sau trước giữ gìn,

Phụ nhơn nan hóa hại mình không hay.

Trước sau lời đã tỏ bày,

Anh em coi lấy giữ rày lấy thân.

Ai ai cũng ở trong trần,

Bãi bui trước mặt hại thầm sau lưng.

Tháng qua ngày lại xây vần,

Phúc đâu giấy lại lao xao tiếng đồn.

Tràn rao khắp chốn thị thành,

Dẫn chàng Sáu Trọng hành hình một khi.

Trọng rằng: Từ giã cố tri,

Anh em ở lại vĩnh vi trọn bề,

Anh hùng sống ở thác về,

Nên hư cũng tiếng theo lề lối xưa.

Người than kẻ khóc như mưa,

Phút đâu giờ tới chiêng đưa mấy hồi.

Bá quan tựu tới vừa rồi,

Điễn quan đọc án dứt lời đầu bay.

Nôm na sự tích tỏ bày,

Dở hay cũng tiếng để rày làm gương.


 

Lời giới thiệu Thơ cậu Hai Miên

 

Trong Nam tên họ nổi như cồn

Một trận Gò Công nức tiếng đồn

Đó là hai câu thơ trích trong Điếu Trương tướng quân liên hoàn thập nhị thủ của nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Cuộc kháng chiến hào hùng của anh hùng Trương Định đã gây cho giặc Pháp nhiều tổn thất to lớn. Ông đã dấy binh ngay khi giặc tập trung đánh thành Gia Định, ngày 17.2.1859. Cuộc kháng chiến do ông lãnh đạo đã trở thành ngọn cờ tập trung các lực lượng yêu nước lúc bấy giờ. Không tiêu diệt được ông, giặc hèn hạ mượn tay của Việt gian phản dân hại nước. Chó săn Huỳnh Tấn được giao nhiệm vụ này. Đêm 19.8.1864, y bí mật dẫn quan bao vây căn cứ Tân Hòa. Trương Định bị chúng bắn gãy xương sống, để giữ phẩm tiết của một người anh hùng, quyết không sa vào tay giặc, ông đã dùng gươm tự sát. Nhờ “chiến công” này, Huỳnh Tấn từ chức đội được thăng Lãnh binh – đây là chức trước đây chỉ có trong hàng võ quan Việt Nam, chớ không có trong quân đội Pháp. Ngoài ra y còn được giặc phong thưởng rất hậu, được ban cho nhiều quyền hành đặc biệt.

Hai Miêng là con trai của Việt gian Tấn.

Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa biết rõ về nhân vật kỳ quái này mà  chủ yếu là những giai thoại, có thể được thêm thắt của người đương thời. Huỳnh Tấn có năm người con, hai trai và ba gái. Hai trai là Hai Miêng và Sáu Viễn. Hai người con gái ghê tởm việc làm của cha nên bỏ đi tu ở nhà Dòng, nhằm làm việc thiện để lương tâm không day dứt, một cô thì chết lúc còn nhỏ. Theo tác phẩm Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới (NXB TP.HCM, 1992) của Bùi Đức Tịnh, Gò Công xưa và nay (Tác giả xuất bản, 1969) của Huỳnh Minh và một số tài liệu khác, chúng ta có thể hình dung ra cuộc đời của Hai Miêng:

Đến ngày 26.11.1874, Tấn chết vì bệnh vào lúc 37 tuổi. Con trai của Tấn, tục danh cậu Hai Miêng, được Pháp cho du học tại Alger (Angiêri). Sang đó, Miêng không học hành gì mà chỉ khoái ăn chơi đàng điếm, đến nỗi dân bên đó phải khiếp! khi trở về nước, Miêng được cử theo làm việc cho chó săn Trần Bá Lộc, Lộc vốn là tay sai khét tiếng của thực dân, từng được chúng phong chức hàm Tổng Đốc. Năm 1887, Lộc được cử ra miền Trung đánh phá phong trào yêu nước của anh hùng Mai Xuân Thưởng… Trong cuộc hành quân 70 ngày, Lộc đã ra tay giết chết, khủng bố hàng loạt người dân lương thiện đến nỗi giặc Pháp cũng phải kinh sợ. Những việc sát hại đồng bào đã khiến Hai Miêng phẫn uất. Miêng không thể theo Lộc, mà bỏ hàng ngũ trở về làm thường dân. Từ đó, Miêng chỉ sống hoang đàng, tiêu tiền như nước và thường làm những việc nghĩa hiệp “giữa đường thấy chuyện bất bằng chẳng tha”. Cuộc đời Hai Miêng ngắn ngủi, có thể Miêng chết vào khoảng năm 1890, thọ 38 tuổi. Bài thơ Khóc cậu Hai Miêng của Lê Quang Chiểu (in trong Quốc âm thi tập hiệp tuyển xuất bản tại Sài Gòn năm 1903) có đoạn viết:

Số hệ làm ai hỡi cậu Miêng

Ba mươi tám tuổi dõi huỳnh tuyền

Sao lờ Bến Nghé xiêu người ngõ

Khói tỏa cầu Kho thảm vợ hiền

Những giai thoại ăn chơi, chi tiêu mà thiên hạ đã đặt vè:

Cậu Hai cậu chớ có lo

Hết tiền cậu xuống dưới kho lấy xài

như trong tạp chí Thế giới mới (số ra ngày 25.5.1998) bài Chuyện cậu Hai Miêng có đoạn viết: “Người Pháp rất ngán ngại những hành động của Hai Miêng, nhưng vì trót có chủ trương biệt đãi từ đầu nên họ đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Tuy về sau họ có ngầm hạn chế, chỉ chấp nhận chi trả cho cậu Hai những số tiền vừa phải. Thí dụ, khi đến bất cứ đâu, nếu Hai Miêng cần tiền chi xài việc gì đó, thì cậu cứ tới ngân khố “vây” (mà không cần trả) một số đủ ăn chơi trong các chuyến “lưu du” (tr.38). Những giai thoại này, có thể người đời sau thêm thắt để ly kỳ hóa thêm chăng? Nếu chỉ với những “thành tích” như trên thì tại sao Hai Miêng được đặt vè truyền tụng? Trước đây, nhà nghiên cứu Huỳnh Minh cũng đặt vấn đề như trên: “Người Việt ta có tinh thần hài hước (humour) lắm, những bài vè về nghiên cứu thường chỉ ca ngợi anh hùng, liệt sĩ, vậy mà nhiều khi cũng “móc họng” ra phết! Vậy cậu Hai Miêng là một anh hùng hay một nhân vật như thế nào mà được giới bình dân nhắc nhở, để nguyền rủa hay để tán dương? (Sđd, tr.177). Căn cứ vào bổn vè Cậu Hai Miêng có được trong tay, chúng tôi suy nghĩ: dù tán dương Miêng nhưng qua đó chúng ta cũng thấy được bộ mặt thối nát của xã hội thời Pháp thuộc. Mở đầu câu chuyện là Bảy Danh, Tám Hổ, Ba Ngà đến nhà than phiền với cậu là mới thua ba ngàn đồng – tiền chơi me ở nhà Chệt Lù. Họ nhờ Miêng gỡ gạc giùm. Miêng liền cho người gọi Chệt Lù đến để “gầy sòng”. Cuối cùng Miêng thắng bạc hơn bốn ngàn hai và trả lại tiền cho ba tên đã thua. Thái độ trọng tình khinh tài nên đã khiến người ta khoái Hai Miêng chăng? Bổn vè này cho thấy, thực dân Pháp thời đó đã dung túng và bao che cho tệ nạn cờ bạc:

Nào là bông vụ đông người

Nào là lúc lắc, kẻ thời bầu cua

Vui chơi từ sáng đến trưa

Bài cào, tứ sắc cũng đua chơi bời

Khi phản ánh đúng thực trạng xã hội thì bổn vè này ít nhiều tố cáo xã hội đó. Thấy dân chúng trong làng chơi cờ bạc nên Hương Quản “Cầm roi cá đuối quyết không vị tình”. Việc làm của Hương Quản là việc làm tích cực chứ? Nhưng không, bọn cờ bạc bèn “cầu cứu” Hai Miêng. Cậu ra tay đánh Hương Quản. Ôm nỗi nhục này, Hương Quản than phiền với những người bạn thân là chú Xã, ông Cả. Họ khuyên là nên đi kiện quan trên.

Sau khi nhận đơn thì quan trên cho gọi Hai Miêng đến. Để làm gì? Thật là lố bịch và hài hước cho cái gọi là công lý của xã hội ấy, khi Miêng đến thì quan tham biện nói:

Tôi nay biết rõ cậu nhiều

Lẽ nào tôi chẳng biết điều hay sao?

Cho nên đơn nó đưa vào

Tôi biểu ký lục mau mau xé liền

Nếu chỉ dừng lại đó thì ta cũng đã ghê tởm cho người cầm cân nảy mực, đại diện cho công lý. Nhưng không, bài vè còn cho biết thêm hành động mờ ám, đê tiện của quan tham biện:

Vậy cậu tua khá an lòng

Tôi cách chức nó mới xong mọi đàng

Vậy đó, kẻ đi tố cáo không được bênh vực mà lại còn bị trù dập không thương tiếc! Không còn cách nào khác, Hương Quản:

Về nhà sửa soạn ra ngoài Hà Tiên

Đất này nhường cậu Hai Miêng

Nếu không tránh sớm chẳng hiền cho ta

Rõ ràng, chế độ thối nát ấy đã dung dưỡng, bao che cho Hai Miêng. Nếu chỉ có vậy thì chưa chắc giới bình dân đã khoái Hai Miêng, mà Miêng còn làm những việc nghĩa hiệp. Đó là lúc cậu ra tay đánh Tám Hổ để bảo vệ người phụ nữ bị ức hiếp. Chuyện như thế này:

Nàng kia lời mới giãi bày

Tôi là gái ở mé ngoài làng trên

Nhơn tôi ra chợ đổi tiền

Chàng này chọc ghẹo rất nên thẹn thùa

Tôi muốn cho hắn phải chừa

Cho nên phải quấy hơn thua giãi bày

Chẳng dè mặt dạn mày dày

Theo ghẹo mỗi ngày nói việc ong hoa

Tôi đây xấu hổ thay là

Mắng chàng mấy tiếng kẻo mà chẳng kiêng

Chẳng dè hắn xáp đến liền

Đánh tôi tàn ác rất nên dữ dằn

Trước chuyện bất bình này, Hai Miêng đã ra tay ngay! Và cậu đã chơi như dân giang hồ mã thượng là khi Tám Hổ bị “nốc ao” xin tha tội thì “Cậu hai thấy vậy tha ngay!”. Đó cũng là tính cách của các tay anh chị Nam kỳ thuở trước. Có thể nói, vẻ Hai Miêng khiến người ta thích nghe vì ở đây Hai Miêng không từ chối lời nhờ vả của ai cả. Trong cái xã hội mà thực dân đã bình định xong, tiếng súng của nghĩa quân kháng chiến vẫn còn râm ran khắp nơi và ngay trong vùng giặc tạm chiếm lại có con người ngang ngược như Hai Miêng “dọc ngang nào biết trên đầu có ai” nên được thiên hạ khoái chăng? Và phải chăng đó là lý do sâu xa mà thực dân ngăn cấm phổ biến bài vè này như vè Sáu Trọng, Thông Chánh?

Đọc lại bổn vè Hai Miêng, thiết tưởng chúng ta phải nhìn đằng sau những dòng chữ ca ngợi Hai Miêng, mà qua đó thấy được những tình tiết (dù vô tình hoặc cố ý) phê phán bộ máy thống trị của xã hội đương thời. Đó chính là tinh thần “gạn đục khơi trong” đối với những sáng tác dân gian đã ra đời trong nanh vuốt của chế độ thực dân. Đặc điểm của thể loại vè là mang đậm tính chất phản ánh thời sự, nên qua đó chúng ta cũng thấy được bộ mặt thật của xã hội đương thời.

Lê Minh Quốc


 

Thơ cậu Hai Miêng

 

Đêm thu bóng nguyệt soi mành,

Bâng khuâng dạ ngọc chạnh tình ngâm nga.

Xét trong thế sự người ta,

Tài ba cho mấy cũng là như không.

Cho hay thiên địa chí công,

Dữ lành báo ứng vô cùng màu linh.

Gương xưa trông thấy đành rành,

Người nay xem đó giữ mình cho yên.

Nam Kỳ có cậu Hai Miêng,

Con quan lớn Tấn ở miền Gò Công.

Cậu hai là bực anh hùng,

Ăn chơi đúng bực vô cùng liệt oanh.

Nam Kỳ lục tỉnh nổi danh,

Thật là một bực hùng anh trên đời.

Tuổi nay gần mới ba mươi,

Tánh tình hào hiệp ít người dám đương.

Thương người thất thế lỡ đường,

Thương người trung chánh ghét phường tà gian.

Cậu hai tuy thật dọc ngang,

Nhưng mà chánh trực vẹn toàn không sai.

Xóm làng lớn nhỏ ai ai,

Thảy đều mến tiếng cậu hai phục tùng.

Những tay xưng bá xưng hùng,

Hễ là gặp cậu ắt không thứ tình.

Ghét người hiếp đáp dân lành,

Ghét người ỷ thế bất bình với dân.

Gò Công khắp chốn xa gần,

Nghe danh của cậu trăm phần nể kiêng.

Cậu hai vốn bực có quyền,

Quan trên cũng nể cũng kiêng lựa là.

Ngày kia cậu ở trong nhà,

Bảy Danh, Tám Hổ, Ba Ngà đến chơi.

Cậu hai vội vã mời ngồi,

Cả ba tỏ lại khúc nôi cậu tường.

Chúng tôi xuôi xẻo trăm đường,

Hốt me thua sạch vẫn đương lo rầu.

Nghĩ càng tức giận xiết bao,

Chệt Lù nó trúng trước sau ba ngàn.

Chúng tôi buồn bã lòng vàng,

Hết tiền sạch túi lại càng nhuốc nhơ.

Mang danh là điếm thuở giờ,

Để cho người trúng lòng tơ thêm phiền.

Bây giờ đã sạch bạc tiền,

Nghĩ càng tức tối rất nên thảm sầu.

Cậu hai nghe hảng đuôi đầu,

Tức thời hỏi lại âm hao cho tàng.

Chúng bây dại dột rõ ràng,

Cái gì thua tới ba ngàn tức thay.

Thưa rằng: Me lạ bữa nay,

Bác tiên ngồi lúng chẳng sai cửa nào.

Chúng tôi chẳng biết làm sao,

Thay cái mới vào hốt cũng bác tiên.

Thiệt là nó trúng liên miên,

Trúng gần mười chén có trên ba ngàn.

Cậu hai nghe rõ mọi đàng,

Xét suy trong dạ vội vàng phân ra.

Chúng bây chớ có thiết tha,

Để tao gỡ lại kẻo mà nhơ danh.

Thuở nay ai cũng biết mình,

Điếm đàng ai lại dễ dàng thua ai.

Chệt Lù bây gọi đến đây,

Đặng tao tính một việc này gỡ cho.

Kẻo mà mang nhuốc mang nhơ,

Thua tiền mà chúng gọi khờ mới đau.

Ba người nghe hảng âm hao,

Lòng mừng khấp khởi mau mau đi liền.

Chệt Lù nay trúng nhiều tiền,

Về nhà vích đốc rất nên thỏa lòng.

Chẳng dè nghe rõ đục trong,

Cậu Hai Miêng gọi chẳng thông sự gì.

Vội vàng xách áo ra đi,

Đến nhà hỏi cậu kêu chi cho tàng.

Bước vào nơi chốn gia trang,

Cậu hai bèn hỏi mọi đàng thấp cao.

Nghe mày nay đã làm giàu,

Trúng me nhiều quá trước sau ba ngàn.

Thôi đừng có bụng tham lam,

Hốt cái tao đánh vài ngàn giải khuây.

Chệt Lù nghe rõ vắn dài,

Vốn nó đã biết cậu hai thuở giờ.

Cậu đã biểu, há dám ngơ,

Tức thì thưa lại so đo sự tình.

Cậu hai khá xét hắc minh,

Tôi thua cả tháng thảm tình xiết bao.

Thật là chẳng phải ít đâu,

Gần một muôn bạc dám nào nói sai.

Tôi chỉ gỡ lại hôm nay,

Có ba ngàn mấy như vầy đủ đâu.

Xin cậu khá tưởng lòng nhau,

Như cậu có túng tôi nào tiếc chi.

Vài trăm dưng cậu tức thì,

Thôi đừng hốt đánh làm gì mắc công.

Cậu hai nghe hảng đục trong,

Trợn mắt bèn tỏ thủy chung sự tình.

Tao không phải túng mà xin,

Đánh chơi mi có ưng đành hay không.

Chệt Lù nghe sợ vô cùng,

Thưa rằng: Cậu biểu há không vưng lời.

Cậu hai bèn nói tức thời,

Hốt bao nhiêu vốn vậy ngươi khá bày.

Đáp rằng: Tự ý cậu hai,

Hốt bao nhiêu vốn tôi đây vui lòng.

Cậu rằng: Tao đã định xong,

Hốt ba ngàn vốn mựa đừng ít hơn,

Chệt Lù nghe hảng thiệt hơn,

Vui lòng ưng thuận chẳng còn nói chi.

Cậu hai liền biểu hốt đi,

Giữa nhà bài bạc xiết chi vui vầy.

Xòng me mua khóc đã vầy,

Tai con hốt cái có ngoài hai mươi.

Cậu hai xem chén một hồi,

Cậu âu cửa lượng tức thời tám trăm.

Khi ra cửa lượng mừng thầm,

Cậu hai đã trúng thỏa tâm vô hồi.

Thua qua trúng lại một hồi,

Cậu hai chén chót đặng thôi ba ngàn.

Cậu đặt cửa túc rõ ràng,

Khui ra cửa túc lòng vàng mừng vui.

Sau khi cái hết tiền rồi,

Cậu hai tính lại vậy thời mừng thay.

Cậu ăn hơn bốn ngàn hai,

Chệt Lù hết túi tức thay trong lòng.

Nhưng mà cam chịu cho xong,

Nếu nói láng cháng ắt không còn hồn.

Cậu hai toại bấy lòng son,

Xuất ba ngàn bạc chẳng còn tiếc chi.

Trả cho ba kẻ tức thì,

Ba người vui vẻ khác gì lên mây.

Thảy đều cám nghĩa cậu hai,

Thưa rằng: ơn nghĩa sánh tày biển sông.

Nếu cậu chẳng tưởng tấm lòng,

Chúng tôi chắc phải vô cùng hiểm nguy.

Ân này chí quyết tạc ghi,

Ngàn ngày cũng nhớ dễ gì lạt phai.

Ba người từ tạ cậu hai,

Dẫn nhau ra chợ bạc bài vui chơi.

Nửa năm lễ đã đến rồi,

Nhơn dân trong hạt vô cùng vầy vui.

Nào là bông vụ đông người,

Nào là lúc lắc, kẻ thời bầu cua.

Vui chơi từ sớm đến trưa,

Bài cào, tứ sắc cũng đua chơi bời.

Có tên Hương Quản hiện thời,

Thấy dân bài bạc lòng người ghét thay.

Phân rằng phải dẹp lũ này,

Nếu mà để nó bạc bài thất công.

Ỷ mình chức phận hành hung,

Cầm roi cá đuối quyết không vị tình.

Dạo cùng khắp chợ khắp thành,

Hễ thấy bài bạc bất bình la vang.

Cầm roi Hương Quản đến càng,

Đánh người không kể nguy nan là gì.

Thảm thay mấy đứa hài nhi,

Hương Quản cũng đánh khác nào đánh trâu.

Đàn bà đang bấu cùng nhau,

Đánh bài tứ sắc vốn nào có hay.

Gặp cậu Hương Quản ra tay,

Áp vào đánh đại thảm thay đàn bà.

Bảy Thẹo thấy vậy bước ra,

Phân cùng Hương Quản gần xa sự tình.

Cậu đừng ỷ thế bất bình,

Chuyện chi cậu đánh dạ đành hung hăng.

Thật cậu ngang dọc vô ngần,

Cậu đừng ỷ thị cấm ngăn đánh người.

Hương Quản nghe rõ mấy lời,

Trong lòng thêm giận tức thì hỏi qua.

Tao đánh mi làm chi ta,

Nếu mày láng cháng ắt là ngồi trăng.

Bảy Thẹo tức giận vô ngần,

Chuyện chi mà phải ngồi trăng dọa người.

Hương Quảng bước đến tức thì,

Nếu mày nói nữa bỏ đời mày đi.

Bảy Thẹo trong dạ xét suy,

Thằng này phách lối dễ gì nhịn sao.

Thôi tao chẳng nói thấp cao,

Hễ có người trị ngày sau mới chừa.

Bảy Thẹo không nói hơn thua,

Hương Quản thấy vậy rất vừa lòng thay.

Thầm rằng: Nó biết sợ oai,

Nếu không nó gặp ta đây chẳng còn.

Bảy Thẹo tức giận chi hơn,

Vội vàng chổi bước dời chơn đi liền.

Bảy Thẹo kiếm cậu Hai Miêng,

Cậu đang uống rượu sạ duyên nào tàng.

Cậu đang ngồi tại nhà hàng,

Chung quanh bằng hữu điếm đàng rất đông.

Bảy Thẹo chưa tỏ đục trong,

Cậu hai bèn hỏi thủy chung sự tình.

Chuyện chi xem bộ bất bình,

Mặt mày mầy lại tái xanh như vầy.

Bảy Thẹo thưa với cậu hai,

Cậu xem Hương Quản còn ai mà bằng.

Dọc ngang ỷ thị vô ngần,

Nó muốn sanh sự khó khăn vô cùng.

Xách roi cá đuối hành hung,

Đánh người bài bạc nó không vị tình.

Bà già bị đánh thảm tình,

Con nít nó cũng chẳng đành dung tha.

Làm cho thiên hạ gần xa,

Đang khi vui vẻ hóa ra sự buồn.

Thảy đều kinh sợ phi thường,

Bạc bài dẹp hết trăm đường uế thay.

Đang khi làng chợ vui vầy,

Cũng bị Hương Quản bạc bài hăm he.

Cậu hai trong đục đã nghe,

Phân rằng Hương Quản trăm bề hung hăng.

Nó thật phách lối vô ngằn,

Gặp tao thì nó chẳng an đâu là.

Bảy Thẹo lời mới thưa qua,

Nó còn hăm dọa nào là đóng trăng.

Nghĩ càng tức giận vô ngần,

Nó cấm bài bạc thì có vui chi.

Vậy xin cậu khá xét suy,

Nếu mà để vậy nó khi chúng mình.

Cậu hai nghe rõ hắc minh,

Trong dạ bất bình lời mới phân qua.

Mày đừng buồn bã thiết tha,

Mày ra ngoài chợ gần xa giãi bày.

Rao cho lớn nhỏ đặng hay,

Cứ việc bạc bài cứ việc vui chơi.

Nói tao đây biểu các người,

Thì là cứ việc vầy vui bạc bài.

Chuyện chi thì có tao đây,

Lịnh tao biểu vậy thì mày đi đi.

Bảy Thẹo mừng rỡ xiết chi,

Vội vàng chỗi gót tức thì bước ra.

Đến chợ kêu hết người ta,

Điếm đàng đủ mặt phân qua như vầy.

Hương Quản tuy cấm bạc bài,

Nhưng mà có lịnh cậu hai đã truyền.

Chúng ta cứ việc lòng yên,

Gầy sòng chơi lại chẳng thèm sợ ai.

Bởi vì có lịnh cậu hai,

Dẫu cho Hương Quản hoặc ai kể gì.

Nghe đà tỏ rõ tường tri,

Thảy đều vui vẻ xiết chi trong lòng.

Cậu hai có lịnh thì xong,

Chúng ta cứ việc gầy sòng vui chơi.

Nói rồi có mấy trăm người,

Bày ra giữa chợ vầy vui bạc bài.

Bảy Thẹo toại dạ lắm thay,

Trông cho Hương Quản đến đây ỷ quyền.

Hương Quản nghe tiếng Hai Miêng,

Nhưng chưa biết mặt dữ hiền ra sao.

Nhưng ỷ mình võ nghệ cao,

Lại thêm quyền chức ai nào dám đương.

Cầm roi đi dạo khắp đường,

Trông thấy thiên hạ vẫn đương gầy sòng.

Hương Quản càng tức vô cùng,

Xốc vào quyết dạ hành hung đánh người.

Bảy Thẹo bước đến tức thời,

Vội vàng bày tỏ khúc nôi sự tình.

Chú đừng ỷ thế quyền mình,

Cậu không phép đánh dân làng vầy đâu.

Hương Quản giận mặt đỏ ao,

Rằng: Mày chớ khá cản tao làm gì.

Bạc bài giữa chợ dễ gì,

Dầu tao đánh chết làm chi mà phòng.

Bảy Thẹo phân lại đục trong,

Cậu hai cho phép gầy sòng vui chơi.

Chú đừng ỷ thị đánh người,

Nói cho chú biết đầu đuôi sự tình.

Hương Quản chi xiết bất bình,

Rằng: Ta chẳng biết tánh danh cậu nào.

Làng này vốn ở quyền tao,

Cậu hai thây kệ ta đâu kể màng.

Nói vừa dứt tiếng đánh càng,

Làm cho thiên hạ kinh hoàng chạy dông.

Cậu hai nghe hảng đục trong,

Tức thì chạy đến thủy chung hỏi rằng.

Chú này ngang ngược vô ngằn,

Sao chú dám đánh người đang vui vầy.

Hương Quản bèn nói lời này,

Còn mày lại dám cản đây làm gì.

Không tường mày đó là ai,

Giấy thuế thân khá trình bày xem coi.

Cậu hai nghe vậy liền cười,

Mày muốn mất chức vậy thời không sai.

Hương Quản nạt nộ cậu hai,

Lại toan bước đến bạt tai chẳng nhường.

Cậu hai tức giận trăm đường,

Dằn hoài không đặng há nhường hay sao.

Nói rồi ra sức anh hào,

Đánh chú Hương Quản dễ nào thứ dung.

Hương Quản cũng giận vô cùng,

Ỷ mình võ nghệ quyết không chịu nhường.

Hai người nỗ lực cự đương,

Đánh nhau kịch liệt đánh luôn nửa giờ.

Hương Quản trong dạ hơi lo,

Quả thật không ngờ người thật hùng anh.

Cậu hai lui tới rất lanh,

Đá chú Hương Quản trúng mình nhào lăn.

Hương Quản kinh sợ vô ngằn,

Chắc là phải chết khó an thân mình.

Cậu hai chưa dứt lôi đình,

Nhảy đến đánh nữa tử sanh kể gì.

Hương Quản phách lạc hồn phi,

Thưa rằng: Thứ mạng ân ghi đến già.

Cậu hai thấy vậy buông ra,

Nói cho mày biết tao là Hai Miêng.

Hương Quản chừ mới nể kiêng,

Đâm đầu chạy tuốt rất nên sảng hoàng.

Cậu hai thấy vậy cười vang,

Thầm rằng như vậy cũng rằng hùng anh.

Cậu hai chi biết bất bình,

Nhưng mà thấy vậy cũng đành nới tya.

Thiên hạ tựu lại đông đầy,

Xúm nhau chào hỏi cậu hai thỏa lòng.

Rằng chú Hương Quản dữ hung,

Nay gặp tay cậu mới không ỷ mình.

Cậu hai lời mới trần tình,

Chúng bây tua khá giữ mình về sau.

Hương Quản võ nghệ cũng cao,

Không tao tưởng chẳng kẻ nào dám đương.

Điếm đàng thưa lại mọi đường,

Trông thấy nó đánh cũng tường nghề hay.

Cậu hai lời mới tỏ bày,

Chúng bây cứ việc bạc bài vui chơi.

Chuyện chi tao chịu cho ngươi,

Cứ việc chơi bời trối kệ mặc ai.

Điếm đàng nghe nói mừng thay,

Chắc là thỏa dạ từ rày sấp lên.

Xiết bao nhiêu nỗi thỏa nguyền,

Điếm đàng được dịp kiếm tiền mừng thay.

Toại lòng phỉ dạ vô hồi,

Cậu hai ra lịnh trăm người tuân theo.

Từ nay cho đến bang chiều,

Thảy đồng bài bạc thảy đều vui chơi.

Hương Quản này đoạn nhắc người,

Bị cậu hai đánh vô hồi xấu xa.

Lại thêm trước mặt người ta,

Còn chi danh tiếng thật là hổ hang.

Bị cậu hai đánh bò càng,

Chạy về gia nội nghĩ càng nhơ danh.

Trong lòng chi xiết bất bình,

Tính thầm trong bụng chẳng đành chịu thua.

Tính toan từ sớm đến trưa,

Trong lòng bứt rứt xót chua vô hồi.

Như vầy miệng thế chê cười,

Làm sao rửa nhục vậy thời mới an.

Nghĩ càng tức bấy lòng vàng,

Nghĩ càng chua xót dạ càng thảm thê.

Xấu xa hổ thẹn trăm bề,

Mình người chức việc chẳng hề thua ai.

Bây giờ chịu xấu như vầy,

Muôn ngày thẹn nhục lòng này sao an.

Nghĩ thôi đau đớn đoạn tràng,

Nghĩ thôi bứt rứt gan vàng nào yên.

Căm hờn thay cậu Hai Miêng,

Trả thù cho đặng vẹn tuyền mới an.

Âu là cậy sức của làng,

Hoặc là trừ mới được chàng mà thôi.

Hương Quản bị đánh sớm mơi,

Mặt mày xưng bấy vô hồi thiết tha.

Lại thêm tức ngực thay là,

Bước đi không vững lựa là đánh ai.

Nhà làng liền bước đến ngay,

Hương Quản xụ mặt châu mày bước vô.

Thật là hổ thẹn nhuốc nhơ,

Nhưng mà phải chịu phòng lo báo thù.

Chú Xã ông Cả đương ngồi,

Hương thân, Hương chánh đang hồi bàn nhau.

Hương Quản chừ mới bước vào,

Các ông hương chức xiết bao lạ lùng.

Tức thì hỏi lại đục trong,

Chuyện chi mà lại xem chừng khổ nguy.

Khá tua nói lại tường tri,

Mặt mày xem chẳng khác gì chú ôn.

Hương Quản nghe hãng thiệt hơn,

Thẹn thùa đỏ mặt chẳng còn thấy ai.

Làm thinh gượng gạo một giây,

Đoạn bèn sự thật giãi bày thấp cao.

Chúng ta hổ thẹn xiết bao,

Tôi mà như thế xót đau tấm lòng.

Hai Miêng ỷ thế vô cùng,

Đánh tôi mang bịnh e không đặng toàn.

Chú xã nghe nói hỏi ngang,

Chuyện chi dữ vậy mau toan giãi bày.

Hương Quản mới nói lời vầy,

Cũng vì tôi cấm bạc bài gây ra.

Hai Miêng có lịnh truyền ra,

Biểu người cứ việc hiệp mà vui chơi.

Tôi càng tức giận vô hồi,

Cãi cọ mấy lời nó lại đánh tôi.

Chú xã nghe nói hỡi ôi!

Tưởng ai đâu lạ chớ người tôi thông.

Hai Miêng quả thật anh hùng,

Nhưng mà ngang ngược vô cùng chẳng chơi.

Ngày xưa gã cũng đánh tôi,

Nhưng mà xét lại nhiều người theo va.

Nếu mình gây chuyện thêm ra,

Thì mình thua hắn cũng là uổng công.

Nhưng nay đã đến nước cùng,

Nhục này quả thật nhục chung của làng.

Vậy ta mau khá lên quan,

Thưa hết các việc xem chàng ra sao.

Kẻo mà ỷ sức anh hào,

Hiếp người hiếp chúng kể nào lịnh trên.

Chú xã bày tỏ sạ duyên,

Đốc chú Hương Quản rất nên lắm lời.

Rằng: Ta làm hắn đến nơi,

Đặng cho hắn hết khinh người mới nghe.

Chuyện này xấu hổ trăm bề,

Nếu mình bỏ lãng chẳng hề hết nhơ.

Nghe qua tỏ rõ nguyên do,

Hương Quản bệ tờ thưa tới quan trên.

Tham biện biết cậu Hai Miêng,

Tức thì đòi cậu sạ duyên cho tàng.

Cậu hai ngồi tại nhà hàng,

Đang khi uống rượu lòng vàng phỉ vưi.

Chẳng dè có trác đến nơi,

Lính đòi cậu phải hầu thời quan trên.

Cậu hai bèn hỏi sạ duyên,

Chuyện chi đòi hỏi rất nên rộn ràng.

Lính rằng: Vì có lịnh quan,

Sai tôi mời cậu mau sang dinh ngài.

Chuyện chi tôi chẳng có hay,

Sai mời tôi phải đến đây thỉnh mời.

Cậu hai nghe nói bèn cười,

Thôi ngươi về trước thưa người đặng hay.

Rằng ta bận việc lắm thay,

Cho nên từ sớm đến mai rộn ràng.

Khá tua thưa lại thượng quan,

Ngày mai ta rảnh sẽ sang dinh người.

Tên lính nghe hãng khúc nôi,

Hai Miêng liền tỏ khúc nôi sự tình.

Thưa cậu đặng rõ hắc minh,

Ngày mai chúa nhựt trong dinh vắng ngài.

Cậu rảnh thì tối hôm nay,

Cậu lên quan lớn giãi bày việc riêng.

Cậu hai nghe rõ sự duyên,

Tức thì nói lại cho tên lính làng.

Nếu như tối có rảnh rang,

Bảy giờ ta đến ngỏ toan viếng người.

Tên lính mừng rỡ vô hồi,

Vội vàng chào cậu tức thời ra đi.

Cậu hai chẳng rõ chuyện gì,

Vẫn còn suy xét ngại nghi trong lòng.

Điếm đàng lo lắng không cùng,

Hỏi han cho rõ đục trong thể nào.

Chuyện chi chưa rõ âm hao,

Để cậu lên trển thể nao thì tàng.

Có người lời lại bàn rằng,

Chắc chuyện Hương Quản rõ ràng không sai.

Có người lại nói như vầy,

Chắc việc bạc bài chớ chẳng việc chi.

Cậu hai bèn nói tức thì,

Dầu có chuyện gì gẫm cũng vô can.

Tham biện mời đến dinh lang,

Chẳng qua muốn hỏi cho tàng âm hao.

Chớ không tù rạc chi đâu,

Chúng bây đừng sợ cho tao sự gì.

Cậu hai đứng dậy tức thì,

Trả xong tiền rượu rồi đi về nhà.

Bảy giờ tối cậu bước ra,

Lên dinh tham biện xem mà chuyện chi.

Cậu hai đội nón ra đi,

Trong lòng ngẫm nghĩ chuyện chi nào tàng.

Cậu hai bước đến dinh lang,

Lính gác trông thấy vội vàng vào trong.

Thưa quan tham biện rõ thông,

Cậu hai nay đến dinh trung hầu ngài.

Tham biện vui vẻ lắm thay,

Đang khi uống rượu bước ngay ra ngoài.

Cậu hai trông thấy chào ngài,

Quan lớn bước đến nắm tay mời vào.

Thật là niềm nở xiết bao,

Coi như huynh đệ ngang nhau đồng bàn.

Kéo ghế mời cậu vội vàng,

Kêu bồi đem rượu đãi càng hậu thay.

Sau khi uống rượu một giây,

Cậu hai bè hỏi cho hay sự tình.

Rằng: Xin quan lớn phân minh,

Cho đòi tôi đến nơi dinh chuyện gì?

Vốn tôi tự sự nan tri,

Xin ngài tỏ lại vậy thì đặng hay.

Quan lớn bèn nói lời này,

Không chi quan hệ cậu hai chịu phiền.

Vốn tên Hương Quản làng trên,

Đâm đơn nó kiện Hai Miêng nhiều điều.

Tôi đây rõ biết cậu nhiều,

Lẽ nào tôi chẳng biết điều hay sao.

Cho nên đơn nó đưa vào,

Tôi biểu ký lục mau mau xé liền.

Vốn không có chuyện chi phiền,

Muốn đòi cậu đến sạ duyên giải bày.

Chỉ còn có một điều này,

Chơi việc bạc bài giữa chợ khó thay.

Nhưng mà nếu có cậu hai,

Xin cậu coi sóc đừng rầy thì thôi.

Muốn chơi thì cứ việc chơi,

Nhưng mà cậu phải trông coi xem chừng.

Vậy cậu mựa chớ buồn lòng,

Chỉ bảo nhiêu đó chớ không chuyện gì.

Nghe qua tử sự tường tri,

Cậu hai thưa lại tức thì trước sau.

Xin ngài khá vị tình nhau,

Việc chơi bài bạc lẽ nào dám ngang.

Nhưng tôi cai trị điếm đàng,

Cho nên chẳng việc rộn ràng xảy ra.

Xin trên ngài chớ lo xa,

Tôi xin lãnh việc thật là không sao.

Nếu có xảy đến chuyện nào,

Tôi chịu trách nhiệm dám đâu sai lời.

Nếu ngài xuống lịnh cho chơi,

Thì tôi đây nguyện trông coi bạc bài.

Tôi xin hứa chắc cùng ngài,

Chuyện chi cứ việc tôi đây làm đầu.

Tham biện nghe hãng âm hao,

Tức thì phân lại thấp cao sự tình.

Nếu mà có tiếng cầu xin,

Lẽ nào tôi lại chẳng đành tuân y.

Vậy cậu mựa chớ ngại nghi,

Tôi nay cho phép trong khi lễ này.

Bạc bài chơi nội bảy ngày,

Nghĩa là nội một tuần này mà thôi.

Cậu hai nghe rõ rất vui,

Cám ơn quan lớn tức thời phân qu.

Hương Quản hà hiếp người ta,

Nó đánh con nít đàn bà chẳng dung.

Nó thật một đứa ác hung,

Trong làng có nó vô cùng khó toan.

Xin trên xét lại kỹ càng,

Để nó trong làng nhiều việc xảy ra.

Tham biện nghe rõ gần xa,

Rằng nếu nó vậy khó mà thứ dung.

Vậy cậu tua khá an lòng,

Tôi cách chức nó mới xong mọi đàng.

Ngày mai chạy giấy xuống làng,

Cách chức Hương Quản cho an dân lành.

Cậu hai nghe rõ thỏa tình,

Giã từ quan lớn ra dinh về nhà.

Điếm đàng trông đợi thay là,

Vừa thấy dạng cậu kéo ra đón đàng.

Xúm nhau tự sự hỏi han,

Chuyện chi xin khá bày tàng thấp cao.

Cậu hai bèn tỏ âm hao,

Chẳng chuyện chi hại đến tao mà phòng.

Tức thì thuật lại đục trong,

Đầu đuôi các việc thủy chung giãi bày.

Điếm đàng vui vẻ lắm thay,

Có lịnh cờ bạc vui vầy ngày đêm.

Thật là đặng dịp kiếm tiền,

Cũng là nhờ cậu Hai Miêng xin dùm.

Nhắc qua Hương Quản chưa thông,

Tưởng là kiện vậy trả xong mối thù.

Ở nhà chờ đợi tin coi,

Chắc là sẽ trả đặng cừu nào sai.

Chẳng ngờ vừa được hai ngày,

Có giấy quan lớn mới hay sự tình.

Nào dè nguy khổ thình lình,

Đã bị cách chức thấm tình biết bao.

Trong lòng tức giận máu trào,

Hại người chẳng đặng dè đâu hại mình.

Trong lòng tức ói mật xanh,

Nghe lời chú xã thâm tình biết bao.

Đến nhà chú Xã bước vào,

Than phiền mọi nỗi đuôi đầu hắc minh.

Hai Miêng thế lực hơn mình,

Ta toan hại nó lại thành hại ta.

Chuyện này nếu xét sâu xa,

Cũng tại chú xã mới là vầy đây.

Tôi bị cách chức ngày nay,

Chắc là cũng tại cậu hai hại mình.

Chú xã bèn tỏ đành rành,

Tôi đây thề có cao xanh chứng lòng.

Anh em chức việc đồng song,

Ai muốn hại vậy thiên công đọa đày.

Chẳng qua thế lực cậu hai,

Cậu nói quan lớn sao đây mới là.

Hương Quản xin chớ trách ta,

Tôi nào có dạ tây tà hại nhau.

Nghe qua buồn bã xiết bao,

Nhưng việc vĩ lỡ, biết sao bây giờ.

Trong lòng rối rắm như tơ,

Lại thêm một nỗi nhuốc nhơ muôn ngày.

Hương Quản vội vã ra ngoài,

Về nhà sửa soạn ra ngoài Hà Tiên.

Đất này nhường cậu Hai Miêng,

Nếu không sớm tránh chẳng hiền cho ta.

Chi bằng mình khá dở nhà,

Kiếm nơi kiếm chốn cho xa ẩn mình.

Hồi nào chức phận oai danh,

Mình đây hiếp đáp dân tình nể oai.

Bây giờ thừa cái dịp này,

E cho chúng nó thù đây sai nào.

Chắc nó nhớ việc trước sau,

Báo thù báo oán dễ nào lại không.

Âu là trổi bước ruổi dung,

Thà ta đi phút mới xong phận mình.

Ở đây thấy mặt dân tình,

Càng thêm xấu thẹn lòng thành sao an.

Nghĩ rồi các việc lo toan,

Nội trong tuần lễ bỏ làng đi xa.

Cậu hai này đoạn nhắc qua,

Trong lòng buồn bã bỏ nhà dạo chơi.

Kiếm nơi kiếm chốn nào vui,

Giải khuây giải muộn vậy thời mới an.

Theo sau ba kẻ điếm đàng,

Dạo chơ cùng cậu dặm tràng ra đi.

Cùng nhau bàn bạc vân vi,

Xét ra cạn lẽ ai bì cậu hai.

Thật là như vậy mới oai,

Làm cho Hương Quản từ nay phải chừa.

Cậu hai nghe rõ hơn thua,

Phân rằng: Nếu vậy bây chưa có tàng.

Hương Quản đã trốn bỏ làng,

Còn ai đâu nữa nghinh ngang ỷ quyền.

Điếm đàng nào rõ sự duyên,

Nghe cậu phân vậy mới liền hỏi phăng.

Cậu hai thuật lại rõ ràng,

Các việc mọi đàng nói rõ hắc minh.

Điếm đàng chừ biết đành rành,

Thảy đều thích chí toại tình với nhau.

Kẻ thì nói đáng biết bao,

Kẻ thì nói: vậy thật nào có thương.

Còn đang bàn luận mọi đường,

Bỗng nghe tiếng gái má hường kêu la.

Cậu hai nóng dạ thay là,

Chuyện chi chẳng rõ âu ta đến gần.

Nhìn thấy thiên hạ rần rần,

Xúm nhau xem việc trăm phần trái tai.

Một nàng con gái mày ngài,

Đang bị một gã con trai vầy vò.

Thiên hạ chưa rõ nguyên do,

Xúm nhau xem thấy lòng tơ thêm phiền.

Ai đời thân gái thuyền quyên,

Bị tay hung thủ rất nên dữ dằn.

Thiệt là tàn ác vô ngần,

Đánh người thục nữ trăm đàng nguy nan.

Cậu hai bước đến vội vàng,

Rạch người bước tới hỏi nàng thọ nguy.

Nàng đang khóc lóc ai bi,

Nghe cậu hai hỏi xiết chi đau lòng.

Hai hàng nước mắt ròng ròng,

Rằng: tôi oan ức vô cùng thầy ơi.

Cậu hai bèn tỏ tức thời,

Nàng đừng khóc lóc khúc nôi khá bày.

Chuyện chi sanh cái việc này,

Khá tua nói lại ta hay sự tình.

Chuyện chi sanh sự bất bình,

Để người vùi dập thân hình vầy đây.

Nàng kia chưa kịp tỏ bày,

Thì chàng hung nọ châu mày phân qua.

Chuyện này thì mặc người ta,

Mày can chi đó phòng mà dự can.

Dứt lời làm bộ nghinh ngang,

Múa tay làm bộ xem càng đáng khinh.

Điếm đàng chi xiết bất bình,

Muốn vào bẻ họng mới đành dạ riêng.

Nhưng vì tại cậu Hai Miêng,

Ra dấu biểu khá đứng yên để mình.

Cậu hai cũng rất bất bình,

Nhưng cậu vuốt dạ hùng anh hỏi rằng.

Chú đừng ỷ sức dọc ngang,

Chuyện chi còn có phép quan công bình.

Gã kia nghe vậy bất bình,

Phân rằng: Chẳng phải việc mình thì thôi.

Chuyện người thì cứ mặc người,

Cũng không can hệ đến ngươi đâu là.

Hoặc ngươi chưa biết danh ta,

Cho nên bạo dạn mà vào dự can.

Cậu hai tức giận muôn vàn,

Nhưng mà vuốt dạ hỏi chàng thấp cao.

Tôi nay xin lỗi anh hào,

Tánh danh chẳng rõ, ở đâu không tàng.

Xin người vì kẻ qua đàng,

Nói cho tôi biết rõ ràng họ tên.

Người kia càng nổi xung lên,

Rằng: ta Tám Hổ khắp miền kiêng oai.

Ta làm phước nói mi hay,

Thôi thôi ra khỏi nơi này là xong.

Cậu hai nghe hãng đục trong,

Chẳng thèm cùng gã thủy chung chuyện trò.

Ngó qua hỏi gái đào thơ,

Nàng tua phân hết lai do ta tàng.

Chuyện chi la xóm la làng,

Bị người đánh đập giữa đàng vầy đây.

Nàng kia lời mới giãi bày,

Tôi là gái ở mé ngoài làng trên.

Nhơn tôi ra chợ đổi tiền,

Chàng này chọc ghẹo rất nên thẹn thùa.

Tôi muốn cho hắn phải chừa,

Cho nên phải quấy hơn thua giãi bày.

Chẳng dè mặt dạn mày dày,

Theo ghẹo mỗi ngày nói việc ong hoa.

Tôi đây xấu hổ thay là,

Mắng chàng mấy tiếng kẻo mà chẳng kiêng.

Chẳng dè hắn xáp đến liền,

Đánh tôi tàn ác rất nên dữ dằn.

Thật là oan ức vô ngần,

Tôi đây kinh sợ la làng cứu tôi.

Chẳng ngờ việc cũng lạ đời,

Hương tuần nghe chạy đến nơi vội vàng.

Hương tuần quen lớn cùng chàng,

Chửi tôi thậm tệ hổ hang vô cùng.

Cậu hai nghe rõ đục trong,

Bèn hỏi Tám Hổ thủy chung sự tình.

Rằng mình là bực hùng anh,

Đánh chi phận gái bố kình ngây thơ.

Tám Hổ nghe nói nguyên do,

Thẹn thùa trong dạ đỏ lơ mặt mày.

Phân rằng: Tao đã biểu mày,

Muốn an thân phận chốn này phải xa.

Chuyện ta thì để mặc ta,

Chẳng chi phòng có dò la sự tình.

Cậu hai chi xiết bất bình,

Dằn lòng khuyên giải hắc minh mọi đàng.

Rằng nên tha thứ hồng nhan,

Đánh nàng dầu thắng nào chàng danh chi.

Cho tôi xin thứ nữ nhi,

Xin người tua khá xét suy cho tàng.

Tám Hổ đặng nước nạt vang,

Đừng xin vô ích muốn an đi liền.

Dầu cho có cậu Hai Miêng,

Đến đây ta cũng chẳng kiêng lựa mày.

Cậu hai nghe nói cười dài,

Điếm đàng đứng ngoài đều cũng cười vang.

Vốn gã chưa thấu mọi đàng,

Lầm người không biết lại càng hành hung.

Tám Hổ chẳng rõ đục trong,

Nghe người cười rộ vô cùng hổ hang.

Tức mình chàng mới nạt vang,

Chuyện chi cười rộ một đoàn đáng khinh.

Cậu hai lời nói trần tình,

Nghe người ỷ thị tài mình cười chơi.

Hai Miêng sức há thua ngươi,

Mà ngươi rằng dẫu có người chẳng kiêng.

Ngươi có biết mặt Hai Miêng,

Hay là chỉ có biết tên của người.

Tám Hổ nghe nói mấy lời,

Đáp rằng: Bây chớ lắm lời hỏi ta.

Tưởng ai thì lạ thì xa,

Hai Miêng Tám Hổ vốn là đệ huynh.

Ta đây là bực anh hùng,

Hai Miêng còn phải kiêng danh tựa là.

Thôi thôi chớ nói gần xa,

Muố an thì khá tránh xa chỗ này.

Cậu hai lại mới giãi bày,

Hai Miêng lát nữa đến đây thăm người.

Tám Hổ nghe rõ khúc nôi,

Đáp rằng: Nếu vậy vô hồi là may.

Hai Miêng nếu nó đến đây,

Ta biểu nó đánh chúng bây cho tường.

Chó tao là bực hùng cường,

Gẫm không đáng kẻ đối đương đua tài.

Cậu hai nghe vậy cười dài,

Tám Hổ thấy vậy thị oai phân liền.

Chúng bây nếu sợ Hai Miêng,

Thì tao bây phải nể kiêng kính vì.

Hai Miêng em của ta đây,

Ta dạy võ nghệ bấy chầy nào ai.

Bây giờ nó đặng thành tài,

Nhờ tao đào tạo công rày mười năm.

Cậu hai chừ khó nổi dằn,

Thật là căm tức vô ngằn dạ riêng.

Cậu nạt một tiếng vang rền,

Thằng này quả thật đồ điên đây rồi.

Sao mày dám dễ khinh người,

Hai Miêng chẳng có học tài với ai.

Nói cho mày biết tao đây,

Hai Miêng là mổ sao mày dám khinh.

Thật mày nói xấu ô danh,

Ta thề quyết chẳng thứ tình mày đâu.

Nói rồi nhảy đến đánh nhầu,

Làm cho Tám Hổ khác nào tỉnh say.

Thiên hạ bâu đến đông đầy,

Đều cười Tám Hổ phen này tởn kinh.

Cái đời đã gặp hùng anh,

Mà không biết mặt bôi danh của người.

Tám Hổ nói lỡ mấy lời,

Bây giờ thẹn nhục vô hồi dạ riêng.

Thầm rằng: đã gặp Hai Miêng,

Mà mình không rõ bôi tên của người.

Nhưng mà đã nói lỡ rồi,

Dầu chết thì cũng đua tài thấp cao.

Cậu hai tức giận biết bao,

Bèn đá Tám Hổ dễ nào thứ dung.

Tám Hổ cũng bực anh hùng,

Né tránh rất lẹ nếu không rồi đời.

Hai Miêng ráng hết sức tài,

Đánh miếng tiền tấn phải ai mất hồn.

Tám Hổ anh chị du côn,

Cho nên cũng học côn quờn nhiều thay.

Lẹ mắt thấy đánh miếng này,

Chàng bèn tạ xuống sang ngay lẹ làng.

Cậu hai tấn tới lẹ làng,

Tức thì như chớp đá ngang hết mình.

Tám Hổ thất vía hồn kinh,

Miếng này nguy hiểm chẳng lành chi đâu.

Túng cùng không biết làm sao,

Tám Hổ nhập nội a vào cậu hai.

Nhập nội thế nó cũng hay,

Nếu người nào khác té ngay sai nào.

Cậu hai là bực anh hào,

Túng thì quyền biến dễ nào thua ai.

Tám Hổ nhập nội ghê thay,

Cậu hai ngồi xuống chống tay vững vàng.

Tám Hổ thấy vậy nào tàng,

Tưởng cậu hai té vội vàng dậm lên.

Cậu hai lật úp mình liền,

Tám Hổ đạp trật một bên kinh hoàng.

Đạp trật chúi nhủi té ngang,

Cậu hai đứng dậy lẹ làng lui ra.

Tám Hổ may mắn thay là,

Chúi nhủi gượng đặng nhảy qua thủ liền.

Hai bên võ nghệ vẹn tuyền,

Đánh mấy mươi hiệp rất nên dữ dằn.

Cậu hai trong dạ nghĩ rằng,

Thằng này cũng giỏi vô ngần tài ba.

Nhưng nó đã gặp tay ta,

Nếu trừ không đặng ai mà kiêng đây.

Nếu mình cứ đánh như vầy,

Thì chắc cả ngày hạ chẳng đặng đâu.

Vì nó võ nghệ cũng cao,

Lại thêm mạnh mẽ khác nào là voi.

Chi bằng ta ráng hết tài,

Đánh miếng thiệt độc hạ người mới xong.

Hai bên đều bực anh hùng,

Cho nên thủ thế vô cùng kín hay.

Cậu hai sẻ thẳng hai tay,

Phụng hoàng chiếc nhỉ miếng này hiểm nguy.

Rùng mình sụng xuống tức thì,

Làm cho Tám Hổ nan tri miếng gì.

Nhưng chàng bước đến tức thì,

Thấy cậu thủ trọng dễ khi đá nhầu.

Cậu bè lách lại rất mau,

Hạ tay vói nắm mé sau ót chàng.

Cái miếng quái lạ trăm đàng,

Tám Hổ ngồi xuống lẹ làng lắm thay.

Nhưng cái miếng thần cậu hai,

Mười người như một chẳng ai vẫy vùng.

Tám Hổ ngồi xuống vừa xong,

Cậu hai thừa thế liền bồng hỏng lên.

Thật là cái miếng diệu huyền,

Bồng lên nhẹ hỏng cậu liền liệng xa.

Tám Hổ kinh sợ thay là,

Bị liệng té sấp cách xa vô cùng.

Cậu hai nhảy đạp trên lưng,

Tám Hổ hết thế vẫy vùng kêu la.

Rằng: xin hào kiệt thứ tha,

Tôi đà kính phục đến già không sai.

Anh hùng làm phước nới tay,

Tha tôi còn sống ơn rày ghi xương.

Cậu hai lời mới bày tường,

Ta muốn đưa xuống diêm vương cho rồi.

Nhưng ta thấy cũng có lời,

Thứ dung cho đặng toàn đời từ đây.

Ta nói cho đó rõ hay,

Hai Miêng là mỗ mặt mày biết chưa.

Tám Hổ nghe vậy liền thưa,

Vốn trước không rõ hơn thua nên lầm.

Ngày nay đã thấu mọi phần,

Thật tôi khắc cốt ghi tâm từ rày.

Cậu hai thấy vậy tha ngay,

Tám Hổ ngồi dậy mặt mày sượng trân.

Lại thêm thiên hạ cười rần,

Cậu hai vội vã dời chân đi liền.

Tám Hổ thẹn nhục dạ riêng,

Vô cùng phục cậu Hai Miêng từ rầy.

Cậu hai kiếm chốn giải khuây,

Nhưng bị chuyện này trời đã tối đen.

Điếm đàng ý muốn kiếm tiền,

Liền thưa cùng cậu Hai Miêng lời này.

Chúng tôi có một việc hay,

Xin thưa cùng cậu vắn dài tường tri.

Dưới ghe cờ bạc thiếu gì,

Chúng mình xuống đó thừa khi kiếm tiền.

Cậu hai nghe rõ sạ duyên,

Vốn không túng thiếu bạc tiền như ai.

Nhưng cậu ý muốn giải khuây,

Ham vui tánh ý thuở nay quen rồi.

Cho nên nghe nói mấy lời,

Cậu hai đành dạ thức thời đồng đi.

Bến sông thẳng đến tức thì,

Xuống ghe xem thử chơi chi cho tàng.

Ghe thầy Cai Tổng đâu ngang,

Điếm đàng chẳng rõ bước càng mà đi.

Thầy cai nằm hút đang khi,

Ghe nghiêng mâm hút tức thì đổ văng.

Chụp đèn bể nát trong khoang,

Thầy Cai tức giận vội vàng bước ra.

Thấy người đang lúc bước qua,

Thầy Cai thêm giận hét la vang vầy.

Cả gan thay cái lũ bây,

Có biết ghe này ghe của ai chăng.

Thầy Cai lại chửi mần răng,

Một bầy chó đói vô ngần dọc ngang.

Ai đời đã thấy ghe quan,

Lại còn dám bước đi càng không kiêng.

Bầy mọi làm chiếc ghe nghiêng,

Mau mau đền lại mâm đèn cho ta.

Bằng không bây phải bán nhà,

Chạy tiền cho đủ kẻo ta bỏ tù.

Điếm đàng bị mắng một hơi,

Có người say rượu tức thời trần phân.

Chẳng biết ghe quan ghe dân,

Chúng ta cứ việc tiện chân đi càng.

Thầy Cai nghe nói dọc ngang,

Tràn hông nư giận hét vang đánh liền.

Một mình mà đánh sáu tên,

Điếm đàng cũng chẳng phải hiền chi đâu.

Chúng nó hiệp sức cùng nhau,

Xốc đến đánh nhầu lại với thầy Cai.

Cậu hai đứng đó thị oai,

Đứng xem cho biết sức tài hai bên.

Thầy Cai võ nghệ vẹn tuyền,

Đánh bọn đàng điếm rất nên kinh hoàng.

Ai đời hết thảy sáu chàng,

Mà đánh chẳng xể té càng ngả nghiêng.

Thầy Cai đánh dưới trở lên,

Tràng qua né lại rất nên lẹ làng.

Một mình đánh ước sáu chàng,

Sức thầy dư sức rõ ràng hùng anh.

Nửa giờ nỗ lực chống kình,

Điếm đàng bị đá trầm mình dưới sông.

Sáu người thì cũng như không,

Kẻ thì xể mặt máu hồng tuôn sa.

Kẻ thì lọi cẳng kêu la,

Kẻ thì xể trán rất là kinh mang.

Thầy Cai đánh đẹp đã an,

Trông thấy một kẻ đứng đang chiếm cười.

Thầy Cai ỷ sức ỷ tời,

Thầy mới bày lời phân hỏi thấp cao.

Bọn này chồn cáo khác nào,

Còn ai đúng bực anh hào vô đây.

Cậu hai nghe nói giận thay,

Tức thì nhảy đá thầy Cai lẹ làng.

Thầy Cai thất vía sảng hoàng,

Bởi thấy miếng đá gọn gàng vô song.

Cậu hai ra sức anh hùng,

Đánh cùng Cai tổng quyết không chịu nhường.

Hai người nỗ lực đấu đương,

Hai bên đều bực hùng cường xứng tay.

Thầy Cai thua sức cậu hai,

Trong lòng khiếp sợ ráng tài đua tranh.

Cậu hai đánh rất lẹ lanh,

Thầy Cai chóa mắt chóng kình sao qua.

Cậu hai liền thối bước ra,

Thầy Cai thấy vậy tưởng là cậu thua.

Tức thì nhảy đến đánh đùa,

Cậu hai đắc chí bèn thừa dịp ni.

Cậu bèn lách trái lánh nguy,

Đoạn liền đá tới tức thì quá lanh.

Thầy Cai bởi chẳng giữ mình,

Bị đá thình lình văng tút vào khoang.

Cậu hai nhảy tới lẹ làng,

Đạp thầy Cai tổng chận ngang ba sườn.

Cậu rằng: đừng ỷ oai cường,

Ta đưa nó xuống diêm vương bây giờ.

Thầy Cai thất thế sa cơ,

Thật là xấu hổ thẹn nhơ vô cùng.

Nhưng mà hết thế vẫy vùng,

Dám đâu cứng cổ mà không kêu cầu.

Rằng: Xin rộng lượng anh hào,

Tha cho khỏi thác dám nào quên ơn.

Cậu hai cũng muốn làm nhơn,

Tha thầy Cai tổng khỏi cơn nguy nàn.

Thầy Cai kính phục trăm đàng,

Tức thì xin lỗi hỏi han sự tình.

Rằng: Tôi rất phục hùng anh,

Xin cho tôi biết quí danh ghi lòng.

Đáp rằng hễ đứng bá tòng,

Tánh danh há giấu mà không giãi bày.

Hai Miêng vốn thật tôi đây,

Con quan lớn Tấn xứ này nào ai.

Nghe qua Cai Tổng vui thay,

Phân rằng: Nếu vậy tôi đây đã lầm.

Tưởng ai chẳng rõ mọi phần,

Bây giờ biết đặng vui mừng biết bao.

Quan lớn chẳng lạ tôi đâu,

Vốn là thân thích với nhau vô cùng.

Còn cậu tôi thật chẳng thông,

Nhưng nghe danh tiếng anh hùng lâu nay.

Chẳng dè gặp gỡ như vầy,

Tôi lầm xin cậu thương đây thứ tình.

Cậu hai nghe hãng hắc minh,

Nếu vậy tôi cũng bất bình lỗi thay.

Vì chơn không biết mặt thầy,

Cho nên xúc phạm như vầy xin dung.

Cả hai đều thảy vui mừng,

Thật là hào kiệt anh hùng đoàn viên.

Thầy Cai với cậu Hai Miêng,

Cùng nhau trò chuyện rất nên hiệp hòa.

Hết gần rồi đến chuyện xa,

Cùng nhau uống nước rất là thỏa tâm.

Cậu hai thỏa chí trăm phần,

Thầy Cai chẳng biết mấy lần tặng khen.

Đến đây dứt chuyện Hai Miêng,

Xin dưng lục vị giải phiền canh thâu.

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com