Lại một ngày. Ngày thứ sáu trong trong tuần. Từ rạng sáng, tiếng kinh cầu từ chùa vọng sang. Nhịp nhàng. Du dương. Trầm buồn. Ngày mới. Mới của một giây phút mở mắt ngồi vào bàn làm việc. Mới của cảm hứng khỏe khoắn. Thèm viết. Từng giọt cà phê chậm rãi nhỏ xuống ly. Từng giọt. Từng giọt hiền lành. Không âm mưu tạo nên những cảm xúc ảo tưởng điên cuồng như rượu. Tự nhiên, lại nhớ đến vài người bạn. Đã khuất. Nói như Đoàn Tuấn, “Những người không gặp nữa”. Có lẽ do âm điệu nhịp nhàng, lê thê của tiếng kinh cầu chăng?
Chợt nhiên nhớ đến Võ Phi Hùng, nhà văn của bụi đời vỉa hè. Đơn Phương, thi sĩ của trại phong Bến Sắn. Nghĩ đến một người, luôn nhớ đến nụ cười của họ. Hầu như những ai hiền hậu, lương thiện đều có nụ cười giống nhau. Tự tin và sảng khoái.
Những năm tháng cuối đời, sáng nào cũng thấy Võ Phi Hùng ngồi viết tại quán cà phê vỉa hè gần đường rầy xe lửa. Gần trước hẻm nhà y. Bất chấp âm thanh đường phố, tiếng rao mời vé số, tiếng chửi rủa tục tằn… anh vẫn cắm cúi viết. Đang sống trong một cõi khác. Những lúc ấy, anh như cậu học trò chăm chỉ, viết bằng bút bi nắn nót từng dòng trên giấy A4. Viết xong, anh đọc lại và sửa trực tiếp lên đó; ưng ý rồi anh mới chép sang một trang giấy khác, xem như hoàn chỉnh.
Có lần anh bảo: “Tôi có thói quen ngồi viết tại những quán cóc vỉa hè. Tôi chỉ có thể viết được khi nhìn người đi qua đi lại, nghe tiếng xe cộ ồn ào, tiếng rao hàng, hít thở và đắm mình vào nhịp sống của nhân gian… Nếu đóng cửa ở nhà, ngồi vào bàn viết nghiêm chỉnh, nhìn vào bức tường lạnh ngắt trước mặt thì tôi chỉ có nước đi ngủ chứ không cách nào viết được! Tôi chỉ viết tay chứ không thể viết được bằng máy vi tính; những con chữ gõ từ máy tính sao mà vô hồn, không cá tính, không cảm xúc, làm tôi mất hứng…”.
Mỗi người có một cách viết. Chẳng ai giống ai. Nhìn thi sĩ Đơn Phương viết mới khó khăn làm sao. Những ngón tay của anh đã rụng gần hết. Mỗi lần sáng tác thơ, anh phải dùng răng siết sợi dây để cột chặt cây bút bi vào bàn tay co quặt. Và viết. Thơ anh mang âm điệu, ngôn từ của Hàn Mặc Tử. Anh đã viết tiếp kịch bản Quần tiên hội của Hàn Mặc Tử. Làm nhiều thơ. Thơ hay và nhiều tâm sự bi thiết của một kiếp đời đã gánh quá nhiều tai ương. Lần lên Bến Sắn cùng VTV làm bộ phim về anh. Anh nói: "“Số phận người bệnh phong như chúng tôi là những người tù không bản án, vì phải sống hết đời trong sự cách biệt với thế giới bên ngoài. Thời trẻ, đã có lần vì đớn đau, vì tuyệt vọng tôi đã dại dột tự tử, may mà các soeur cứu được. Nhờ có thơ mà tôi sống được đến hôm nay. Bao nhiêu nỗi niềm của tôi đều trút cả vào thơ”.
Số phận của họ lạ lùng. Cả hai lọt lòng mẹ, đã là đứa trẻ mồ côi trong cô nhi viện. Sống cù bơ cù bất ngoài vỉa hè. Nghèo mà có tư cách. Kiếm sống lương thiện và đã làm được bao điều có ích cho cộng đồng. Chỉ cần nghĩ thế, đã là quý. Đã có thể chơi với nhau được rồi.
Những ngày cuối đời, Võ Phi Hùng tâm sự chua chát: “Tôi đã không ngừng tìm mẹ từ thuở còn ấu thơ cho đến lúc tóc trên đầu đã bạc, nhưng vô vọng! Năm nay tôi đã 62 tuổi. Cách đây hơn một năm, tôi đã ngưng việc tìm kiếm mẹ, vì thấy không còn hy vọng, vì nghĩ có lẽ mẹ tôi đã không còn sống trên cõi đời này. Thôi thì đành tự an ủi mình: cuộc đời có những bí mật không thể giải được và ta đành phải chấp nhận. Có những điều ngang trái mà mình phải chấp nhận, dù đã cố gắng hết sức”.
Mỗi con người đã là một số phận. Nó đã được lập trình rồi chăng? Nghĩ thế, vậy hóa ra, với cái tử vi ấy, cung mạng ấy thì người ấy phải như thế ấy? Nghe vô lý quá chăng? Có tin được không?
Đêm qua uống say. Vài người bạn rủ đi “hát với nhau” ở phòng trà ca sĩ Cẩm Vân. Từ chối, về online với nàng. Vui hơn. Đêm nằm ngủ chập chờn men say bềnh bồng phiêu đãng vào không gian của từng giai điệu. Âm nhạc. Nghe và thiếp đi. Trước lúc thiếp trong mộng mị mơ màng của trí óc nhẹ tênh, y nghĩ những gì?
Nghĩ rằng.
Khi nhạc sĩ T.C.S viết: “Con tinh yêu thương chưa từng hội ngộ”, hầu hết các ca sĩ đều hát “con tim”. Hát như thế là không hiểu gì về “lời ăn tiếng nói” đặc trưng của người Huế. Khi họ gọi cô gái ấy là “con tinh” hoặc “con yêu”, tức mang ý nghĩa chỉ một người nữ lém lĩnh, ranh mãnh, nghịch ngợm như loài “ma quái yêu tinh” nhưng cũng vừa thuần hậu, e ấp, mặn mà… Nhà văn Trần Kiêm Đoàn có tác phẩm Con yêu bánh nậm là cũng nằm trong ý nghĩa đó. “Gọi buốt trăm trăm”, có người lại hát “Gọi suốt trăm năm”, không cần phân tích dài dòng, đã thấy sự tầm thường của từ “suốt”, nó hoàn toàn không gợi lại sự lẻ loi, đớn đau cô độc của một tâm hồn “nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”.
Chữ trong thơ. Chữ trong nhạc. Cả thẩy đều phải chắt lọc. Tìm lấy từ đắc giá nhất. Thơ, đọc thoáng qua, không kịp cảm nhận. Đã khép bài thơ lại. Đã quên. Nhạc lại khác. Nghe đi nghe lại nhiều lần. Có quên, nghe lại nhiều lần sẽ nhớ. Dần dần sẽ phát hiện ra cái hay của chữ đó. “Đất mẹ đầy cỏ úa”, nhạc Nguyễn Hiền phổ thơ Kim Tuấn. Nghe kỹ, đọc kỹ sẽ thấy nó tầm thường. Ông bạn hiền hậu Kim Tuấn viết thế này: “Đất mẹ gầy cỏ lúa”. Nghe rờn rợn một nỗi niềm nhớ về quê mẹ. Ngay cả cỏ úa cũng gầy guộc. Có thế, mới có thể hình dung ra hết cái sự nghèo nàn ở quê mẹ, mới thấy hiện ra không khí chiến tranh bi thảm của một thời…
Y từng nghe đi nghe lại Vũng lầy của chúng ta của nhạc sĩ Lê Uyên Phương, bởi thích câu: “Cho nhau chất ngất thơ ngây”. Nghe nhiều lần nên ngày nọ phát hiện ra sao câu ấy tầm thường đến vậy? Bèn tra lại ở tuyển tập nhạc Khi loài thú xa nhau, nguyên văn: “Cho nhau chắt hết thơ ngây”. “Chắt”, gợi lên sự trao thân đầm đìa dục tính. Tràn trề cảm hứng. Cho nhau một lần. Và cho tất cả. Trọn vẹn hân hoan. Dâng hiến tột cùng.
Hiểu một câu thơ, một ca từ không dễ. Trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 12 (tập 1) có bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu. Câu thơ:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
được giải thích: “Phách: một loại cây thân gỗ, nở hoa vàng vào mùa hè”. Do cây phách không mọc ở vùng xuôi nên các nhà biên soạn sách giáo khoa đã giải thích không đúng. Theo nhà văn Tô Hoài - người đã viết nhiều sách về vùng Tây Bắc - trong một bút ký ông miêu tả: “Hoa phách tím nhạt lốm đốm lưng núi, như rừng Việt Bắc. Hoa phách nở, mùa tra đậu nương”. Ngay cả nhà thơ Tố Hữu trong hồi ký Nhớ lại một thời, ông cũng viết: “Phách là loại cây gỗ cao, cuối hè đầu thu thì lá vàng rực lên”. Như vậy, hoa phách màu tím chứ không màu vàng như sách giáo khoa đã giải thích. Câu thơ “Ve kêu rừng phách đổ vàng”, phải hiểu lúc ấy lá của cây phách đổ xuống màu vàng, chứ không liên quan gì đến sắc hoa của nó cả.
Những cái sai sót linh tinh này, còn nhiều. Mà thôi, cũng chẳng sao, cứ viết thế, người này cứ hiểu thế, người khác cứ hiểu thế. Cũng chẳng sao. Trên hành trình mưu sinh vẫn còn nhiều chuyện còn đáng quan tâm hơn nhiều. Nghĩ thế để thấy mỗi một ngày được nhìn thấy cuộc đời này, đã là một hạnh phúc, một may mắn rồi. Sống nhẹ nhàng, buông xuôi, bằng lòng và tận hưởng lấy giây phút của hiện tại.
Vậy là đủ. Phải không?
L.M.Q
< Lùi | Tiếp theo > |
---|