Mô rú mô ri mô nỏ chộ
Mô rào mô bể chộ mô mô
Có ai hiểu gì không? Không phải câu hỏi vu vơ. Đề thi môn Ngữ Văn 7, thuộc kỳ thi khảo sát chất lượng học kỳ II năm học 2014 - 2015, Phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Lộc Hà (Hà Tĩnh) yêu cầu các em “dịch hai câu thơ sau bằng tiếng địa phương sang tiếng phổ thông”. Nhiều em than trời, không hiểu nổi, hoặc chỉ có thể hiểu lơ mơ. Chiều 12.5.2015, trao đổi với báo chí, thầy Phan Thanh Dân - Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Lộc Hà cho biết đây là câu hỏi 1 điểm nhằm kiểm tra văn hóa địa phương. Theo ông, hai câu thơ trên viết đúng theo tiếng phổ thông như sau:
Đâu núi đâu non đâu chẳng thấy
Đâu sông đâu biển thấy đâu nào”.
Trước đây, ông Trần Hữu Thung và Thái Kim Đỉnh có biên soạn quyển Từ điển tiếng Nghệ (NXB Nghệ An - 1998). Đọc loáng thoáng thấy rằng, từ ngữ xứ Nghệ có dạng biến âm như tru - trâu; cơn - cây; đấy - đái; gây-gai; lông - trồng; hoặc khác âm như cươi - sân, rào - sông; rèo bò - chăn bò; bắc mộng -gieo hạt… Theo ông Bùi Minh Đức, trong quyển Từ điển tiếng Huế (NXB Văn Học - 2004) cho biết, xứ Huế cũng có những biến âm như NH thành D (Nói dỏ dỏ: nói nhỏ nhỏ, dịch ra: nhích ra); O thành U (giống: dúng); ẶC thành ƯỢC: (mược sức: mặc sức); ẦU thành ÙI (đấu gúi: đùi gúi)…; hoặc dấu NGÃ thành dấu NẶNG (giữa ruộng lúa: giựa ruộng lúa) v.v… Quảng Nam cũng vậy thôi. Khi viết chuyên luận Người Quảng Nam, y đã phân tích kỹ. Chẳng hạn, âm OAI thành UA (nhớ hoài: nhớ hùa); OI thành UA (nói năng: núa neng); ĂN thành EN (muối mặn: muối mẹn), ẮT thành ÉC (tắt đèn: téc đèn. Có trường hợp “ngoại lệ” như xa lắc: xa léc - xa quéc); AM thành ÔM (làm: lồm) v.v… Hầu như vùng miền nào cũng có những biến âm tương tự. Vì thế, thổ âm, thổ ngữ của mỗi vùng miền đều mang nhiều sắc thái khác nhau. Dù sinh ra ở địa phương đó, có những lúc nghe cũng ngắc ngứ, không hiểu chứ đừng nói người nơi khác. Ca dao xứ Nghệ có câu:
Ai về làng Vọt mà coi
Tháng hai đã phải cạp cồi ló ngô
“Cạp” là ăn, ăn theo nghĩa “ngoạp, ngoạm”, “cồi” là cùi, “ló” là lúa.
Em về chợ Mọ mần chi
Đồng tiền thì ít rú ri tứ bề
“Rứ ri” là núi. Đọc Từ điển tiếng Nghệ, y chọn lọc một vài câu tục ngữ đậm đặc sắc thái xứ Nghệ vì nghĩ rằng, có thể giúp ích cho nhiều người khi nghe, khi tiếp cận một văn bản nào đó. Chiều nay, y đọc cà giựt. Đọc ngẫu hứng. Đọc loáng thoáng. Đọc nhảy cóc cũng có cái thú của nó. Lúc nào rãnh rỗi lại đọc tiếp. Chẳng vội vàng gì. Do đó, y rất ghét vào thư viện mượn sách. Mất thời gian chờ đợi. Phải đọc tại chỗ. Ngồi ngay ngắn. Cấm ngáp vặt. Đang đọc cao hứng phải trả sách, vì hết giờ. Chi bằng ra tiệm sách, thấy thích thì mua, dù chưa cần đến. Lúc cần, có sách đọc ngay. Chiều nay cần, vớ tay là có sách.
Lật hú họa vài trang, chẳng hạn, Sớn sác như ác vô đó (ác: chỉ loài chim, chim ác là; đó: lờ); Ăn một mánh, canh cánh suốt đời (mánh: miếng); Ăn tham lở mép, ăn tép lở mui, ăn nùi lở lãi (mui: môi; lãi: lưỡi); Tự mình tìn lấy sức mình/ Đừng như tầm gửi bá ngành cây dâu (bá: bám, víu); Đan bả thả diều (bả: dây gai đan lưới); Đen đen là nác, bạc bạc là khô (nác: nước, bạc bạc: trắng ít, trắng lờ lờ); Mạnh vì gạo, bạo vì tiền (bạo: khỏe); Bể bát tát rọt (tát: rát, rọt: ruột); Rối như mớ bòng bong (bòng bong: một loại dây leo); Bống bống bang bang/ Con đi lấy sàng cho mẹ đổ khoai/ Con ăn một thì mẹ ăn hai/ Con đi bốc mói thì mẹ nhai hết rồi (mói: muối); Cây bù lu, lá cũng bù lu/ Em về Hiến Tạng ăn bù nứt nang (bù lu: tên gọi một loại cây, bù: bầu, nang: bụng); Thiếp xa chàng, hái dâu quên giỏ/ Chàng xa thiếp, bứt cỏ quên liềm (bứt: cắt) v.v…
Thử đọc bài vè Ông Cửu Trường nói láp (nói láp: nói trạng, nói bịa, nói khoác): “Được một ổ gà ri/ Đựng đầy hai sảo trấng/ Nói có sách, mách có chứng/ Không tin đến nhà mà coi/ Nuôi một ổ ong ròi/ Đựng đầy hai chum mật/ Gánh một gánh đất/ Vắt ba trăm cái nồi/ Đập một con đồi/ Bưng được mười hai cái trống/ Đan một cái nống/ Hết mười cơn pheo”. Có ai hiểu rõ không? Hai ông Trần Hữu Thung, Thái Kim Đỉnh giải thích, chẳng hạn, sảo trấng: rổ trứng, ong ròi: ong ruồi, con đồi (con sóc) nống (nong) cơn (cây) pheo (tre). Vài từ khác không thấy giải thích như đập trong ngữ cảnh này, có thể hiểu đánh đập, làm thịt; bưng là “bưng bít” chăng? Rõ ràng bưng này hoàn toàn khác với: "Tưởng rằng chị ngã em nưng/ Ai hay chị ngã em bưng miệng cười".
Sực nhớ câu thơ Huy Cận: “Nắng chia nửa bãi chiều rồi/ Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu”; ca dao Xứ Nghệ: “Nắng soi nửa bãi chiều rồi/ Sao em không liệu còn ngồi chi đây?”. Rõ ràng nhà thơ đã học từ ca dao và nâng cao một bước thẩm mỹ trong nghệ thuật tu từ. Tình yêu dành cho tiếng Việt, mỗi người có cách thể hiện khác nhau. Khâm phục tác giả Từ điển tiếng Nghệ, phải yêu lấy nơi chôn nhau cắt rốn, con người ta mới nhọc công như thế. Còn có thể kể đến ông Bùi Minh Đức với Từ điển tiếng Huế, Từ điển từ ngữ Nam bộ của Huỳnh Công Tín, Tự vị tiếng nói miền Nam của Vương Hồng Sển…. Cần kể thêm nhiều quyển từ điển của các vùng miền khác nữa. Có như thế, sau này, mới có thể hình thành một Từ điển Việt Nam. Nhận xét rằng, khi đọc các từ địa phương cũng là lúc được tiếp cận với từ cổ trong tiếng Việt. Đọc Hoa Tiên:
Tiện đây một vách liền kề
Mở lần cửa khém đi về cũng nên
Do không hiểu “cửa khém” nên nhiều văn bản ghi thành “cửa khép”. Vậy “khém” là gì? Tự điển của Huình Tịnh Paulus Của giải thích “cửa khém: cửa nhỏ hai bên ở phía trong nhà; ngoài khém: ngoài lạch; trong khém: trong lạch, trong chỗ chẹt”.
Áo anh ai cắt ai may
Đường tà ai đột, cửa tay ai viền?
“Đột”, người Xứ Nghệ dùng để chỉ “khâu vá vội, đường chỉ thô” (SĐD, tr.95). Còn có thể trích dẫn thêm. Biết đâu, về sau có người sẽ làm công trình có tính cách tiên phong như “Tìm hiểu tiếng Việt cổ qua từ ngữ địa phương”. Được vậy, tốt quá. Nói thế thôi, tầm cỡ công trình này phải là tập thể của Viện Ngôn ngữ học cấp quốc gia. Nhưng trước hết, phải có nhiều, cần nhiều người thật lòng yêu tiếng mẹ đẻ chung sức. Cần thiết lắm, nếu không có công trình đó không khéo thế hệ hiện nay và mai sau khi tiếp cận di sản văn hóa cha ông, khó có thể hiểu rõ hết nội dung...
Ơ hay, tự dưng nổi hứng gì mà hôm nay lại có những ghi chú về tiếng Việt? Không quan tâm gì đến thời sự nữa sao? Thưa, không phải. Còn nhớ thời gian gần đây, báo Thanh Niên đã có loạt bài phê phán sự việc lấp sông Đồng Nai. Ông Võ Tuấn Nhân - Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học công nghệ và môi trường của Quốc hội cho biết, sau khi đi khảo sát hiện trường, làm việc với UBND tỉnh, đã báo cáo về hai vấn đề pháp lý và cơ sở khoa học của dự án này với lãnh đạo Quốc hội. Bên cạnh đó, các nhà khoa học cũng đã nêu lên những bất cập, sai về bản chất của việc lấp sông Đồng Nai và yêu cầu chủ đầu tư phải hủy bỏ dự án ngay lập tức.
Trước một sự việc có sự đồng tình của dư luận, nếu muốn tranh luận ắt phải trưng ra các tài liệu, các chứng cứ khoa học chứ không thể cãi bừa, cãi dóng. … Sáng nay, báo NLĐ cho biết GS-TS Nguyễn Văn Phước - Viện trưởng Viện Môi trường và Tài nguyên TP.HCM, đơn vị thực hiện đánh giá tác động môi trường của dự án đã tranh luận lại. Tranh luận thế nào? Xin trích nguyên văn câu nói của ông ta: "Dư luận là ai? Toàn mấy kẻ phá hoại thôi!". Tưởng phọt ra từ mồm kẻ hàng tôm hàng cá, đá cá lăn dưa. Cái loại trí thức gì kỳ cục trời? Trí thức là phản biện, là tranh luận có văn hóa, là khiêm tốn học hỏi chứ làm gì có loại chửi đổng?
Vậy thì, bàn chuyện nhố nhăng từ một câu nói của một quan chức trong trường hợp này có đáng không? Quyết là không. Do đó, ngày hôm nay nằm khèo đọc sách cho nhẹ đầu. Chẳng việc gì phải chuốc lấy sự bực mình từ câu nói rất “trí thức” kia. Nếu ngày nào cũng bận tâm từ phát ngôn của những loại “trí thức” ấy, làm sao có thể vui sống?
Vậy thì, kể chuyện này vui hơn:
Ngày 12.5.2015, Bộ trường Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã báo cáo kết quá lấy ý kiến dân dân về việc góp ý dự thảo Bộ Luật dân sự (sửa đổi), trong đó đáng chú ý là ý kiến đề xuất họ, tên và chữ đệm của công dân Việt Nam không được vượt quá 25 chữ cái. Hiện nay, “kỷ lục” người có tên dài và độc đáo nhất Việt Nam thuộc về ba người con của ông Lê Văn Bốn và bà Nguyễn Thị Tư (ngụ xã Phước Kiểng, huyện Nhà Bè, TP.HCM): Lê Hiếu Nghĩa Đệ Nhất Thương Tâm Nhàn, Lê Hiếu Nghĩa Đệ Nhất Thương Linh Phượng và con trai út “Lê Hoàng Hiếu Nghĩa Đệ Nhất Thương Tâm Nhân. Nhân đây xin hỏi, từ cái tên của ông bà Lê Văn Bốn-Nguyễn Thị Tư, thử đặt câu hỏi lúc nào sử dụng "bốn", lúc nào sử dụng "tư"? Trước đây, có một người tên "Tư Bốn" rất nổi tiếng trong chuyên án chống tội phạm Nam Cam!
Vậy thì, liệt kê số liệu này vui hơn:
Ngày 13.5.2015, Hội Nhà báo Việt Nam phối hợp với Viện KAS (Đức) tại Việt Nam tổ chức hội thảo nhằm thảo luận về việc khai thác thế mạnh cũng như hạn chế mặt tiêu cực của sự tương tác giữa báo chí và mạng xã hội. Theo số liệu do Công ty We Are Social có trụ sở ở Anh công bố vào tháng 1-2015, Việt Nam có dân số khoảng 90,7 triệu người, trong đó có 39,8 triệu người sử dụng Internet, 28 triệu người thiết lập tài khoản mạng xã hội. Trung bình người Việt Nam tiêu tốn 3 giờ 4 phút mỗi ngày trên mạng xã hội. Theo công bố của Facebook, có 19,6 triệu tài khoản Facebook ở Việt Nam, chiếm 74,1 lượng người dùng Internet.
Vậy thì, “tự sướng” này vui hơn:
Y là một trong 19,6 triệu tài khoản Facebook ở Việt Nam.
Há chẳng vui sao?
L.M.Q
< Lùi | Tiếp theo > |
---|