LỜI THƯA,
Tập thơ này được ra đời khi tôi ra Hà Nội gặp lại đồng đội cũ của một thời chiến tranh. Góp nhặt lại những gì đã viết còn rơi rớt trong sổ tay. Tập thơ in xong và nộp lưu chiểu vào tháng 12.1997.
Toàn bộ tiền thưởng của tôi trong cuộc thi thơ về hình tượng con cọp do báo Văn nghệ TP.HCM tổ chức, chuyển ra Hà Nội để Đoàn Tuấn lo in ấn. Bìa là tượng điêu khắc của Điềm Phùng Thị. Sau này tập thơ được NXB Trẻ tái bản.
Đọc lại và còn thương lấy thời tuổi trẻ của mình. Một vết sọ đã hằn qua năm tháng...
Nay tôi post lại bài trả lời phóng vấn của báo Phụ Nữ TP.HCM ngày 22.12.1999 như lời tự sự về năm tháng đó:
Lê Minh Quốc: Thời gian ở chiến trường là những ngày đẹp nhất
Năm mười tám tuổi, tôi đi bộ đội. Khoảng thời gian 6 năm ở chiến trường với tôi là những tháng ngày đẹp nhất không còn trở lại nữa của tuổi thanh xuân. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ về kỷ niệm rất gian khổ. Lúc đó, chúng tôi đã làm thơ để chuyền tay nhau đọc. Tôi còn nhớ những bài thơ của Đoàn Minh Tuấn (giải A cuộc thi thơ của tạp chí Văn Nghệ Quân đội năm 1986) cũng bắt đầu từ năm tháng đó. Có điều là một người từng cầm súng chiến đấu ở đất nước Ăng-ko - nhưng tôi nhận thấy: Chúng ta vẫn chưa có những tác phẩm thơ xứng đáng với tầm vóc của người chiến sĩ quân tình nguyện. Chắc chắn không phải vì tài năng của người cầm bút - mà vì một điều gì đó tôi không lý giải được. Những năm tháng ở Campuchia, Lào, ở biên giới Thái Lan - với tôi vẫn còn đậm tình đồng đội và sự hy sinh rất lớn… Chẳng bao giờ tôi quên được những buổi chiều vàng vọt ở các nghĩa trang Đức Cơ (đường 19B), An Lung Veng, Kulen… nơi an nghỉ của những đồng đội. Chẳng quên được những cánh rừng trong mùa khô, mùa mưa mà mìn KP2, K63, 65.2A, 45.2A,… rải đầy như lá. Đối đầu với biết bao sự gian khổ rất khắc nghiệt, chúng tôi sống và làm thơ. Những bài thơ của tôi sau này được in trên báo chí, trong những tập thơ - đã được ra đời như vậy. Bây giờ lùi vào quá khứ để nhìn lại cuộc chiến tranh, tôi thấy mình đã ít nhiều thi vị hóa, thậm chí đã tránh né khi viết về sự hy sinh mất mát. Liệu có nên như vậy không? Bây giờ đã rời đội ngũ, vật lộn với cơm áo đời thường làm tôi thấm thía những tháng năm tuổi trẻ cầm súng lúc đó, không ai đòi hỏi chúng tôi về chuyện… hộ khẩu bao giờ! Bây giờ trở về, trường đại học, rồi đi viết báo kiếm sống, với tôi hộ khẩu lại vẫn là chuyện canh cánh bên lòng. Có phải đây là một đòi hỏi quá lớn đối với một người lính trở về? Những đời thường như vậy thơ ca của tôi đành bất lực. Dù sao, xin ghi nhớ sự cưu mang của đơn vị C7, D8, F29 (307) đã nuôi dưỡng thơ tôi và tôi trưởng thành.
VI.2012
LÊ MINH QUỐC
Thơ
Đoàn Tuấn
(Lê Minh Quốc giới thiệu)
TUẤN ƠI! TUỔI TRẺ CỦA CHÚNG MÌNH...
I.
Những tháng ngày này, 7.1997, tình hình chiến sự ở Campuchia đã kích động tôi dữ dội. Kỷ niệm cũ tưởng đã quên, nay bỗng sực nhớ, nó như đốm lửa cháy bập bùng trong ý thức lãng quên. Những bài thơ của một thời trên quê hương Chùa Tháp trong sổ tay nhem nhuốc, được viết dưới ánh sáng của dầu khộp khi nằm trong hầm thùng Anlungveng, được viết sau những giây phút hiếm hoi nghỉ giải lao trên chặng đường truy kích, được viết bâng quơ đâu đó... nay bỗng vọng về như một lời thầm nhắc về tuổi trẻ của mình. Tuổi trẻ đã đi qua. Những sợi tóc đã bạc. Những kinh nghiệm của cuộc đời đã cày từng nếp nhăn trên gương mặt. Tôi sực nhớ đến những liệt sĩ có nụ cười tinh khôi như nắng mới. Môi hồng hào như chưa một lần sốt rét. Thịt da thơm tho như chưa bao giờ hứng trọn quả B.40 giữa lồng ngực. Tôi gọi đó là những liệt sĩ trinh tiết. Những linh hồn ấy dường như còn bay vất vưởng, lượn lờ đâu đó trên mỗi bước chân tôi đi trong dòng đời xuôi ngược. Những linh hồn ấy còn nằm trong sổ tay: “Huỳnh Lộc 15-6-1980, Đỗ Nhờ 16-7-1980, Nguyễn Tiếp 21-7-1980, Nguyễn Luôn 13-8-1980, Lý Văn Nga 18-8-1980, Mai Công Ngói 15-6-1980, Lê Văn Lâm 21-6-1980, Phạm Hữu Phước 17-6-1980, Trần Thanh Biện 25-11-1980, Lưu Thanh Sơn 25-11-1980, Hoàng An 28-12-1980, Huỳnh Hoan 13-12-1980, Trần Lợi 13-12-1980...” Ấn tượng dữ dội nhất của tôi trong nỗi nhớ về Campuchia vẫn là nghĩa trang Anlungveng - nằm trên khu Đông Bắc - nơi ấy, cỏ lau ngút ngàn, những ngày mưa lội bì bõm đi chôn đồng đội của mình. Giọt nước mắt không còn để ứa ra. Những nụ cười tắt ngúm. Những căm thù bủa vây. Và từ bên kia ngọn Đănrek những loạt pháo gầm thét ngày đêm. Trời rực lửa. Chúng tôi đã sống dưới lòng chiến hào. Đôi lúc ngước mắt nhìn sao trời xa xăm trên đỉnh trời lạnh lẽo.
II
Lại nhớ đến những lần luồn rừng để tìm rau rừng. Hãy đọc lại một đoạn trong tiểu thuyết Thời của mỗi người (Lê Minh Quốc -NXB Trẻ - 1991) mà tôi đã viết: “Bước luồn qua những bụi gai nhọn hoắt, bóng tối nhập nhoạng. Như một linh tính đã báo trước, tao chợt cúi rập người xuống để né cành cây ngang tầm mắt thì đó cũng là lúc một tiếng nổ dữ dội gầm lên. Tiếng gầm khủng khiếp. Cái chết đã đến. Trung đội trưởng ngã vật người ra phía sau với tiếng thét rợn người. Một quả mìn KP.2 đã cắt ngang nửa người anh ấy. Trái mìn không chôn dưới đất mà nó được nối vào dây kim hỏa - sợi dây ấy như màng nhện giăng là đà dưới mặt đất. Trung đội trưởng đã vướng dây mìn. Kim hỏa bị kéo tụt ra và phóng chính xác vào hạt nổ. Cả đất trời tối sầm lại.” Vậy đó, làm sao quên? Lật lại quyển sổ tay, thấy còn ghi: “Sáng: 7 ký bột, trưa: 8 ký gạo; chiều: 5 ký bột cộng 4 ký gạo”. Đố Tuấn nhớ được là lúc ấy, năm 1979, quân số của đại đội mình là bao nhiêu người? Xin trả lời; chỉ còn vỏn vẹn 35 người. Khẩu phần buổi tối nhiều hơn, vì còn phải vắt thêm những cục cơm cho những thằng đi phục kích đến mười giờ sáng mai mới về lại hậu cứ. Thời gian ấy chúng ta trú quân trên ngọn đồi. Suốt ngày chỉ ăn măng tươi. Ăn đến phát nôn. Còn nhớ mình với Nguyễn Đình Huần nửa khuya thèm thuốc, lội vào rẫy. Hai thằng đã phát hiện được một rẫy thuốc lá còn xanh mơn mởn. Hai thằng vặt sạch lá. Đem về. Dùng dao cắt nhỏ. Bỏ vào soong rang khô để hút dần. Lại nhớ, có lần cả đơn vị nhốn nháo cả lên. Thằng nào cũng vật vờ vật vưởng. Hút lầm lá... cần sa. Bố khỉ! Lại nhớ Hồ Bi, thiện xạ vác B.41, nói tiếng Miên thật tuyệt:
Me ơi me miên ây đô
Ao ni xà át kho này thơ mây
Me sơi me xốc xờ bay
Oi con xum tít ớt cay, bụi hành
Tuấn còn nhớ là bọn mình đã “dân vận” như thế nào đó không? Còn nữa, đây là ngôn ngữ của Hà móm, của Dân lác, của Trần Tuấn Bảo và của tất cả chúng ta:
Me ơi sờ lanh côn tê?
Oi con xì cọ mang về me ơi!
Me ơi vào nói với âu
Con mượn cái liềm cắt cỏ cho bò hốp bai
Me ơi con tốp lò o
Thơ man con hốp sơ nganh chờ rờn
Những kỷ niệm còn tươi rói trong trí nhờ. Nhớ những ngày đem quân phục vào phum đổi chó? Chúng mình leo lên nhà sàn, ngồi uống rượu. Ném những cục cơm xuống dưới đất để nhử chó, những con chó háu ăn vừa lao tới thì lập tức một loạt đạn vang lên... Bởi khi ấy nòng súng A.K đã chỉa xuống. Bắn chính xác. Cột bốn chân của xác con chó lại. Xuyên qua một thanh tre. Chúng ta đã hào hứng khiêng chó về hậu cứ. Đó là những ngày hội tươi đẹp của một thời tuổi trẻ. Lại nhớ một kỷ niệm cùng Dũng B.40. Đêm. Trăng sáng. Trên đường từ phum Choangs’re, có một chiếc xe bò chở theo một con bò đã chết lọc cọc đi vào rừng. Quốc và Dũng bí mật bám theo. Trong rừng, những nông dân Campuchia đã đào một cái hố lớn để chôn con vật xấu số. Sau khi họ bỏ đi, hai đứa vội vã đào lên, rồi dùng liềm cắt những miếng thịt tươi roi rói đem về, trong bụng khấp khởi mừng vì đêm nay sẽ có một bửa liên hoan ra trò. Khi về hậu cứ không dám đi vào đường chính, vì sợ đại đội phát hiện, hai đứa phải cắt rừng, không ngờ lại lọt vào ngay hướng của đơn vị! Tưởng bọn mình là địch mò vào căn cứ, thế là một loạt đạn đinh tai nhức óc, cả hai thằng kêu toáng lên. May mà không “tiêu” đời một cách lãng xẹt như thế.
Hình như Huần rời khỏi chúng ta vào ngày 27.8.1980? Quốc lật trang nhật ký thì trong ngày hôm đó có ghi bài thơ tặng Nguyễn Đình Huần:
Im nghe từng giọt mưa đêm
Như từng giọt máu rơi trên hình hài
Tình yêu bầm tím hai vai
Phố xưa hoang vắng trong ngày Prech-vihear
Im nghe trăm mảnh trăng khuya
Tan trong dĩ vãng đầm đìa thương yêu
Sao nghe từng nỗi quạnh hiu
Sầu ngông vật vã tim yêu ngỡ ngàng
Nhớ về ngày cũ miên man
Từ Liêm (Hà Nội) bàng hoàng mộng du...
Lại nhớ về Lê Văn Lâm (Lâm lùn - Hải Phòng) ngày mà anh Lâm trung đội trưởng vĩnh viễn từ bỏ trần gian này, trong nhật ký còn ghi ngày 1.6.1980:
Thèm miếng thịt hộp
Sáu mươi người ăn chung một lon
Ngày đi phục tối gác sáng đêm
Cối 60 địch bắn dập dồn
III
Trên cung đường 19B. Trung đoàn 29 vào thay cho E.95. Tôi đang nằm đung đưa trên võng trong căn hầm thùng. Bỗng có tiếng nói: “-Báo cáo hạ sĩ...” Tôi ngước mắt lên nhìn. Một chân dung trắng trẻo, môi đỏ, giọng nói Hà Nội. Quân phục còn mới. Thoạt nhìn hắn, tôi có cảm tình ngay. Hắn là một trong những tân binh được bổ sung khi chuẩn bị mở màn chiến dịch. Lúc ấy, tháng 12.1978. Trời thường mưa. Mỗi sáng được ăn những cục mì đen đúa và cứng như đá. Hắn cùng tôi, sau đó, trở nên như hình với bóng. Hai thằng đã đi hết một chặng đường chiến binh. Hắn có một quyển sổ nhỏ. Thường giấu ở túi áo, mỗi lần tìm được một câu thơ hay, hắn ghi vào đó. Tính tình của hắn hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ như con gái. Hắn chơi thân với Trần Đào Hiền Nhân, Hoàng An, Nguyễn Đình Huần, Hạm, Tuấn quản, Hà móm, Dân lác, Trung đen... một phần vì đồng hương Hà Nội với nhau. Tôi thân với Trần Tuấn Bảo, Nguyễn Đăng Lâm, Võ Đình Chiến, Mai đù, Huỳnh Lộc... một phần vì đồng hương Đà Nẵng. Rồi bạn bè tụ, tán. Tôi ở lại với bộ binh. Hắn làm lính thông tin. Rồi gặp nhau. Đọc thơ cho nhau nghe. Những bài thơ trong sổ tay. Rồi những giải thưởng thơ trao cho hắn. Hắn chỉ cười. Rồi hắn sang Mạc Tư Khoa học nghề đạo diễn biên kịch gì đó. Bây giờ, đọc lại những bài thơ của hắn viết thời gian ở Campuchia, tôi vẫn còn xúc động, rất xúc động. Quái lạ! Sau này, khi rời bỏ quê hương Chùa Tháp thì hắn không còn giữ được mạch cảm xúc tuyệt vời ấy nữa. Tại sao? Tôi chưa bao giờ và có lẽ không bao giờ đặt câu hỏi đó với hắn cả.
Ngày tôi rời mặt trận
Vừa đặt chân về đến Hà Nội
Dốc hết tiền
Mua một chiếc đồng hồ đeo tay...
(Ngày tôi rời mặt trận - Đoàn Tuấn)
IV
Kỷ niệm tròn 20 năm, ngày đặt chân vào quân ngũ. Một tập thơ ra đời. Hai thằng từng đứng chung một chiến hào nay lại đứng chung trong một tập thơ. Đời sống có gì vui? Những bài thơ này hầu hết được viết trước năm 1982, nay tìm lại được trong nhật ký, trong trí nhớ hoặc trong sổ tay của bạn bè cũ. Bên cạnh đó cũng có những bài thơ được viết sau này, nhưng thật ra nó cũng nằm trong mạch cảm xúc binh nhất, binh nhì của thời trai trẻ hoa niên còn quá nhiều mơ mộng:
Mặt chúng tôi gầy như gương mặt núi
hào phóng như trời xanh
tính thẳng như nòng súng
ăn cơm cục
uống nước đục
hồn như sông in mây trắng vô tư
(Ankung năm 81 - Đoàn Tuấn)
Một tập thơ ra đời, không dám mong sẽ được nhiều công chúng đón nhận khi nó bày bán trên kệ sách. Chỉ mong đồng đội cũ đọc và nhớ đến những ngày tươi đẹp đã qua mau. Không dễ ai lại đem đổi bán những kỷ niệm và niềm tin của chính mình. Tuấn ạ! Thời ấy chúng ta còn trẻ quá. Mắt còn biếc. Môi còn tươi. Dòng máu trong tim còn sôi nóng. Chính vì thế, đôi lúc, tôi thương tuổi trẻ của chúng tôi quá! Bao giờ quay lui lại dĩ vãng, tôi cũng thấy một gương mặt tân binh non choẹt:
Vẫn nói cười, vẫn thổi mắt cho nhau, ôm súng xông lên và những loạt Đ.K dập xuống
Bạn bè tôi hóa trăm mảnh sao trời
(Tìm bạn - Đoàn Tuấn)
Một tập thơ ra đời để tặng cho đồng đội Hòm thư 5A 2106 Pleiku (Đoàn 330 chuyển), tặng những liệt sĩ - như trong nhật ký ngày 29-12-1980, tôi viết cho Huỳnh Lộc và Lý Văn Nga:
Về đâu khi tóc còn xanh?
Ai chờ ta giữa nội thành mùa xuân
Ngủ quên trong một mùa trăng
Sao mắt không nhắm? Còn bâng khuâng gì?
Cười lên đi! Khóc lên đi!
và:
Còn lại bao nấm mồ, hài cốt
Đồng đội tôi giá lạnh giữa rừng hoang
(Kính gửi Sư đoàn 307 - Đoàn Tuấn)
Câu hỏi ấy mãi còn vang vọng trong nỗi khắc khoải. Đời sống có gì vui? Tôi sực nhớ đến phum Choams're của những năm 1979. Đêm trăng sáng. Tôi cùng một cô bạn người Khmer gốc Chàm đi dưới lòng suối cạn. Mười tám tuổi, môi tôi run rẩy chạm vào môi nàng. Khẩu súng A.K chếch lên vai. Gục đầu trên vai tôi, tóc nàng khét nắng, nàng nhỏ nhẹ: “-Contốp ơi! Boong ơi! Oi on sum tích xàbu, giúp ní cà xọ”. Nàng xin tôi một ít xà phòng để tối nay gội đầu. Sau khi chia tay, khuya ấy, tôi đã lẻn vào hầm của chính trị viên Trần Thanh Chương (quê ở Nam Đàn, Nghệ An) ăn cắp một ít xà phòng để sáng mai tặng nàng. Hỡi ôi! Rạng sáng hôm sau đã có lệnh bí mật hành quân. Từ đó, chẳng bao giờ, tôi còn gặp nàng nữa. Hỡi Maní Chàm, bây giờ em ở đâu? Đời sống có quá nhiều xáo trộn. Mới đó, ngoảnh lại đã 20 năm. Có người đã kết thúc cuộc đời. Có người đang loạng choạng đi về phía hoàng hôn. Tuấn ạ! Tập thơ Đất bên ngoài Tổ quốc hôm nay đến tay bạn đọc. Ai còn nhớ? Ai sẽ quên? Duy nhất một điều mà chúng ta thầm mong: Những linh hồn vất vưởng đâu đó sẽ đọc được trong mịt mù âm dương cát bụi. Trong nhật ký ngày 30.12.1980, tôi viết:
Ta viết từ nghĩa trang
Bằng máu người đã chết
Ta chưa hề biết khóc
Sao thấy lạnh môi cười
Ngồi buồn ôm rách nát
Bia mộ tuổi hai mươi
Ngày từng ngày xanh rêu
Tiếng chim rơi buồn bã
Giữa hoang vu đất lạ
Máu thịt tặng cho đời
Bạn ngàn năm yên ngủ
Linh hồn vật vờ bay
Bạn không còn chân tay
Sao về nơi yêu dấu?
Ta tặng người giọt máu
Ướt đẫm sỏi Angkor
Một mùa khô nóng bỏng
Đầu môi cười ngây thơ?
Ngày từng ngày súng nổ
Quên lãng mộ bia hoang
Bạn nằm cùng cây cỏ
Chiến trường xa điêu tàn
Ta đốt lên điếu thuốc
Nằm ngủ ngoài nghĩa trang
Lửa bập bùng cháy sáng
Thấy bạn về mênh mang...
Điều ấy đã được bạn bè của sư đoàn 307 cùng tâm niệm như thế chăng? Bây giờ, tháng 7.1997. Lật lại tấm bản đồ và nhìn lại những địa danh quen thuộc nơi tuổi trẻ của chúng ta đã đi qua, bỗng dưng lòng như muốn khóc. Tuấn ơi! đời sống có gì vui?
Sài Gòn 14.7.1997
LÊ MINH QUỐC
TUỔI 18
(Tặng Lê Minh Quốc)
Nếu con gái có thuở vầng trăng khuyết
Tuổi mười lăm kín đáo ở góc trời
Thì con trai cũng một thời tuyệt đẹp
Vầng mặt trời mười tám tuổi đỏ tươi
Tuổi 18
đẹp như buổi sáng
cơn bão
nằm trong cánh tay
ước mơ
như gương mặt người yêu
ngắm hoài không chán
bỗng trổ trên tay
ngày nhập ngũ của mình
trổ trên bả vai
cánh buồm giữa biển
quân hàm một sao
hồn nhiên sáng nụ cười
Tuổi 18
gương mặt
ấm áp
như mặt trời
đùi ếch
ngực dơi
tay cử tạ
để ngỏ
trái tim
dạt dào
như bọt tan trong cốc rượu
Tuổi 18
có thể
chưa có người yêu
nhưng giàu vì bạn
làm quen
chỉ cần
điếu thuốc
gặp nhau
bắt tay
rất chặt
chia tay
cho nhau ngay
địa chỉ
Tuổi 18
nốt nhạc
nằm ngoài khuông nhạc
bài hát
không nằm trong giai điệu
tỉ phú
thời gian
khao khát
không gian
đôi cánh
Tuổi 18
rời mái trường
trở thành
người lính
mang lên rừng
chuông xe điện vang ngân
mang lên rừng
tiếng chim cu gáy
để lại cho người tình
bé nhỏ
môi hôn
Tuổi 18
cười
nụ cười hết cỡ
đánh “tiến lên”
hò reo
vang dậy một góc rừng
những đêm
đế dép đốt sáng trưng
gõ thùng
hát đồng ca:
“Ở đây chúng tôi ăn lương khô và xúc xích!”
Tuổi 18
bị thương
không khóc
nhưng lại rơi nước mắt
khi bạn bè bị thương
Tuổi 18
để đầu trần
trong cơn khát
ngửa cổ
dốc bi đông
tu một nụ hôn dài
Tuổi 18
nói
một lời yêu
cũng vội
yêu
một tình yêu
không nhiều lần
hò hẹn
Tuổi 18
như rượu
của đời
xin mời
nâng lên
hạ xuống
Tuổi 18
lên núi
núi vọng
xuống sông
sông rền
Tuổi 18
trắng trong
như bạn tôi
An “bột”
chết
trong tiếng nổ
ngày hôm sau
mãi mãi
lặng im
Còn nhớ Anlongviêng, nhớ
Hoàng An không Quốc?
Ngày ấy chúng ta lặng im
Bây giờ mới nói được.
Đoàn Tuấn
MẸ VÀ HÒM THƯ CON
(Tưởng nhớ Nhật Minh)
Với một chiếc ba lô
Chúng con có ngôi nhà
Hòm thư là biển số
Sáng hai mùa nắng mưa
Chùm chữ số đơn sơ
Như mắt con nhìn mẹ
Con ở xa là thế
Đôi mắt nhìn bình yên
Giọng con trầm như đêm
Dù giữa nơi mặt trận
Tên hòm thư mẹ khắc
Tên cột mốc biên cương
Gập ghềnh bao núi non
Bóng con đi nhỏ bé
Con nhìn nét chữ mẹ
Bao giờ được thảnh thơi
Con biết dáng mẹ ngồi
Mong lá thư biên giới
Con biết mắt mẹ mỏi
Ngóng từng cánh chim qua
Dòng chữ số rất xa
Bé như là con kiến
Bò từng mi-li-mét
Trên đường về quê hương
Mẹ nhìn theo dáng con
In những dòng chữ nhỏ
Còn những dòng chữ đó
Còn xa mẹ, mẹ ơi...
Lúc này con đang ngồi
Nghĩ lá thư gửi mẹ
Giấy bút con không có
Hình dung trong nỗi nhớ
Không có gương mặt nào
Đầy chịu đựng khổ đau
Như là gương mặt mẹ
Không có địa chỉ nào
Làm mẹ luôn lo lắng
Địa chỉ hòm thư con
Đoàn Tuấn
TÔLLÊ SÁP ĐÊM 5 THÁNG MỘT NĂM 1979
Dòng sông đen loang loang nhòa trong đêm
Chúng tôi vội hít căng lồng ngực
Bên kia sông mịt mù phòng tuyến giặc
Mười phút vượt sông hai đại đội tăng cường
Lính bộ binh dùng chèo bơi xuồng máy
Con sóng lao xao, ý nghĩ chập chờn
Đêm không lời những người câm không nói
Ra giữa dòng hơi thở gấp hơn
Bỗng tất cả cùng lấy khăn nhúng nước
Tất cả cùng rửa mặt giữa dòng sông
Dù thời gian chỉ còn bốn phút
Dăm mét nữa thôi trận đánh bắt đầu
Tôi cảm thấy gương mặt mình nhẹ nhõm
Gió thấm vào từng hạt nước li ti
Bước lên bờ lòng tôi thanh thản
Trận đánh này có thể sẽ ra đi...
Đoàn Tuấn
ĐẤT BÊN NGOÀI TỔ QUỐC
Hồn tôi mang là tâm hồn Tổ quốc
Sự dịu dàng người phụ nữ tôi yêu
Gương mặt bạn, gương mặt tôi - Đất Nước
Người đàn ông ra trận mới trở về
Tôi luôn nhớ đồng đội tôi hóa Đất
Đất bên ngoài Tổ quốc... phía xa kia...
Lòng tôi mãi thuộc địa hình nơi đó
Ngầm Sa-em, đền Prếch Vi-hia
Sườn Đăng-rếch, những con đường xe đổ...
Đồng đội tôi tình nguyện nằm xuống đó
Để Đất mang gương mặt Con Người
Đất mang tên Nhật Minh
Mang tên Hoàng An, mang tên Dương Công Hạm
Campuchia ơi, đồng đội tôi ngã xuống
Chẳng mộ bia ghi lại tuổi tên
Để tên Người cũng ấm áp thiêng liêng
Như Trường Sơn, Cà Mau, Đồng Tháp
Đi giúp bạn cũng vì đất nước
Một tấm bằng Tổ quốc ghi công
Dù mùa mưa hay mùa khô
Chỗ đất ấy đào lên đều tóe lửa
Mỗi lần đặt đồng đội tôi xuống đó
Chiếc quan tài đặt trĩu trái tim tôi
Tôi nhói lòng chịu mũi kim đau buốt
Tiếng viên đất đầu tiên rơi xuống nắp quan tài.
Ngày tiểu đoàn rút đi, nghĩa trang nằm lại
Số phận nấm mồ kia? - Bọn địch sẽ giật mìn
Chúng tôi đi chặt cành cây phủ xuống
Người sống và người chết không yên
Ở trong đất lặng im bao mơ ước
Vọng mãi về ngôi nhà thuở ra đi
Và đêm đêm mỗi ngôi nhà bên Nước
Kỷ niệm thương nhớ Đất thầm thì.
Lâu ngày sống trong rừng sâu đất bạn
Đồng đội nhớ nhau, ngỡ như đất quê nhà
Chiều chôn bạn trong nghĩa trang quen thuộc
Đêm về hầm còn lại mỗi mình tôi
Tôi mới thấy xót xa thương bạn
Nằm bên ngoài Tổ quốc dưới mưa rơi
Tôi không thể sống thiếu người đã mất
Tôi sống bằng cái chết của bạn tôi
Tổ quốc nặng sâu hơn bởi tình yêu mảnh đất
Đất bên ngoài Tổ quốc, Việt Nam ơi!
Có phải một mảnh đời tôi ở đó
Một mảnh đời ý nghĩa nhất của tôi?
Tổ quốc - nơi tôi sinh ra và lớn lên cùng bạn
Đất của đời tôi lại chính đất bên ngoài
Dẫu nghĩa trang đã chuyển về Tổ quốc
Đất muôn năm vẫn ở lại nơi này
Ở lại nơi lần đầu tiên nằm xuống
Hơi thở cuối cùng lẫn xứ lạ cỏ cây
Tôi chỉ có một cuộc đời ngắn ngủi
Một mảnh đất con con như số phận của mình
Có nhiều lúc tự nhiên tôi không hiểu
Mình đang ở đây hay đã trở về
Đồng đội ơi lúc nào tôi cũng nhớ
Đất bên ngoài Tổ quốc, cả trong mơ
Làm thế nào cho nguôi nỗi thương người đã mất?
Đất nơi nào nặng hơn đất nghĩa trang?
Trong trái tim hôm nay tôi đang sống
Còn luân hồi một trái đất của tôi...
Đoàn Tuấn
(Giải thưởng thơ Văn nghệ Quân đội năm 1990-1991)
LÍNH TRÁNG
(Tặng Lê Quỳnh Lang)
Đã là lính còn phải là tráng nữa
Văng tục một câu cho nó nhẹ người
Bị thương rồi chẳng còn mơ mộng nữa
Nghĩ ngày về mình sống thế nào thôi!
Đoàn Tuấn
LÁ MỤC
(Gửi Huỳnh Đức Thuận)
Đêm ấy trong rừng Miên tao nhớ
Mày nhặt ánh lân tinh ép trong vở học trò
Sáng mở ra: một manh lá mục
Mày vứt đi... Tao tiếc mãi đến giờ!
Đoàn Tuấn
HOÀNG HÔN ĐỨC LẬP
Xe đang chạy. Bỗng sững người dừng lại
Ngắm nghĩa trang xa tít tận chân trời
Cả thân hình chợt nóng bừng tê dại
Hóa khối trầm nghi ngút mãi khôn nguôi...
Đoàn Tuấn
ĐƯỜNG LÍNH
Không cần vé vẫn lên tàu đi B
Sang K, C cũng chẳng cần hộ chiếu
Những con đường chiến tranh đơn điệu
Lính chỉ mong: một lối trở về!
Đoàn Tuấn
SAU MÀU XANH LÁ
(Tưởng nhớ Hạm thân yêu)
Cứ độ này nhớ bạn lắm bạn ơi
Trời xanh như câu thơ thu hoài cổ
Nghe đâu đây bài lá xanh lá đỏ
Biển trên trời mà lòng nặng quá thôi
Ôi có phải màu xanh của lá
Bay lên... bay lên dệt sắc trời...
Nhớ mùa hè từ giã, mái trường ơi
Màu hoa phượng cháy đỏ niềm khao khát
Chúng mình đi dưới khung trời tình bạn
Xanh thơm màu quân phục tân binh
Như gọi về những mùa khô Choăm-san
Rừng khộp cháy cong trời rừng rực
Dưới bóng râm núi lửa
Đơn vị mình truy quét dọc biên cương
Mùa sốt An-lung hai đứa một giường
Đồng đội về phum xin lá chanh lá sả
Ôi lòng mẹ lặng thầm hương thơm lá
Bạn đi rồi... gửi hương lại cho ai?
Những đêm mưa chúng mình ước nghe đài
Sóng lân tinh vỗ dập dờn cánh võng
Mưa thánh thót đọc trên trang lá trắng
Truyện cổ về cô gái thảo thơm
Đêm hành quân mưa rừng lạnh thấu xương
Ta cài ánh lân tinh trên ba lô nhỏ bé
Chúng mình là những ngôi sao chiến sĩ
Đi băng lên lội qua dải Ngân hà
Mang tuổi xuân trái tim đẹp như hoa
Cứu cánh rừng thốt nốt đang cụt ngọn
Trong bão lửa chiếc lá xanh rơi xuống
Hóa sao trời về xứ sở quê hương
Trước lúc hy sinh cháy ngọn lửa bình thường
Sau ngọn lửa là phù sa của đất
Cho mùa xuân Campuchia dâng mật
Như vẫn còn xanh mãi một ước mơ
Mùa khô này mình xin viếng bài thơ
Làm bóng mát bên nấm mồ của bạn
Tổ quốc mình đang đón xuân Nguyên đán
Đất bạn đây thơm dịu mát hoa xoài
Bạn thân yêu nghĩ đến một ngày mai
Cầm tay người yêu đi trong vườn bách thảo
Gió Hồ Tây hương thơm đầy vạt áo
Tay chúng mình đan nhau như cặp lá
Bạn như là chiếc búp mãi xanh non...
1982
Đoàn Tuấn
VẬN ƠI!
(Tưởng nhớ Hoàng An thân yêu)
Chúng mình chôn Vận xuống
Tử thi còn thiếu một chân
Máu thấm ống quần héo như tàu chuối rụng
Máu tuổi hăm hai gửi cho cỏ cho trời
Đại liên ghìm yểm hộ
Đạn bay như đàn rết bám trên đầu
Lựu đạn địch quăng
Bất ngờ đêm trái rụng
Phải cõng thêm hai đứa quay về
Ơi gió rừng biết chân Vận đâu không...
Hy sinh thiếu một chân
Vẫn trọn đời chiến sĩ
Ôi máu thịt muôn đời là máu thịt
Chúng mình tìm cho chúng mình
Những người đang sống
Những người đang cầm súng
Nếu hy sinh được chôn cất đủ đầy
Một trăm đứa thương
Thương Vận đến cháy lòng
Nhưng không đứa nào hình dung được nỗi đau của mẹ
Nếu mẹ biết trong gia tài nhỏ bé
Còn ít tiền thương mẹ thiếu áo bông
Ước gì Vận vẫn nằm đội điều trị tiền phương
Như dạo nọ
Chúng mình chạy về thăm
Được cởi trần tung tăng trên trảng cỏ
Tuổi thơ nào mây trắng trời xanh
Hay như bạn bè mang khuyết tật chiến tranh
Chống nạng bước vào trường đại học
Dấu chân in những vạt rừng mưa nắng
Dấu nạng in dấu chấm lửng trên đường
An-lung-viêng mùa khô biên cương
Rừng khộp cháy bùng lên ngọn đuốc
Như ngọn tháp ngang trời ngùn ngụt
Vận chết rồi vẫn không được đến thăm
(Mà dấu chân năm tháng hành quân
Gấp mấy lần đường đến ngôi đền cổ)
Hai phòng tuyến căng ra bàn chân Vận nằm giữa
Và khói mìn như đang cuộn bốc lên
Lòng chúng mình cháy cồn cào ngọn lửa
Đứng bồn chồn mong đêm xuống Vận ơi!
Đoàn Tuấn
AN-LUNG NĂM 1981
Những dãy núi con đường và vị trí các C
Như đồ vật trong nhà, tôi nhớ
Bao đồng đội thành cây rừng ở đó
Mỗi gương mặt bạn bè một địa chỉ không quên
Dũng đi phục mùa mưa xé túi quần hun muỗi
Cởi áo ra mình đắp chóng sáng hơn
Mạc Văn Tướng trèo cây bắn B41
Mười hai giờ đêm ăn cháo khỉ xì xòm
Lính 71 đào hầm, lính 80 nạp đạn
Có điều gì tin cậy chở che nhau
Bên cửa hầm dáng bạn ngồi đan rổ
Lá lồ ô vàng thơm sắc rơm phơi
Mùa khô ấy áo bạc theo suối cạn
Ai nhắc mình vò áo nhẹ tay thôi
Mặt chúng tôi gầy như gương mặt núi
Hào phóng như trời xanh
Tính thẳng như nòng súng
Ăn cơm cục
Uống nước đục
Hồn như sông in mây trắng vô tư
Chúng tôi ngủ
Như chim nằm trên lá
Chúng tôi đi
Sông suối ngẩn ngơ nhìn
Tên chúng tôi chỉ cỏ cây nhớ nhất
Mỗi tuổi quân sống gấp mấy tuổi đời
Ôi mảnh đất An-lung không một người dân ở
Đôi dép này nguyện in tiếp hoa văn...
Những trận đánh chim không còn chỗ ở
Chúng tôi mấy ai bị đạn thẳng bao giờ
Nhưng vết thương giữa địa hình nhức nhối
Đồng đội tôi ngã xuống chỉ vấp mìn
Địch buộc vào thân cây dây mảnh tơ ngang ngực
Lưng ống chân lá cỏ xùm xòa
Trái mìn vấp nẩy ngang người mới nổ
Hoa sâm cỏ bên đường gục xuống hạt máu khô
Nai bị thương càng giãy mìn càng nổ
Bạn tôi bị nhiễm trùng nhựa hóa học, cao su...
Nắng bóc da như thân cây bóc vỏ
Chân dầm mưa sáu tháng tổ ong tàng
Chúng tôi giữ con đường thở cuồn lên bụi đỏ
Ai nghĩ chiếc cần câu để phát hiện dây mìn
Đoàn xe phóng gió vít cong cành lá
Hai ngón tay đưa lên miệng vội vàng
Thương bạn bè mà không dám đỗ
Giữa mịt mùng ném xuống nắm thuốc rê
Hoàng hôn kéo con đường dài hun hút
Nằm mơ màng khói thuốc thảnh thơi bay
Gió mơn man những dấu chân tin cậy
Một dòng sông đâu đó hát trong lòng
Ơi con suối Anh-cheng
Giống ngõ nhà mình quá
Những đêm mưa Đồi Đá
Mơ một chỗ nằm thôi
Có buổi hoàng hôn úp mặt vào trảng cỏ
Không dám nhìn đường uốn ngọn khói phum
Đêm gài màn cứ ngoảnh qua ngoảnh lại
Ngỡ mẹ ngồi đập muỗi đâu đây
Chiều qua phum hỏi đùa xin đứa trẻ
Đèo ba lô lên núi sống với mình
Thằng bạn cùng trường
Nhận được tin nó vừa cưới vợ
Bao cuộc đời bình thường trên điểm tựa
Chưa mảnh tình vắt vai
Chị xóm giềng khát khao làm mẹ
Em đứng đó một mình mùa xuân đến
Ai dám bảo em xinh hơn trúc bên đình
Càng yêu em
Con đường càng ngắn
Ba lô bớt nặng
Đêm dài như sông
Sự đợi chờ ân nghĩa
Sự đợi chờ máu xương
Anh nguyện sống vẹn nguyên lòng chung thủy
Dẫu bắt đầu hạnh phúc tuổi ba mươi
Em gái văn công lên điểm tựa
Như con chim khách
Bay tìm lòng người
Trái thị vàng rơi
Bàn tay mong đợi
Nếu thương mến hóa thành bông hoa đẹp
Cả sư đoàn dành em hái đầu tiên
Đỉnh 600 tháo dép cùng ngồi
Quên băng đạn cắm vào sườn đau nhói
Chúng tôi nghe em hát đêm nay
Dải Ngân hà tràn sao lăn trên má
Ngôi nhà không cửa giả
Trưa mẹ về thoáng qua
Em đạp xe đến trường
Nét mặt người đứng tuổi
Con đường bến sông cơn mưa buổi dạ hội
Nhàn nhạt lung linh nắng thu
Mỗi đứa chúng tôi nhận một trăm phong thư
Đất nước mượt mà giọng hát người con gái
Chiếc nón trắng như cánh buồm gửi lại
Thả neo hoài trong mắt đêm thâu...
Năm 79 phum Giềng hái bông gòn nấu cháo
Các cô gái đánh răng bằng cát
Ruột bí đao vắt lấy bọt giặt quần
Giữa lúc ấy Tỉnh ủy Prếch-vihia gửi chúng tôi phong bì giấy trắng
Người khóc lúc viết thư
Người để nguyên kỷ niệm
Điếu thuốc rê nắm ớt
Em Thíp dúi vào tay
Tấm mụn vá ở vai
Ấm như bàn tay mẹ
Những con suối tan tành trên đá
Về đồng bằng hiền hậu nuôi ta
Người lính bạn hy sinh
Một địa chỉ báo tin không còn nữa
Cả sư đoàn đưa tin về Tổ quốc
Hàng nghìn lá thư theo gió tỏa khắp trời
Suốt đêm múa phum Bê toàn phụ nữ
Cả phum ngủ không màn đất nước mình ơi!
Địa chỉ hòm thư con
Đôi mắt bồ câu trắng
Chùm Tua rua trong sân
Riêng điểm tựa An-lung
Không thể hình dung nổi
Mẹ buông rèm chong mắt trông con
Mẹ như cánh buồm
Con thuyền đất nước
Chúng con sống bằng giờ bằng phút
Càng khát khao hạnh phúc lúc trở về
Làm người Khơme lúc đi lúc đứng
Lúc ta nằm về thăm mẹ phút giây
Máu chúng con đổ bên ngoài Tổ quốc
Cho mai sau sông núi thở dịu dàng
Ôi đất nước võng giăng thành biên giới
Con trai nằm gấp khúc dáng đường biên
Ôi những tâm hồn như đáy giếng trong veo
Tổ quốc in vào vầng trăng tình nguyện
Có bóng đa như cuộc đời của mẹ
Gửi sang đây những ngọn gió mát lành...
Đoàn Tuấn
ĐIẾU THUỐC
Mỗi lần cầm điếu thuốc
Lòng tao lại ngượng thầm
Làn khói xanh lãng đãng
Gợi lại thời An-lung
Bây giờ mày ở đâu?
Có về quê Bình Định
Châu ơi, mày biết chuyện
Tha lỗi lầm cho tao!
Chiều ấy trong chiến hào
Mày hỏi tao: còn thuốc?
Còn một điếu duy nhất
Tao nói dối: hết rồi
Chừng sau đó nửa giờ
Mày bị thương đi viện
Tao cầm điếu thuốc bẹp
Trắng lạnh lòng bàn tay
Đang thanh thản hàng ngày
Tao bỗng thành im lặng
Như người vừa ốm dậy
Nghe hơi thuốc đắng lòng
Tao xé vứt ra rừng
Vẫn lộn về giấc ngủ
Chiến trường - nơi máu đổ
Nhận lỗi đâu dễ dàng...
Đôi khi bạn bè mời
Tao như người tập hút
Lặng im nhìn khói thuốc
Rít vài hơi, dụi tàn
Châu ơi, dù mai sau
Lòng tao còn ân hận
Tao một mình xấu hổ
Suốt bao năm một mình
Châu ơi, giờ ở đâu?
Mày có về quê cũ?
Châu ơi, mày tha thứ
Bao giờ tao gặp mày?
Đoàn Tuấn
CƠN KHÁT VÀ TIẾNG GÀ RỪNG
Chúng tôi đi dưới nắng mắt đổ sao
Chói trên đầu mầu trời xanh khao khát
Môi cong như cánh hoa khộp khô ráp
Nước mắt tràn và bên tai ong ong
Tảng ba lô nằm nặng ỳ trên lưng
Khẩu tiểu liên trên mình luôn đổi chỗ
Treo vào cây chiếc áo trấn thủ
Riêng quyển Kiều rách nát vẫn nâng niu
Vết thú rừng đi kiếm nước lần theo
Hồ nứt nẻ suối khô cằn sỏi đá
Bên ụ mối đồng đội nằm mệt lả
Bi đông va vào nhau khô khốc tiếng mõ trâu
Tiếng mõ trâu gợi chiều phum phía sau
Có giếng nước xanh tròn vòm thốt-nốt
Có cô gái gánh đôi cờ-ru nước
Múc cho chúng tôi từng bát ngọt lành
Chiều mắc võng nghỉ bên bờ suối cạn
Cát rào rào rơi trên lá khô
Ai cũng dễ nổi cáu trong cơn khát
Cái bẳn tính cồn lên ráng đỏ phía chân trời
Tiếng rừng cháy càng bứt rứt trong người
Khói đùn lên luồng mây dông vần vụ
Chim dáo dát bay lẫn trong tàn lửa
Không gian rung lên gió nóng quấn quanh mình
Mảnh trăng treo đầu cành
Úa vàng khô chiếc lá
Trăng lên giữa trời không ai buồn ngủ
Miệng khô tròn quầng trăng
Sắc trời xanh chợt thấm dịu trong lòng
Ơi sắc trời đang mênh mang Chùa Tháp
Bốn triệu người vừa trải qua cơn khát
Cơn khát nào bằng cơn khát Tự do?
Chúng tôi mơ đang bơi giữa dòng sông
Tắm cho nhau bọt trắng tung ghềnh đá
Đồng đội tung tăng như đàn cá
Tiếng cười như sóng vỗ âm vang
Chợt thức giấc thảng thốt bàng hoàng
Giơ cánh tay choàng giấc mơ chới với
Sương mỏng tang mềm mại
Như bàn tay xoa cơn khát dịu dàng
Đêm dài nỗi mong chờ thời gian
Võng lửng lơ giữa trời khao khát
Đau đáu nhìn một ngôi sao dần nhạt
Nghĩ đường ngày mai lên cơn sốt rưng rưng
Đột ngột tiếng gà gáy xa rung
Vút lên
uốn xuống
tắt giữa chừng
Xanh một viên pháo hiệu!
Mắt chợt sáng nhìn nhau sửng sốt
Bật dậy reo lên tay chỉ phía tiếng gà
Lại một tiếng gà gáy nữa ngân xa
Như tiếng vọng từ ngôi nhà cổ tích
Mà cầm được trong tay có dáng hình kích thước
Tiếng gà bay vào lòng xua cơn khát tan đi
Chúng tôi hăm hở cuốn võng sâu kèn
Hành quân về phía tiếng gà phơi phới
Ơi tiếng gáy từ xa xăm vời vợi
Trong lòng ai cũng sáng một âm thanh
Sao Mai cười trong mắt long lanh
Tiếng gà rừng tượng hình một con suối
Chảy rì rào xanh mát giữa bình minh...
Đoàn Tuấn
ĐÊM ẤY CHÚNG TÔI NGHE LỜI RU BỖNG SỢ
Chúng tôi hành quân đến đồi 104
Cây đã buông lá xuống mệt rồi
Dưới chân đồi có con suối lượn
Phun Tờ-nà-coong ngủ sớm dưới mưa rơi
Đêm đã khuya chúng tôi nằm trên võng
Như mọi đêm chờ giấc nhọc nhằn
Bỗng nghe từ dưới phum văng vẳng
Tiếng ru con vọng đến não nề
Ôi tiếng ru như vọng từ âm phủ
Người hay ma? Sao ai oán, rã rời
Tôi co mình, cảm thấy người ớn lạnh
Mở mắt nhìn. Đêm thăm thẳm quanh tôi...
Bỗng Hồ Bi, người Nghĩa Bình cao lớn
Chạy đến Nhân Hải Phòng, giọng hớt hải, run run
Nhân gọi Bùi Văn Rét người Mường, lì lợm
Rét cũng đang thao thức bồn chồn
Cả trung đội lính mới và lính cũ
Ngoài Bắc trong Nam bò lại quây quần
Muốn đốt lửa, sợ kẻ thù bắn lén
Ngồi bên nhau hồi hộp sợ âm thầm
Tiếng ru người Khơ-me không thành lời hát
Cứ ư... a... giai điệu kéo dài
Mưa vẫn rơi, dưới phum đen thẫm
Bó gối ngồi chẳng ai dám hỏi ai
Tiếng ru mảnh như tơ chùng bên suối
Mang gương mặt âm hồn của đất nước khổ đau?
Sao lại sợ tiếng ru?
Chúng tôi không hiểu nổi?
Đêm 27.5.1979
Đoàn Tuấn
MƯA
Những hạt mưa bao vây và chia cắt chúng tôi
Mỗi người lính khoanh vùng nằm một võng
Mưa ru ngủ trên mái tăng nhịp trống
Mỗi chiếc võng im lìm trĩu nặng những tâm tư
Những ngả đường vội vã đi qua
Có bao điều quên đi, rơi vãi
Mưa như người nhặt nhạnh gom góp lại
Đến trả ân cần rồi lặng lẽ ra đi
Một kỷ niệm xưa chẳng có ý nghĩa gì
Một cơ hội vô tình tiếc mãi
Một lỗi lầm không bao giờ chuộc lại
Một ấn tượng lạ kỳ có thật đến không tin...
Trong cơn mưa tất cả hiện lên
Tất cả hiện lên trong chiếc sàng tinh khiết
Hồn tôi rung như lá rừng xanh biếc
Mưa của trời lọc sạch bụi hồn tôi
Tôi lắng nghe mình trong lắng tiếng mưa rơi
Trong tiếng mưa rơi có điều gì vọng lại
Trong tiếng mưa rơi có hàng nghìn câu hỏi
Tôi không muốn lặng im cũng chẳng muốn trả lời
Cậu bé nào đi trong tiếng mưa rơi
Cậu bé ấy là tôi - hai mươi năm về trước
Hai đứa tôi giờ vẫn chung mơ ước
Hai giọt ước mơ còn đọng lại một nỗi niềm
Không thể nghĩ về tương lai trong tiếng mưa rơi
Hiện tại bỗng quên đi gợi nhớ về kỷ niệm
Khi biết lắng nghe mưa, tôi đã già, tôi hiểu
Trong mưa lắng nghe mình, tôi như nắng sau mưa...
Đoàn Tuấn
ĐÊM Ở RỪNG NGHE THƠ
Đêm ở rừng Choăm Kh’san nghe thơ
Tiếng vọng quê hương qua đường biên giới
Những người lính ban ngày sôi nổi
Đêm trở về trầm lắng đợi tiếng thơ
Tóc khét nắng thấm sương khuya mềm tơ
Áo dày bụi mùi mồ hôi mặn ấm
Ngồi dựa cây rừng, hai người nằm chung võng
Nhìn sao trời đang chở tiếng thơ qua
Đêm ở rừng cứ thăm thẳm đậm đà
Nên tiếng thơ đi một mình cao vút
Vòm lá xanh lọc tiếng thơ trong suốt
Tiếng tơ vàng bện ổ ngọt hồn ta
Tán lá rừng bỗng đầm ấm mái nhà
Bóng đồng đội im lặng nguyên bên lửa
Cái đống lửa như hiển nhiên phải có
Than rực hồng mà không thấy, mà quên
Tiếng thơ mượt mà uyển chuyển trong đêm
Như những nét hoa văn bay lên từ mặt trống
Khi nghe thơ hồn là sân cỏ rộng
Tiếng xuân về chim hót giữa đồng hoa
Đất chiến trường - đất nảy mầm thi ca
Người lính đến hái dạt dào thơ mộng
Nhặt nắng trời, phù sa cho cuộc sống
Đất nước là tình, người lính là thơ
Đêm chiến trường có nhiều phút riêng tư
Ngồi nghe thơ như ngồi bên Tổ quốc
Tiếng sóng thơ đẩy thuyền trăng bát ngát
Nằm nghiêng nhìn trăng chở tiếng thơ đi
3.11.1981
Đoàn Tuấn
MỘT NÉT LÀNG
Ở nơi ấy có một làng quê cổ
Cứ chiều chiều lững thững khói bay lên
Ở nơi ấy có một dòng sông nhỏ
Giữa đôi bờ thoai thoải êm êm
Tôi đã thấy em ra sông gánh nước
Bắp chân trần hắt lửa sáng dòng sông
Từng bậc cao dáng em nghiêng nghiêng bước
Vai nghiêng cùng đòn gánh cong cong
Đơn vị tôi qua đây dừng chân lại
Chỉ một đêm mắc võng trước sân nhà
Tôi đã yêu được người con gái
Uống hương đồng gió nội đẫm trong da
Thành kỷ niệm suốt những năm phiêu bạt
Nghĩ thương làng! Thương lắm gái thơ ơi!
Cỏ vẫn ướt đầm đìa trăng sáng
Lửa thời trai còn xấu hổ đến giờ...
Đoàn Tuấn
TIẾNG NGÀY MỚI BÌNH YÊN
Trên cây rơm có chú gà trống đỏ
Đôi cánh đập rạn trời vươn cổ gáy o... o...
Con gà mái hoa mơ lim dim ngủ
Dưới bóng vườn - ai cũng có bức tranh
Ở nơi người lính thức tàn canh
Ba trăm sáu nhăm ngày đều đặn
Mặt trời ngủ đẫy mắt
Sáng dậy với tiếng gà
Chiếc cầu vồng âm thanh ngân xa
Bắc qua năm nhịp đêm nối vào đầu bờ nắng
Mỗi ban mai kéo lá cờ ánh sáng
Kẻ thù nghe tức tối dập pháo bầy
Có lẽ nào tiếng đầu tiên trong ngày
Lại phải nhốt trong chiếc lồng chật hẹp?
Chúng tôi xa quê hương
Yêu quý lắm tiếng sinh sôi trên chốt
Ngày mới đến sẽ âm thầm tẻ nhạt
Nếu bình minh hôm ấy thiếu tiếng gà
Chỉ một khoảng lặng im giữa hai tiếng nổ
Đất căng ra trống trải chẳng dám nhìn
Buổi giao ban bàn giữ gìn che chở
Tín hiệu ngày - cột mốc của thời gian
Ngày qua ngày tiếng gáy vẫn âm vang
Bay vút lên dệt thành con sóng đỏ
Mặt trời ơi! Tiếng gọi người bừng lên rực rỡ
Không phải ở trên cây, từ chính những căn hầm
Lòng đất thâm trầm vùi ngọn lửa thân yêu
Như tiếng gọi đò ơi, như tiếng trống giục chèo
Từ những dây cung xanh chúng tôi bật ra thành hoa trên mặt đất
Để mắt ngay vào hướng tuần, hướng phục
Trong sân nhà gà bới đất bình yên...
Đoàn Tuấn
TỐI THỨ BẢY
Tối hôm nay là thứ Bảy rồi!...
Suốt ngày hầu như ai cũng nhắc
Trung đội trưởng cả ngày lo cắt gác
Gà lên chuồng
Lính ngồi vấn thuốc rê
Suốt cả tuần ngủ võng ướt sương khuya
Suốt cả tuần ăn muối hầm cơm vắt
Suốt cả tuần bàn chân bỏng rát
Tối thứ Bảy hôm nay đoàn du mục hạ lều
Chiếc đài như phong thư của người yêu
Cõng khối pin cồng kềnh chảy nước
Lính tráng ngồi quây quần trong căn hầm đại trưởng
Chuyện tiếu lâm hóp má rít thuốc lào
Đồng đội ơi đáng nhớ biết bao
Giữa những năm 80 mà chúng mình thèm nghe đài đến thế
Mai trở về quê hương, kẻ lên rừng xuống bể
Sẽ chẳng được cùng nhau chụm lại nghe đài!
Đoàn Tuấn
CHIẾC KHĂN RẰN KHƠ-ME
Bàn tay anh nâng trước ngực dải khăn
Anh đi bên bức phù điêu vũ nữ
Có phải mẹ Khơ-me nghèo khổ
Sinh Đê-vê-ta trên tấm thảm khăn rằn?
Mẹ bồng em trong chiếc nôi xanh
Chiếc nôi xanh ôm hình hài đất nước
Em lớn lên như mầm xanh thốt nốt
Võng khăn rằn ru giấc ngủ tuổi thơ
Em dệt vào khăn lộng lẫy tháp Ăng-ko
Hương rùm-đuôn và bóng xoài xanh mát
Dải khăn rằn trải tâm hồn đất nước
Như Biển Hồ đựng hành lý đời em
Em đi cấy mưa ướt dải khăn duyên
Bông hoa rừng đội trên đầu hé nở
Dải khăn rằn em vắt trên vai nhỏ
Như vầng mây trôi giữa mảnh trăng liềm
Dải khăn rằn nâng đôi cánh tay em
Như ngọn gió em quàng trong hội múa
Đêm răm-vông sẫm dần trên đồng lúa
Dải khăn rằn gieo chi chít sao đêm
Em đến tắm dòng sông soi bóng em
Soi điệu răm-vông soi bóng cây thốt-nốt
Em lấp lánh như dòng sông đầy nắng
Dải khăn rằn gợn sóng tấm thân em
Là khoảng trời xanh nỗi nhớ trái tim
Mái tóc mầu đêm dệt niềm chung thủy
Là bàn tay băng vết thương chiến sĩ
Là mùa màng gieo xanh lại quê hương
Khăn phập phồng mái tăng ở biên cương
Làn khói lam suy tư nơi đầu võng
Khăn mẹ đội cứ mỗi ngày thêm rộng
Hương tóc em thơm ngát dải khăn rằn
Cô gái nào cũng quàng dải sông Ngân
Bức chân dung trên quê hương Chùa Tháp
Trong mưa rét khăn gợi niềm ấm áp
Là tâm tình cô gái Khơ-me
Đoàn Tuấn
KHÚC DÂN CA TRÊN ĐIỂM TỰA
(Tặng vũ nữ Fôn-keo Khám-khiên, người biểu diễn khúc dân ca Khơ-me “Hoa đu đủ”)
Anh trồng trên điểm tựa khúc dân ca
Của quê em, ơi quê hương tình nguyện
Điểm tựa như chùm đảo xa nước hiếm
Khúc dân ca như con suối đầu nguồn
Thật lạ lùng sau đêm múa răm-thôn
Khúc dân ca như một người con gái
Hồn nhiên đến rồi dịu dàng ở lại
Thành quả chuông thánh thót giữa lòng người
Câu hát dắt anh về phum sóc em ơi
“Pờca-lơhông” (1) nở ngay đầu lối mát
Có em về rung rinh trong câu hát
Vòm lá xanh chao tiếng hát dập dìu
Anh cắt rừng đi từ sáng đến chiều
Lấy lục bình về phủ xung quanh gốc
Hoa đu đủ nở dịu hiền ánh mắt
Con bướm vàng thơ thẩn nỗi bâng quơ
Nắng nơi nào như rừng khộp mùa khô
Con ve sầu bỏ sang rừng xanh hát
Trái đu đủ đeo suốt mùa cơn khát
Chụm mái đầu uống dòng sữa dân ca
Pháo giặc băm loang lổ góc vườn nhà
Tổ dế mèn đất vẫn hồng mỗi sáng
Câu hát vẫn xòe ô xanh vươn thẳng
Đón mặt trời gần lại mỗi bình minh
Câu hát hình tròn em đi vòng quanh
Câu xanh biếc lăn tăn trong ánh mắt
Đồng đội anh buộc võng vào câu hát
Nên thân cây in dấu nghĩa dấu tình
Em đi rồi bóng mát tỏa lòng anh
Đêm tán lá thầm thì tay em múa
Nghe vọng lại như nỗi niềm ngọn lửa
Mà chim từ quy khắc khoải hai đầu
Đồng đội anh tìm thấy phép nhiệm màu
Trong bình dị khúc dân ca tình nguyện
Cứ nhìn vào cây đu đủ mà viết
Có bao điều xanh thắm lá thư xanh...
1982
-----
(1) Tiếng Khơ me: hoa đu đủ
Đoàn Tuấn
MIẾNG TRẦU PHUM CHOĂMSRE
Chiều mắc võng vào cây vỏ chay
Con chợt nhớ miếng trầu của mẹ
Mẹ ơi, Choămsre đẹp thế
Mà miếng trầu day dứt lòng con
Dây trầu không vườn mẹ xanh rờn
Bóng cau lẫn bóng hàng thốt-nốt
Khúc vỏ chay quánh khô mẹ gọt
Bàn tay gầy run run
Cả phum không một mẩu vôi non
Mẹ cặm cụi mò trai dưới suối
Lửa mẹ đốt vỏ trai hồng đêm tối
Để sáng mai có vôi trắng ăn trầu...
Ôi ước chi có được phép nhiệm màu
Con sẽ mời mẹ ăn miếng trầu cô Tấm
Con sẽ hóa thành hòn đá trắng
Mọc bên suối trong cho trầu mẹ đầm nồng
Cây vỏ chay đứng trầm ngâm trong rừng
Giấu dưới đất ngọn lửa hồng âm ỉ
Và tán lá ken dày ý nghĩ
Đêm trăng này mẹ đốt vỏ trai không?
Con mới đi chưa hết một cánh rừng
Mới giúp mẹ trồng được mùa lúa chín
Những đỉnh núi mây mù con sẽ đến
Để mẹ ăn trầu với hoa trắng quê huơng (1)
-----
(1) Ở Campuchia nhân dân rất quý vôi. Khi xin vôi ăn trầu, họ gọi vôi là hoa trắng.
Đoàn Tuấn
HẾT NƯỚC CẤM NHÌN
Thùng phuy nước ở chốt ngã ba
Ai đã viết dòng chữ than to tướng
HẾT NƯỚC CẤM NHÌN
Bởi ngày đêm
Ai qua đây cũng ghé tìm ngụm nước
Tranh thủ lấy chiếc khăn nhúng ướt
Thậm chí còn đóng đầy bi-đông
Mà quanh đây chẳng tìm đâu ra suối ra sông
Khiến lắm phen nước nấu cơm không có
Nhiều khi bắn được con thú
Không có nước mà làm
Được đi tắm là một nỗi hân hoan
Dù phải hành quân cắt rừng mười cây số
Và áo quần phải giặt giùm chục bộ
Mỗi lần được cấp nước
Í ới gọi nhau vui không giấu được
Đựng đầy xoong đầy bát đầy ca
HẾT NƯỚC CẤM NHÌN - dòng chữ đọc qua
Khách cứ nghĩ cậu nào đùa tinh nghịch
Khoác cả ba lô xăm xăm bước đến
Chỉ thấy nóng ran tiếng gió xát đáy thùng
Đứng lặng một mình
Bỗng từ trong hầm bật ra chuỗi cười trêu tức
Khách cũng bật cười
Cơn khát bỗng nguôi quên
HẾT NƯỚC CẤM NHÌN
Dòng chữ vẫn y nguyên
Đoàn Tuấn
DẢI ĐỒNG BẰNG THƯƠNG NHỚ
Những cái huyệt tôi đào trong rừng sâu
Giờ hóa thành dòng sông yên ả
Những nấm mộ đắp đêm mưa tầm tã
Thành triền núi cao không lên được bao giờ
Nơi đồng đội căng tăng và mắc võng
Thành những làng quê xa phủ sương mờ
Ơi chiến trường xưa
Đã trở thành miền quê thiêng thanh khiết
Trời và đất
Núi và sông
Xanh mênh mang bất diệt
Bao nặng nhọc máu xương để xanh thẳm dịu dàng
Tôi sẽ về, sẽ về lại mùa xuân
Dải đồng bằng suốt đời tôi thương nhớ
Đoàn Tuấn
GIẤC NGỦ
Chỉ còn ba mươi cây số nữa thôi
Về đến phum Giềng tha hồ mà ngủ
Mười lăm ngày truy quét
Mắt thâm quầng như vũng suối mùa khô
Chúng tôi ngồi trên bờ hút lá hà thủ ô
Vừa kể chuyện vừa mơ về giấc ngủ
Những năm tháng cầm tinh con ngựa
Không cần ngủ lâu
Chỉ cần ngủ sâu
Mình tặng cho mình
Ta tặng cho nhau
Giấc ngủ
Cốc rượu thơm cao quý trong ngày
Không đủ ngón tay
Để mà đếm bao nhiêu kiểu ngủ
Sốt rét nằm co
Ngủ hầm lưng đau nhức
Có giấc ngủ lưng chừng đỉnh dốc
Chân quặp vào hòn đá khỏi lăn
Ngủ cho quần áo khô
Ngủ cho qua cơn đói
Giấc ngủ chông chênh đứt rồi lại nối
Mắt suối mắt đèo trũng xuống đêm đêm...
Nhìn đồng đội nằm thêm yêu thêm thương
Người còn đeo ba lô, người còn mang dây lưng có bi đông, lựu đạn
Sau bao ngày căng thẳng
Lúc đi nằm dáng ngủ cũng cong queo
Ăn cơm khô
Đi đường tắt
Tắm tranh thủ
Ngủ khẩn trương
Hình như trong giấc ngủ chập chờn
Đồng đội tôi có điều gì thảng thốt
Bạn vào gọi tôi ra thay phiên gác
Chân nhẹ như sương thấm xuống lá rừng
Tôi khoác súng vin cành lần bước
Giữa vòm trời xanh ngát ngọn sao Mai...
1981
Đoàn Tuấn
BÀI THƠ KHÔNG VIẾT NHÁP
Bạn ơi có nghe chăng
Bài ca biển xanh hát
Lời ca như ánh sáng
Người lính là bài thơ
Nếu chúng tôi là thơ
Bài thơ không viết nháp
Câu chữ còn thô ráp
Hồn nhiên bước vào đời
Một ngôi sao sáng tươi
Bao niềm thương mến gọi
Một địa chỉ xa xôi
Gợi lên đầy rắn rỏi
Câu thơ từ lửa khói
Không đăng báo bao giờ
Lính viết và lính đọc
Chói ngời qua nắng mưa
Chỉ có thiếu và thừa
Không bao giờ lính đủ
Chiếc ba lô càng cũ
Càng chẳng có gì riêng
Yêu thương nào hồn nhiên
Bằng lá thư tọa độ
Cơn mưa nào cồn lên
Thoảng nhanh bằng nỗi nhớ
Một chiếc khăn mặt nhỏ
Nấu được nồi cơm ngon
Một con dao ngọn lửa
Đi khắp cùng núi non
Bữa ăn quây vòng tròn
Quanh mâm xanh thảm cỏ
Lá cành làm bát đũa
Khúc khích cười khen ngon
Vụng về trước làn hương
Thích được chiều được trách
Tỏ tình đến dễ thương
Toàn giọng con nhà lính
Đêm cánh rừng trầm tĩnh
Nhớ dòng sông bình yên
Đêm bạn mình ngã xuống
Đêm gọi mặt trời lên
Giặc trước mặt chúng tôi
Sau lưng là hạnh phúc
Sống chết từng khoảnh khắc
Mắt mẹ nhìn thiêng liêng
Qua vùng rừng mưa đêm
Qua ngàn ngày nắng gió
Nâng bước chân ánh lửa
Đi về phía Ngày Mai
Đoàn Tuấn
TÌM BẠN
Chiến dịch kết thúc rồi tôi quay về biên giới
Tìm xác bạn bè trên chốt cũ yêu thương
Hơn hai mươi con người, một trung đội tăng cường, hơn hai mươi tay súng
Sống lại cùng tôi những bạn đường
Không thể tìm ra đầy đủ một bộ xương
Đất cháy đen xỉ than
Xương cánh tay lẫn cành khô rơi vãi
Tấm bản đồ không mang lại một điều gì mới
Vệt máu động rỉ ra nhức nhối mắt nhìn
Từng khoảng thời gian, từng trận đánh, từng người một, cứ nhớ thế mà tìm
Đồi 328, chốt X.B... chỗ nào cũng gặp bạn bè đang sống
Vẫn nói cười, vẫn thổi mắt cho nhau, ôm súng xông lên và những loạt Đ.K dập xuống
Bạn bè tôi hóa trăm mảnh sao trời...
Lòng tôi đau một nỗi khổ không nguôi
Đâu cũng gặp mà tìm không thấy
Đêm ngủ trong những căn hầm còn lại
Nham nhở những mảnh trăng hình phễu hứng sương trời...
Hơn hai mươi chiếc túi mang theo dồn một túi không đầy
Chiếc gùi nhẹ trên vai bao cuộc đời sông núi
Đồng đội tôi nằm đây chưa thể nào ngủ nổi
Những mảnh pháo mảnh mìn đau cấn lắm dưới lưng
Cây cháy vẫn đen thui, chim chưa trở lại rừng
Đi tìm suốt mấy ngày bỗng sáng nay gặp một bông hoa dại
Ánh mặt trời đọng sáng những hạt sương
Những người nằm xuống rồi đều có chung một gương mặt tươi sáng lạ thường
Tôi bỗng dốc bi đông tưới cho bông hoa nhỏ
Bông hoa nhìn theo mỗi bước tôi đi...
1979-1985
Đoàn Tuấn
NGÀY TÔI RỜI MẶT TRẬN
Tôi nhập ngũ ngày Hăm mốt tháng Tám
Nhưng không bao giờ quên ngày từ giã chiến trường
Ngày tôi rời mặt trận
Tôi - thượng sĩ Đoàn Tuấn
Cao một mét sáu mươi nặng bốn mươi lăm ký
Trong người mang vi trùng sốt rét
Mấy vết thương không cần giám định
Ngày tôi rời mặt trận
Bạn bè đứng tiễn rất đông
Nhưng tôi không dám nói lời từ biệt
Trên đường về nước
Có thể hy sinh như đứa bạn gần nhà
Ngày tôi rời mặt trận
Mang theo hình ảnh anh Nguyễn Mạnh Hùng
(Người thẩm tra lý lịch tôi vào Đảng)
Anh hy sinh. Bị bọn địch chặt đầu
Trong trí nhớ tôi vệt lưỡi mai còn cắm
Đọng máu đầy khô đen
Ngày tôi rời mặt trận
Mang theo hình ảnh Lê Thanh Vinh, đứa bạn cùng trường
Hôm ấy tôi được phân công đi đầu dẫn tiểu đoàn gùi gạo
Trên con đường mìn nhiều. Chắc chắn sẽ hy sinh!
Và đêm. Vinh khoác súng sang hầm tôi, lặng im rồi nói:
“Để mai tao đi đầu. Tao chết đỡ phí hơn vì mày có người yêu ở nhà đang đợi!”
Ngày tôi rời mặt trận
Bâng khuâng đi qua Kầm-prạ, phum Giềng
Choăm Ka-an, Ku-len, An-lung-viêng, Đăng-rếch...
Những địa danh không còn nghe trúc trắc
Bao thân thương máu thịt một thời
Ngày tôi rời mặt trận
Đưa thi hài đồng đội trở về
Chiếc GMC phóng như bay qua rừng cây báng súng
Đến biên giới trời vừa tối
Không nghỉ lại dù đói
Chúng tôi lao ngay về Đức Lập
Đêm cao nguyên mưa xối
Người gác nghĩa trang hẹn mai sáng sẽ làm
Cả đêm ấy chúng tôi không thấy mệt
Khiêng quan tài xếp ngoài cổng nghĩa trang
Ngày tôi rời mặt trận
Về Diêu Trì truy lĩnh 5 năm phụ cấp
Một tạ gạo ăn trong sáu tháng kiếm việc làm
Bán luôn cho thủ kho lấy tiền tiêu vặt
Biếu mẹ làm quà hai mét vải phin!
Ngày tôi rời mặt trận
Không dám một mình đến nhà những người bạn hy sinh
Cảm thấy mình như người có lỗi
Tôi sợ nhìn nước mắt mẹ bạn tôi
Ngày tôi rời mặt trận
Gian khổ tạc cho tôi gương mặt người lính
Những trận đánh rèn cho tôi đôi mắt mở to, cái nhìn điềm tĩnh
Và thời gian tặng cho tôi bản lĩnh...
Ngày tôi rời mặt trận
Vừa đặt chân về đến Hà Nội
Dốc hết tiền
Mua một chiếc đồng hồ đeo tay...
1984
Đoàn Tuấn
KÍNH GỬI SƯ ĐOÀN 307
Sư đoàn tôi đã trở về Tổ quốc
Giữa Matxcơva tôi xúc động nhìn
Trên màn hình đồng đội tôi đang bước
Tôi trở về ngược lại cánh rừng Miên
Sư đoàn tôi đã trở về Tổ quốc!
Nhưng không đủ đâu, không đủ cả Sư đoàn!
Còn lại bao nấm mồ, hài cốt
Đồng đội tôi giá lạnh giữa rừng hoang?
Ôi tôi nhớ mùa mưa năm 81
Dân “lùn” dặn tôi duy nhất một điều:
“Nếu mình chết, đồng hương nhớ chôn mình đầu quay về Tổ quốc!”
Tôi cũng thầm dặn lại bấy nhiêu
Tôi đã chôn bao nhiêu đồng đội
Đã bốc mồ tận nghĩa địa An-lung
Quần nát rừng tìm xác trên biên giới
Nhìn Sư đoàn về nước rưng rưng
Tôi đã về hậu phương báo tử
Bao bà mẹ hỏi tôi: Xác con mẹ nơi nào?
Tôi trao mẹ vài di vật cũ
Còn sống trở về tôi có lỗi biết bao!
Sự đoàn tôi đã trở về Tổ quốc!
Đồng đội tôi khôngcó việc gì làm
Đi tay trắng trở về hoàn tay trắng
Huân chương nào trao được trước xe lam?
Sự đoàn tôi đã trở về Tổ quốc!
Nhưng muôn năm vẫn đóng ở núi rừng
Tôi như thả hồn mình về nước
Cùng sư đoàn bình yên một giấc chung
Đoàn Tuấn
TRỜI SAO
Những ngôi sao chi chít giữa bầu trời
Tôi căng mắt nhìn. Làm sao đếm hết?
Như trong tôi dày đặc bao kỷ niệm
Nhũng chuyện vui buồn năm tháng chiến tranh
Trong ngàn vạn người lính sư đoàn
Mấy ai trở về sống bằng nghề viết?
Chỉ chuyện mình thôi, làm sao kể xiết
Còn nói chi đến tiểu đội, trung đoàn?
Sáu năm lính của tôi - khoảng rất nhỏ thời gian
Nếu so với bao người trong đơn vị
Sao so với dân tộc tôi bền bỉ
Suốt thế kỷ qua kháng chiến trường kỳ
Cả dảy Ngân hà lộng lẫy trên kia
Có sáng đẹp bằng sử thi đất nước?
Có nhiều bằng những điều chưa kể được
Của những người đã sống, đã hy sinh?
Và trời sao mãi mãi lung linh
Vẻ đẹp ấy có thể nào nắm bắt
Ta tuyệt vọng nhìn sao hay khao khát
Trước từng trang giấy trắng đợi hằng ngày?
Đoàn Tuấn
KỶ NIỆM NGÀY NHẬP NGŨ
Đồng đội ơi! Kỷ niệm ngày nhập ngủ
Gặp nhau sau bao năm tháng thăng trầm
Xin ôm chặt cựu binh chiến hữu
Từ núi rừng phi xuống, đất biển lên...
Giờ tất cả đầu đã hai thứ tóc
Mà tưởng như ngày ấy tuổi thanh xuân
Đói khát, ốm đau, pháo, mìm, chết chóc
Lũ chúng ta thành kỷ niệm tuyệt trần
Nào uống cạn! Trong lung linh ánh mắt
Giữa chúng ta hiển hiện những bóng hình
Những cánh rừng, những mùa khô, phum sóc
Cả mối tình tuyệt vọng dọc trường chinh
Nào uống cạn! Giữa chuỗi cười hạnh phúc
Mắt bỗng cay bao đồng đội không về
Những bàn chân, những cánh tay bị mất
Trọn đời ta còn giữ mãi lời thề
Nào uống cạn! Uống thay ngày xuất ngủ
Mừng chúng ta còn nguyên vẹn thân hình
Sau ta, sau ta mong đừng ai nữa
Biết thế nào là một cuộc chiến tranh
Đoàn Tuấn
Thơ
Lê Minh Quốc
(Đoàn Tuấn giới thiệu)
TRÊN NHỮNG NẺO ĐƯỜNG CHIẾN TRANH
Tôi nhớ mãi một buổi chiều trung tuần tháng 12 năm 1978. Tôi đang nằm trong một căn hầm giữa rừng lồ ô trên biên giới Việt Nam - Campuchia thì nghe ngoài cửa hầm có tiếng nói chuyện giữa Lê Quỳnh Lang, trung đội trưởng thông tin của tôi với một người nữa. Người này có giọng to và sảng, dứt khoát. Anh đòi mượn tập thơ Việt Nam mà tôi mang vào chiến trường. Lang dùng dằng, nói là của người khác. Nhưng anh ta cứ đòi, cứ giằng lấy. Cuối cùng, Lang phải gọi tôi ra. Tôi chui lên. Trước mặt tôi là một chàng thanh niên không có vẻ gì là lính nhưng mặc quần áo lính rất xịn, vai vắt chiếc khăn mặt xanh. Anh để tóc dài. Gương mặt vuông vắn, trắng trẻo, đẹp trai. Tôi chưa kịp nói gì, anh ta đã bắn liên thanh phủ đầu:
- Ông cho tôi mượn tập sách này nghe. Tôi hứa là sẽ giữ cho ông thiệt cẩn thận. Thôi, tôi về nghe!
Tôi chưa kịp nói gì, đành nở nụ cười nhũn nhặn. Tôi đang mệt mỏi, vừa trải qua trận sốt rét kinh người. Cứ đúng 5 giờ chiều lại gây gây lên cơn. Được thôi. Tập thơ ấy, tôi đã đọc. Và ở chiến trường có một người cướp thơ như thế, còn gì quý hơn. Tôi nhìn theo dáng đi kềnh càng như giữa chốn không người của anh ta. Anh đi băng băng về đơn vị như con hổ vừa vồ được chú thỏ non. Tôi hỏi Lang:
-Ai đấy?
-À, đó là Quốc. Lê Minh Quốc, quản lý đại đội 7.
Dạo đó đơn vị tôi, tiểu đoàn 8, trung đoàn 29, sư đoàn 307 đang phải đánh nhau với Pôl Pốt dọc biên giới Việt Nam - Campuchia thuộc địa phận tỉnh Gia Lai - Công Tum. Các đại đội vào chốt thay nhau, lại phải rải quân dài mấy chục kilômét nên lính tráng, tuy cùng đơn vị, nhưng ít gặp nhau. Trong mắt tôi, người quản lý đại đội là người cân đo đong đếm từng hạt gạo hạt muối cho 50 người mỗi ngày - mà yêu thơ thì quả là lạ. Nhưng về sau, tôi nghe Trần Đào Hiền Nhân, đồng hương tôi ở đại đội 7 khoe rằng, ở đó, lính ăn khá nhất vì Quốc cho ăn thả cửa! Thảo nào sau này, khoảng năm 1981, Quốc mất chức quản lý, trở thành lính chiến đấu trực tiếp.
Ít lâu sau, tôi tình cờ gặp lại Quốc trên đường chiến dịch, ở tỉnh Công Pông Thom. Quốc nhìn tôi, cười nhận lỗi:
- Tập sách của ông, tôi cố gắng giữ nhưng nhiều thằng đòi đọc quá. Mỗi thằng xé trộm một bài. Giờ nằm rải rác khắp nơi. Tôi rất cố gắng nhưng vẫn không thể nào lượm lại được.
Giọng Quảng Nam của Quốc cùng cách nói phân bua bằng tay một cách trung thực khiến tôi tin ngay. Tôi mỉm cười. Thậm chí thấy vui vì nghĩ đến hình ảnh tập thơ được xé lẻ, mỗi người giữ một vài bài. Chi tiết này có thể viết được một câu chuyện hay.
Tôi là lính thông tin tiểu đoàn. Được trực ở Tiểu đoàn bộ trong chiến dịch giải phóng Campuchia. Nhẽ ra, cả tiểu đoàn tôi đã hy sinh khi đánh đồi 328, điểm cao X.B, vào ngày 23.12.1978 rồi. Bởi sau này, tôi được một thằng bạn ở Sư đoàn tiết lộ rằng, Sư đoàn quyết định “tung” tiểu đoàn tôi để đột phá cửa mở chiến dịch, nếu gặp địch kháng cự mạnh! Nhưng sáng sớm ngày 23.12, mới bắn pháo và đại bác lên đồi 328 và X.B, chừng hơn 1.000 quả, địch đã rút. Đơn vị tôi chiếm được quả đồi khi trời còn chưa tan sương. Nếu không may, tôi và Quốc cùng hàng ngàn đồng đội đã thành đất ở đó ngay từ những ngày mới quen nhau. Nghĩ lại, vừa mỉm cười, vừa rùng mình.
Sau đó tôi được cử đi phối thuộc với các đơn vị khác. Đến tháng 5.1979, tôi mới được phân công đi theo C7, tức đơn vị Quốc. Dạo đó, đơn vị Quốc nhận nhiệm vụ đón 5 vạn dân tị nạn từ Thái Lan trở về. Đại đội có chừng 40 người nhưng phải rải ra trên quãng đường dài 60 kilômét. Tôi đặt máy thông tin Silic-71 của Trung Quốc trong trường học cũ, dưới mái nhà tôn. Đối diện bên kia, qua sân rộng, là nhà của y tá Nguyễn Quốc Vương, mấy anh nuôi và quản lý Quốc. Được gần nhau, chúng tôi toàn nói chuyện văn chương. Lúc ấy coi như hai đứa từ hai nền văn hóa, hai nền giáo dục khác nhau, kẻ Bắc người Nam, giờ cùng là lính, chuyện trò thật hấp dẫn. Tôi kinh ngạc vì Quốc đọc nhiều, thuộc nhiều và làm rất nhiều thơ.
Dạo đón dân tÿ nạn, tôi và Quốc cũng như nhiều anh em C7 được dân tÿ nạn, hầu như là người Hoa tất, cho rất nhiều vàng, bạc, kim cương nhưng hầu như không ai dám lấy. Buổi chiều mùa mưa, tôi chỉ căng giúp một người phụ nữ có con nhỏ tấm vải mưa thành cái lều thôi, chị ta cũng cho tôi cả một cái hộp có 12 hạt xoàn, nhưng tôi vội từ chối ngay. Chị lại mời uống cà phê với lạc, tôi cũng không dám. Nhớ một buổi trưa, tôi ngồi chỗ Quốc, có cả y tá Vương, người Tam Kỳ, nói chuyện tào lao. Bỗng ngoài cửa, xuất hiện ông già Khơme trong đoàn tÿ nạn. Ông vừa thấy chúng tôi, vội quỳ ngay xuống đất ướt, vái lấy vái để “xin bộ đội Việt Nam đôi giày”. Tôi nhìn bàn chân phồng rộp, rướm máu của ông mà lạnh người. Thật khó cho chúng tôi vì chúng tôi cũng rất thiếu thốn. Ăn cơm độn ngô, đi giày thủng. Quốc mò vào chỗ để gạo, tìm được đôi giày rách nhưng khô ráo, mang cho ông già. Quá cảm động, ông già lấy từ trong túi ra một nắm những thỏi vàng cho chúng tôi. Nhưng chúng tôi vừa xua tay vừa nói bằng tiếng Khơme: “Không lấy đâu”. Ông lại hỏi chúng tôi bằng tiếng Việt, xin ít muối. Quốc xúc cho ông một muôi. Sợ chúng tôi nghĩ lấy vàng là độc, ông già lại cho chúng tôi nắm bạc. Nhưng chúng tôi kiên quyết không lấy một thứ gì. Chúng tôi thừa hiểu giá trị của vàng bạc nhưng không lấy. Tôi chỉ nghĩ đơn giản một điều: lúc đi lính, mình không có vàng. Nhớ mình lấy, đêm chết, đơn vị kiểm tra di vật tử sĩ, thấy có vàng trong ba lô, không những mình không ra cái gì mà gia đình mình ở phía sau cũng không được anh em tôn trọng. Những ngày đó, tôi và Quốc cùng Nhân “mù” và An “bột” thường lội qua suối, sang phum bên, đến chơi nhà “bà má Hậu Giang” - một bà má Việt kiều, nhờ vá áo và mò vào các vườn nhà dân bỏ trống, hái trộm xoài ăn. Vậy thôi. Còn rất nhiều chuyện không tham vàng của Quốc mà tôi không biết. Chỉ biết sau này Quốc được đơn vị đề nghị Trung đoàn thưởng Giấy khen vì thành tích “không tham của lạ, giữ vững danh hiệu Anh bộ đội Cụ Hồ”.
Đầu năm 1980, tôi phải chia tay đơn vị Quốc. Tôi được cử đi với đại đội 5, lên đóng quân ở phum Kầmprạ, một phum heo hút nhất của tỉnh Prếch-vihia nằm tít tận biên giới Campuchia - Thái Lan. Ở đó tôi đã sống những ngày rất vui nhưng cũng đầy đạn, đầy mìn, đầy thương vong, hy sinh của anh em trong đơn vị.
Đến đầu mùa mưa năm 1981, khoảng tháng 6, cả Tiểu đoàn tôi được lệnh chuyển lên khu vực An-lung-viêng để chặn đường vận chuyển lương thực, đạn dược từ Thái Lan về của địch. Thời gian này Quốc thôi chức quản lý, phải làm lính trơn. Vì nghe đâu, được giao chức tiểu đội trưởng, Quốc không nhận. Những ngày đó thật ác liệt. Ngày nào cũng đánh nhau. Hết bị địch phục lại bị địch tập kích. Đi gùi gạo, gùi đạn thì vấp mìn. Ngày nào cũng có người bị thương hoặc hy sinh, không của đơn vị tôi thì của đơn vị khác chuyển đến. Tôi nhớ mấy cái sạp làm tạm ở bìa rừng dành cho thương binh, tử sĩ, lúc nào cũng đầy máu. Vừa khiêng người này đi, chưa kịp lau máu đọng trên sạp thì đã phải đặt người khác vào. Tranh thủ lúc rỗi, chiều nào tôi cũng bẻ mấy cành tre xuống xua ruồi, đuổi muỗi cho anh em bị thương nằm la liệt không cử động được. Chính dạo ác liệt đó, tôi được chuyển từ thông tin lên thay anh Nguyễn Văn Cúc, người Nghĩa Bình, làm trợ lý chính trị Tiểu đoàn. Anh Cúc về làm phó Đại đội trưởng C6. Quân số hy sinh quá nhiều. Lúc đầu còn có máy bay lên thẳng HU-IA đến chở đi hoặc chuyển lên Sư đoàn bằng cách khiêng bộ. Sau máy bay không có nữa. Khiêng bộ thì tốn kém. Hai trung đội dải đường dài 16 kilômét từ đơn vị đến phum Camtuất, cộng một tiểu đội dẫn đường, lại thêm mấy người thay nhau khiêng một ca. Mà vẫn bị phục, vẫn bị mìn clâymo quạt. Thêm bao nhiêu người hy sinh. Người chết rồi bị chết thêm lần nữa. Cuối cùng Sư đoàn quyết định làm một nghĩa trang ở ngay giữa Tiểu đoàn tôi. Cử thêm một trung đội vận tải xuống chuyên cưa cây, xẻ gỗ, đóng quan tài. Nghĩa trang được làm nằm giữa Tiểu đoàn bộ và đơn vị Quốc. Tôi biết Quốc phải đi tuần, đi phục liên tục. Rất dễ hy sinh. Mà tôi được tiểu đoàn giao nhiệm vụ giữ di vật tử sĩ và tổ chức chôn liệt sĩ cho chu đáo. Chính trị viên Nguyên Văn Vẳng giao nhiệm vụ cụ thể cho tôi: “Chôn vì người sống chứ không chỉ vì người chết. Làm sao để anh em đang sống, nhìn vào, biết được rằng, khi họ hy sinh, cũng được đối đãi tử tế như thế!”
Tôi hiểu. Và làm hết sức mình. Đun nước. Nhặt thịt xương. Rửa ráy. Chắp lại. Xếp cho đủ các bộ phận cơ thể. Mặc quần áo. Quấn vải liệm. Gác đêm, canh thú rừng khỏi mò đến ăn xác. Đào huyệt. Tổ chức đội vệ binh đứng bên bờ huyệt. Đọc lời điếu và bắn súng tiễn biệt đàng hoàng. Sau đó mới chôn. Hết sức “oách” theo kiểu nhà binh.
Tôi cũng chôn cất nhiều người của đơn vị Quốc. Một buổi chiều, đi gùi đạn, về qua đơn vị Quốc, tôi thấy một căn hầm lạnh tanh, mốc, trống trơn. Tôi thoáng rùng mình. Anh em trong hầm đã hy sinh cả. Tôi không thể nghĩ đến số phận Quốc thế nào. Thỉnh thoảng, anh Lâm Xuân Liễm, trợ lý tác chiến tiểu đoàn, lại rủ tôi sang chỗ Quốc uống rượu. Đi uống rượu nào có an toàn. Khoác AK, đội mũ cối, mặc trời mưa, phải bò qua hai vọng gác, bò qua nghĩa trang. Khi qua đó, tôi thấy anh Liễm lại lầm rầm khấn anh em phù hộ cho mình được sống. Tôi cũng thầm khấn theo.
Chính những ngày ác liệt đó, tôi biết Quốc làm thơ, ghi nhật ký nhiều. Tôi nhớ một lần Quốc vừa cười vừa khoe đơn vị Quốc chuẩn bị làm báo tường và Quốc đóng góp một bài thơ có tên là “Tường Vi”. Những bài thơ của Quốc ở An-lung-viêng rất lãng mạn, mơ về cuộc sống thanh bình, có những buổi chiều vàng, có người chị hát ru, có bóng dáng người con gái dịu hiền. Nhưng bao trùm lên là những dòng nhật ký, ký sự nóng hổi về cuộc sống gian lao, về cuộc chiến kinh hoàng, về những đồng đội thân yêu đột ngột hy sinh một cách không thể tưởng tượng nổi chỉ vì mìn. Và đến lượt Lê Minh Quốc, cái chết không buông tha. Một sáng đi tuần, chàng trai của thành phố Đà Nẵng đi đầu, vấp ngay phải quả mìn của địch. Nghe “tạch” một cái, mọi người chưa kịp nằm xuống thì quả mìn đã nảy ngang người Quốc. Nhưng nó không nổ mà rơi bịch xuống đất. Sau phút hoảng hồn, mọi người nhặt quả mìn lên. Thì ra quả mìn đó bị tra kíp ngược. Mặt Quốc tái xanh, được phen cận kề cái chết, nếm cảm giác bất ngờ sang thế giới bên kia. Trưa đó, Nhân “mù” khoác súng sang chỗ tôi, vừa cười vừa nói:
- Mẹ kiếp! Hôm nay thằng Quốc suýt toi! Chắc thằng ôn dịch là lính mới nên mới tra kíp ngược!
Ngừng một lát, Nhân mù nói tiếp:
- Số thằng Quốc vẫn may! Nó chết đi thì tiếc thật!
Phải nói thật lòng rằng, lính Hà Nội chúng tôi ai cũng quý mến và chơi thân với Quốc. Trong Quốc có một cái gì ngang tàng, phóng túng, rất thành phố. Tôi sang thăm Quốc. Buổi trưa. Quốc ngồi một mình trên thân cây đổ đã cháy đen ngọn. Quốc nở nụ cười hiền lành. Nụ cười sau cái chết. Tôi không quên.
May cho tôi, không phải chôn một trong những người đồng đội thân yêu nhất trong quãng đời làm lính của mình!
Mùa khô năm sau, nhiệm vụ hoàn thành, tiểu đoàn chúng tôi được rút về phum Giềng để củng cố. Tôi và Quốc cùng một số bạn thân thường mang quần áo lính vào phum đổi gà, chó về bồi dưỡng sức khỏe. Tối đến lại mò sang chỗ hạ sĩ Huy Lụa, người Nghĩa Bình, bí mật nghe Khánh Ly hát từ hải ngoại. Đêm đến, tôi và Quốc thường thức làm thơ. Những bài thơ không đăng ở đâu, âm thầm viết. Âm thầm đọc cho nhau nghe. Sợ anh em biết được, kêu là dở hơi. Cán bộ biết được sẽ phê bình là tư tưởng yếu hèn.
Sang cuối năm 1982, tôi được chuyển lên Trung đoàn. Quốc vẫn ở đại đội 7. Tôi nhớ mãi một câu chuyện cảm động. Mỗi lần Quốc về Trung đoàn gùi gạo - đường dài 15 cây số - Quốc thường ghé vào tôi. Gặp nhau mấy phút buổi trưa, không kịp mời nhau bát nước thì chỉ huy đơn vị Quốc đã giục về. Có lần Quốc nhét vào tay tôi lá thư rồi đi luôn. Tôi nhìn theo dáng Quốc đầm đìa mồ hôi, còng lưng gùi ba lô gạo nặng chịch. Tôi về hầm, mở thư ra. Những dòng thư thật thương cảm:
“Tuấn ơi, mai lên E gùi gạo. Biết gặp nhau chẳng được lâu, chẳng nói được chuyện gì, Quốc viết thư nầy trước để Tuấn đọc...”. Những dòng thư ấy đã thấm vào máu thịt tôi. Thư toàn nói chuyện văn chương, về mơ ước về một cuộc sống bình yên. Thư Quốc viết hay, rất ấn tượng. Tôi rất muốn viết một cái gì đó về kỷ niệm này mà chưa thể hiện bằng cách nào được. Lại nhớ một lần Quốc viết cho tôi: Người ta có một tình yêu đẹp nhưng không biết cách kể, tình yêu ấy sẽ không đẹp nữa.
Rồi Trung đoàn được bổ sung lính mới. Quốc được ra quân. Những đêm cuối cùng ở Trung đoàn làm giấy tờ ra quân, Quốc cho tôi xem hai quyển sổ thơ của mình. Tôi thực sự bàng hoàng trước những bài thơ - nhật ký trận mạc rất hay của Quốc. Quốc dặn tôi đưa lại trước 10 giờ đêm vì Quốc phải về nơi tập trung nghe phổ biến kế hoạch hành quân về nước thế nào. Tôi kiếm dầu cà-boong cắm đầu đọc một mạch. Thực sự phục tài năng của Quốc. Nhưng tiếc thay, một sự tiếc nuối ngang với việc chết người. Sau này tôi hỏi Quốc: “Sao không lấy thơ chiến trường ra in?” Quốc buồn bã trả lời: “Mất mẹ nó rồi...” Thì ra, đêm ấy nghỉ ở C19 vận tải, lính tráng thiếu giấy hút thuốc rê, đã lục ba lô Quốc ăn trộm, xé hết sổ. Quốc sang chỗ Lai - thông tin, nhậu. Về ngủ luôn. Sáng dậy, sờ đến ba lô, thấy mất nhiều thứ. Đành tự an ủi mình có niềm vui sắp được trở về quê hương.
Tôi cảm thấy như mình bị trọng thương.
Đến bây giờ viết những dòng này, tôi vẫn còn ngao ngán, mệt mỏi. Phải chi những cuốn sổ đó còn đến bây giờ?
Tôi nhớ những câu thơ của Quốc:
Chiều cuối năm ngồi một mình
Xôn xao trời đất gập ghềnh niềm tin
Bay qua trời mấy cánh chim
Cho mòn con mắt dõi nhìn quê xa
Nửa đêm thức dậy nhớ nhà
Bỗng ôm mặt khóc như là trẻ con
*
Rừng đông bắc có con chim hay hót
Như nỗi lòng người lính xa quê
*
Em ơi đất lửa chiến trường
Làm sao vọng lại gió hương bạch đàn
Mùa xuân ơi có hân hoan
Trăng đêm Đà Nẵng, nắng vàng Tây nguyên
*
Giã từ mày nhé! Đăng Lâm
Chiều mưa năm ấy ướt đầm Đắc Đam
*
Mùa khô
em bé Khơme bú bầu sữa mẹ
những hạt sữa nóng như hạt lửa
*
Một ngày đi ba chục cây số vẫn chưa được nghỉ
Dáng người đi như cây khộp khẳng khiu
(Vâng, đó là nhưng câu thơ của Lê Minh Quốc còn nằm trong trí nhớ của tôi từ dạo còn ở chiến trường K. Tôi xin ghi ra đây. Nếu lúc nào chợt nhớ những câu thơ khác, tôi xin ghi tiếp).
Quốc đi rồi, phải hai năm sau tôi mới phục viên chuyển ngành về khoa Văn, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Và cũng trong thời gian đó, tôi nhận được thư Quốc, báo tin vui là đã trúng tuyển vào khoa Văn, trường Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. Rồi thư Quốc kể chuyện trước ngày nhập trường, đi thăm Hội An, Ngũ Hành Sơn, thăm cố đô Huế. Những lá thư chan hòa tình cảm rất đặc biệt của Quốc với thiên nhiên. Những lá thư đó đến nay tôi vẫn giữ.
Hà Nội. Đêm 12.7.1996
ĐOÀN TUẤN
ĐẤT NƯỚC VÀ NGƯỜI LÍNH
I
Em hãy cùng tôi đến thăm người lính trẻ
trở về quê nhà đang tập hát ru con
lời ru vụng về mênh mang hương lúa chín
dẫu hai mươi năm tâm hồn họ mỏi mòn
Em hãy hát lên cho người tình yêu dấu
trở về từ Plây me hay chiến khu Đ
đôi mắt rưng rưng muộn phiền từ đất lửa
đang thèm khát yêu thương đang cần được vỗ về
Đất nước không còn chiến tranh, mẹ già lên núi
tìm xương con mình thầm hát thong dong
“cái cò lặn lội bờ sông
gánh gạo đưa chồng nước mắt nỉ non”
mẹ thao thức như chưa hề ngủ được
ngồi hiên nhà ngóng đợi đứa con xa
bếp lửa cũng trăn trở đêm khuya âm ỉ sáng
thắp từ thâm tâm mẹ ngọn lửa đợi chờ
Hai mươi năm đất nước mình chia cắt
khúc ruột mẹ đứt đoạn hai miền: Nam Bắc
đứa con lên rừng, đứa vượt tuyến sang sông
mẹ nhớ thương nước mắt chảy ròng ròng
Tôi lớn lên tự cội nguồn dòng Bến Hải
nghe lời mẹ ru vật vã muộn phiền
trái tim đau từ vĩ tuyến mười bảy
đánh mất tự bao giờ năm tháng hoa niên
Hai mươi năm dài hai mươi năm trằn trọc
từng đêm nhìn pháo bắn đỏ quê hương
em bé xuống hầm lật trang vở học
mơ được tung tăng cùng bè bạn đến trường
ngày ấy anh tôi trở thành người lính
máu thịt một phần gửi lại Quảng Trị, Đức Cơ...
người vợ trong chiến tranh khát khao làm mẹ
thèm khát sinh con để được hát ầu ơ
Em hãy hát ngày quê nhà đoàn tụ
anh thương binh chống nạng dạo quanh làng
nhìn rẫy sắn nương khoai ngày lúa chín
không nghe tiếng đạn gầm, nghe tiếng mẹ hò khoan...
II
Sáng nay mở cửa thấy cờ bay trên phố
mỗi lá cờ mang một mặt trời hồng
cánh bướm bay đem theo làn sương mỏng
trong tim mình chim chóc hót thong dong
Đất nước hồi sinh từ tràng hoa sứ trắng
em bé hồn nhiên đang theo mẹ đến trường
dẫu ngỡ ngàng nhưng đời đầy hoa nắng
chim đã về ca hát trên nương
Mẹ cưu mang tình yêu của mẹ
hai mươi năm dài tuổi tác già nua
đất nước hồi sinh mẹ như trẻ lại
kể chuyện mừng vui trong ngày hội gặt mùa
Ai đã khóc khi nghe còi thống nhất
chuyển bánh cho lịch sử sang trang đến thành phố Bác Hồ
có phải ngăn tim nhỏ và niềm vui ngây ngất
máu ba miền tụ lại một thủ đô
Cờ giải phóng như lòng mình reo phơi phới
người lính về cuốc đất trồng khoai
thèm nghe tiếng đánh vần, nghe trẻ thơ gọi mẹ
được đổi đời mơ ước có xa xôi
III
Thuở tôi lớn, những tháng năm giông bão
đi giữa quê nhà mà đôi lúc bơ vơ
ngày tháng trôi như bông hoa tí ngọ
cứ nở bình yên mỗi sáng mười giờ
Thuở tôi lớn, mẹ chắt chiu hạt gạo
mỗi bữa cơm độn thêm sắn khoai
cha còng lưng kéo xe ngoài phố
nhưng môi cười đã khắc khoải niềm vui
Thuở tôi lớn, vé tầu vé xe vào rạp hát
chỉ có thể mua từ tay con buôn
nếu không muốn làm cái đuôi xếp hàng chờ đợi
con người vẫn nhiều hơn lũ dế giun
Thuở tôi lớn, điệu nhảy valse không còn trên đường phố
ghế đá công viên nhiều gái điếm hơn những cặp tình nhân
xe ô tô không nhiều hơn xe đạp
điện chưa nhiều bằng ánh sáng đêm trăng
Thế mà hoa đến giờ vẫn nở
như mặt trời bát ngát tự phương đông
ngày qua ngày vẫn hồn nhiên họp chợ
trẻ học ê a, lúa vẫn nở thắm đồng
Thuở tôi lớn, đất nước hồi sinh từ khu triển lãm
khẩu hiệu nhiều hơn những công trình
nhà máy điện còn nằm trên bản vẽ
chinh phục thiên nhiên bằng những mô hình
Thuở tôi lớn, có những cô con gái
ngúng nguẩy mái tóc đơmi gac - xông
những cô gái đã một thời son phấn
về lại quê hương cùng với gót chân trần
Thuở tôi lớn, cũng có người xa rời Tổ quốc
thân phận lênh đênh cùng sóng đại dương
họ đi tìm tự do và lý tưởng
hay tìm nỗi li quê và năm tháng đoạn trường?
Thế mà hoa đến giờ vẫn nở
rất tự nhiên như tiếng gà đánh thức bình minh
lúc yêu nhau vẫn hẹn hò trên bãi cỏ
mời uống cà phê thong thả viết thư tình
IV
Năm 1975, tưởng khẩu súng chỉ nằm trong cổ viện
đất nước hân hoan vòng nguyệt quế rạng ngời
đất nước đoàn viên đâu còn đưa tiễn
chim bồ câu ngậm cành hoa ô-liu bay rợp bầu trời
Vậy mà lửa từ bên kia biên giới
lửa đốt phòng cưới của chị xã viên
lửa đốt cánh đồng lúa lên phơi phới
em thơ giật mình giấc ngủ lật nghiêng
Chúng nó muốn nã pháo trên đầu mẹ
muốn bẻ gãy chiếc đòn gánh mẹ tì trên vai mấy ngàn năm
hối hả áo xanh lên miền xa biên giới
chặn bàn tay chém mẹ nhát dao đâm
Chúng tôi rời mái trường trở thành người lính
gửi lại quê nhà ước mơ thành người thợ, nhà văn
gửi lại môi hôn cho người tình bé nhỏ
mang lên rừng tiếng chim gáy vang ngân
mang lên rừng tiếng còi xe buýt
để nhớ về thành phố tuổi lên năm
để nhớ quê nhà đến đầu nguồn Tổ quốc
máu một dòng gắn bó thương thân
Mảnh đất biên thùy pháo bầy cấp tập
trên tán lá xanh non chim vẫn hót vô tư
tôi ngủ trong lòng mẹ - vững bền trong lòng đất
ngâm câu: Nam quốc sơn hà nam đế cư
Những kilômét đường rừng tôi đi - nếu đem cộng lại sẽ thấy dài bằng chu vi trái đất
Gia Lai - Công Tum, Mang Giang, Đắc lắc...
bao suối bao rừng tôi đã đi qua
hành quân ngày đêm nắng mưa tầm tã
giấc ngủ lưng đèo gió rét căm căm
con suối Đắc Đam đã trở thành kỷ niệm
gió lạnh về mơ một chỗ nằm
Chúng tôi trở thành đoàn quân tình nguyện
ba năm chưa nhận được thư nhà
tìm Tổ quốc qua những trang thư mỏng
đêm ở rừng nỗi nhớ bay xa
Tôi đến Cămpuchia từ ngày đầu giải phóng
làm người khổng lồ che lấp đau thương
làm con kiến bò trên từng kilômét
nhận về mình cay đắng lẫn yêu thương
V
Em hãy hát cùng tôi khi về thăm chốn cũ
lời ngọt mềm như dòng sông tháng giêng
đồng đội tôi đã có người nằm xuống
giấc ngủ thiên thu ao ước thấy mẹ hiền
Họ nghĩ gì khi nằm trong lòng đất
môi thơm tho chưa hôn môi người tình
chưa ngỡ ngàng cầm bàn tay mềm mại
phiên gác còn đếm những ngôi sao lung linh
Em hãy đến cùng tôi thăm người lính trẻ
trở về sau cuộc chiến tranh
quên tất cả ngoài trái tim một lần tự nguyện
hiến dâng đời vì Tổ quốc quang vinh
VI
Giữa khoảng trời xanh biên giới
Chúng tôi: Lê Minh Quốc - Đoàn Tuấn - hai người lính yêu thơ
Trăm nhớ ngàn thương nói bằng tiếng khóc
Xin mỗi lần về lại quê hương...
Lê Minh Quốc
ĐỀ TỰA THƠ MÌNH
Những câu thơ mặc áo lính
Đồng phục xanh màu lá rừng
Câu năm chữ, câu bảy chữ
Đi bên nhau chẳng ngại ngùng
Như tuổi hai mươi binh nhất
Sống cùng chính ủy sư đoàn
Đêm nằm cựa mình tin cậy
Chung một màu lá ngụy trang
Đừng trách câu thơ khúc khủy
Bởi đường lên dốc cheo leo
Bóng cây ngã nghiêng xiên xẹo
Bàn chân trúc trắc qua đèo
Đừng trách câu thơ chổng chểnh
Bởi rừng trăm lối quềnh quàng
Bước đi nhói đau xuệnh xoạng
Chúng tôi xuống núi lên ngàn
Đừng trách câu thơ tuếch toác
Ít dùng từ ngữ văn hoa
Bởi lính xuềnh xoàng thân mật
Như anh em chung một nhà
Đừng trách câu thơ quếch quác
Không điều bí hiểm cao siêu
Chúng tôi lớn lên từ đất
Thơ là mưa của tình yêu
Câu thơ nào ghi nguệch ngoạc
Trong trang nhật ký đường rừng
Sau phút giải lao vội vã
Xốc ba lô lại hành quân
Câu thơ nào ghi vành mũ
Đỏ ngời trận đánh đầu tiên
Đâu cần biết ngày nhớ tháng
Kỷ niệm đã có tên riêng
Câu thơ nào trên túi áo
Là con số ghi mật danh
Của một sư đoàn chiến thắng
Suốt thời giặc giã chiến tranh
Câu thơ nào bên bếp lửa
Ngồi hơ lạnh cóng bàn tay
Áo quần mưa ướt chềm chệp
Làm thơ rét lạnh không hay
Câu thơ toòng teng cánh võng
Nối liền tiền tuyến hậu phương
Lính nằm vắt chân chữ ngũ
Đọc thơ ấm cả chiến trường
Có đêm lội sông bập bõm
Bỗng say chếch choáng tiếng thơ
Ai đọc đầu nguồn rất khẽ
Cành lau xao xuyến ven bờ
Có căn hầm kèo chữ Z
Ở trên cao điểm vòng cung
Ngồi quanh chiếc đài bán dẫn
Nghe tiếng thơ ngâm ấm lòng
Ở rừng thiếu thơ để đọc
Chúng tôi làm thơ cho mình
Từng câu chữ chưa tròn trịa
Ra đời từ cuộc trường chinh
Chúng tôi làm thơ để đọc
Như trồng thêm lúa để ăn
Như cắt tranh lợp nhà ở
Làm thơ dưới tiếng pháo gầm
Những câu thơ mặc áo lính
Đồng phục xanh màu lá rừng
Đến với những người ra trận
Như quàng khẩu súng sau lưng
Lê Minh Quốc
NGỦ ĐẤT
Võng bạt trải đất tôi nằm
Đêm nay ngủ ngọn trăng rằm nguy nga
Nhớ con dế gáy sau nhà
Chập chờn hương bưởi rụng qua tay mình
Đêm chiến trường ngủ ngon lành
Gối đầu lên đất ân tình đất ơi!
Cựa mình thấp thỏm lại ngồi
Quờ tay chạm đất nhớ hoài dáng em
Đồng sâu mưa nắng lênh đênh
Tuổi xuân con gái gửi trên luống cày
Tôi nằm ngủ đất đêm nay
Hương xuân thấp thoáng đâu đây dịu dàng
Có con cò trắng bay ngang
Từ lời em hát cuối làng đầu sông
Nỗi nhớ nào cũng ấm lòng
Lưng chạm đất tay ôm vòng ba lô
Tiếng gà chấp chới nhấp nhô
Sương tan đầu núi đến giờ hành quân
Lê Minh Quốc
NHẬT KÝ MỘT NGÀY
Cái nắng quái như lửa nung cháy họng
Cổ bỏng lên. Ôi! Khát! Ôi! Nắng
Chúng tôi đi rùng rùng bụi đỏ
Hái lá tai voi nhai suốt chặng đường dài
Ba lô đeo vai
Súng và gạo đeo vai
Vác trái đất nặng ba mươi ký
Chúng tôi hành quân qua Xam-coong-thmây
Trinh sát theo vết chân thú rừng tìm nước
Chúng tôi lang thang tìm nước trăm nơi
Khẩu lệnh rời rạc theo gió thổi xa xôi
Giành với thú rừng vũng nước đen lá mục
Vũng nước đục ngầu cùng nhau chen chúc
Môi rát buốt
Uống cầm hơi
Mắt hoa lên chân thấp chân cao
Giày há mõm lùa cát vào cọ sát
Chân sưng bọng nước bước đi loạc choạc
Ngồi giải lao nắng xoáy trên lưng
Rít dài hơi thuốc lá
Lóe sáng lửa cháy rừng
Bi đông va lốc cốc
Từng giọt trong veo mang dáng dấp dòng sông
Ôi khát vọng dịu dàng nằm trong cơn khát
Linh hồn tôi bay đến tận đền Angkor Wath
Cắn lấy bầu vú đá căng đầy của nàng Apsara
Để tìm giọt sữa
Nhưng chỉ thấy nước mắt nóng ran như hạt lửa
Rơi nhạt nhòa mặn môi
Mùa khô đã trở thành huyền thoại xa xôi
Lửa cháy rừng chim bay thảng thốt
Đất nứt nẻ nên chim im tiếng hót
Không gian quay cuồng trời đất nóng như nung
Chúng tôi hành quân trong lửa bão bùng
Đuối sức
Chiếc ba lô theo cuộc đời chiến sĩ
Về mọi nẻo đường
Rừng vẫn dài trảng cỏ vẫn mênh mông
Kẻ ngã quÿ nằm trên đá sỏi
Người lê tới bằng đôi chân mệt mỏi
Bới lá rừng đưa lên miệng để nhai
Nằm vật vã nhìn vòm trời mộng mị
Mơ quê nhà có giếng nước trong xanh
Mơ ngụm nước thốt nốt ngọt lành
Nước bọt đặc quánh
Mồ hôi rơi xuống môi mặn đắng
Dáng người đi như cây khộp khẳng khiu
Mùa khô trên đất nước Khmer
Khắc đậm giữa tim thành vết sẹo
Chúng tôi đi những bàn chân xiêu vẹo
Như trôi lênh đênh trên dòng sông...
Lê Minh Quốc
BINH NHẤT
Dép lốp Bình Trị Thiên
Chiếc ba lô con cóc
Bi đông U.S.A
Chiếc mũ cối Trung Quốc
Vai vác súng A.K
Tôi trở thành binh nhất
Tóc chưa rẻ đường ngôi
Mặt còn búng ra sữa
Sông ghềnh suối núi đồi
Trăng xanh tanh máu ứa
Tuổi mười tám tôi ơi
Không chần chừ chọn lựa
Chưa kịp có người yêu
Sáng mai đi ra trận
Tưởng đang được đi chơi
Ngực găm đầy vết đạn
Ngã xuống sông MêKông
Đạn xoáy vào giữa trán
Mịt mù sương như mưa
Đêm đen màu sốt rét
Hun hút dãy chiến hào
Thơ ngây chìm xuống đất
Tuổi mười tám tôi ơi
Thanh tân giờ đã mất
Một ngày trên chiến trường
Chỉ gặp cây thốt nốt
Nó cũng được quân hàm
Mãi mãi là binh nhất
Lê Minh Quốc
ĐỌC LẠI TRUYỆN KIỀU
Đêm nghe gà gáy bên sông
Lời như sương mỏng bềnh bồng tương tư
Dáng Kiều đâu đó hình như
Lẫn trong tiếng pháo gầm gừ niềm tin
Nguyễn Du hội ngộ trong tim
Mặt trời bùng vỡ bóng đêm sáng ngời
Dẫn theo Kiều tặng cho đời
Tiết trinh tơi tả rã rời tình yêu
Đi trong bóng ngã xế chiều
Lạnh môi giọt lệ em Kiều là đây
Chiến trường qua một thời trai
Áo xanh vẫn nặng những ngày tiết trinh
Bao giờ mới đến bình minh?
Trải bao cay đắng ái tình lênh đênh
Mây Tần mưa Sở bao đêm
Chữ Trinh nguyên vẹn dù em lỡ làng
Nghiến răng không một tiếng than
Bốn bề máu chảy bàng hoàng bàn chân
Kiều ơi! Nức nở bao lần
Đêm chong trắng đĩa, lệ tràn đẫm khăn
Vẫn trong như ngọc trắng ngần
Tình em thắp sáng trăng rằm Angkor
Năm năm đất khách hẹn hò
Làm sao tri ngộ giày vò lẫn nhau?
Lê Minh Quốc
NHỮNG MÙA KHÔ TRONG TRÍ NHỚ
(Tặng Nguyễn Đăng Lâm, Võ Đình Chiến, Trần Tuấn Bảo)
Nhà dã chiến lợp lá tranh Danrek
gió nóng ran hơi thở của rừng
gió hầm hập đi qua vùng nhiệt đới
lửa cháy rừng hun hút phía sau lưng
Chúng tôi đón mùa xuân
rủ nhau đi tắm suối
nước cạn rồi
gió thổi xoáy tung lên cát bụi
nước ở đâu để được uống phập phồng?
mồ hôi chảy ròng ròng
một ngàn lần
quý giá...
ngửa mặt lên trời hiếm hoi chiếc lá
cây khộp khẳng khiu trơ trọi giữa trời
Đi đánh giặc đã quen rồi cơn khát
uống từng nắp bi-đông cầm hơi
nhưng nếu cần thì chúng tôi sẽ hát
vài làn điệu dân ca
để đỡ nhớ quê nhà
có tiếng chim gù trên lùm tre óng ả
mùa khô nào sau cánh rừng Ka-đạ
chúng tôi đào một hố giếng con con
cạnh vũng nước trâu đầm
múc từng mũ nước
đồng đội tắm tóc chưa kịp ướt
đã có lệnh hành quân
chúng tôi đi thương nhớ dòng sông
sông nước bập bềnh duềnh trong lời hát
chính ủy trung đoàn sau mùa khô tóc bạc
lính binh nhì, binh nhất mọc thêm râu
đi qua trảng cỏ
nắng đen da cháy khét tóc trên đầu
thèm một bóng mát
một gốc cây, ụ mối - nghỉ giải lao
đồng đội tôi có người hoa mắt
lá khộp rơi quắt quéo trên lưng
dốc ngược bi-đông cạn nước
đau đáu nhìn trời giọng nói cứ rưng rưng
mệnh lệnh phía sau truyền lên đứt quãng...
đi đánh giặc chẳng bao giờ thiếu đạn
ruột tượng gạo đựng đầy
nhưng thiếu nước để nửa đêm mê sảng
thấy trong mơ chết đuối giữa sông dài
Đi qua mùa khô vừa hết tuổi con trai
chúng tôi thật sự trở thành người lính
chúng tôi sống những tháng năm không hề yên tĩnh
trái tim còn nóng ran hơi thở của rừng
Lê Minh Quốc
UDAĐAO 1979
Rũ áo bụi đỏ biên giới
Nhảy tắm suối U-da-đao
Đôi dép lốp kỳ lưng nhau
Suối bạc cười lên trắng xóa
Mũ mềm đã vướng cành lá
Cần chi - đầu đội nắng trời
Ngửa mặt nhìn giọt mưa rơi
Và năm ngón tay chải tóc
Treo đầu nguồn Sê-rê-pốc
Dăm ba chiếc võng toòng teng
Chia nhau vài điếu thuốc đen
Mùi cháy khét như hun muỗi
Trò chuyện xì xào bên suối
Đầu gối kê lên... làm bàn
Lá thư viết dọc viết ngang
Cũng nét chữ mềm con gái
Chim te te bay ùa lại
Đứng trên võng gọi hoàng hôn
Ở rừng nắng gió rất thơm
Trở về bên chân người lính
Chiều lau súng và ngâm vịnh
Vỗ đùi đen đét bình thơ
Đến thăm hậu cứ tình cờ
Chính ủy bật cười khanh khách
Mùa khô là mùa chiến dịch
Ruột tượng đựng gạo đầy rồi
Người lính đứng giữa đất trời
Suối bạc cười lên trắng xóa
Lê Minh Quốc
MÙA TRĂNG PHUM GIỀNG
(Tặng Trần Đào Hiền Nhân B10, C7, E 29)
những ngọn gió từ đỉnh trời xa thẳm
mang theo suối nguồn tinh khiết của quê mùa
và giọng cười của đứa trẻ Khmer trên cánh đồng cháy nắng
đang thổi về phía tôi
tuổi trẻ chiến trường ít ỏi niềm vui
tôi cười gằn lên ném mẩu thuốc rê xuống chân và gót giày nghiến nát
đôi mắt nhắm nghiền cất lên tiếng hát
khúc tình ca cuối cùng của thế kỷ hai mươi
đen như đêm và dài như dòng sông không biết chảy xuôi
trong lồng ngực không nguôi niềm vật vã
sợi dây đàn mệt lã
hát lên
hát về tuổi trẻ cô đơn
những bộ xương gầy đen
khẳng khiu như cây thốt nốt
hãy cầm tay nhau chạy reo vui vòng quanh trái đất
chờ đợi ngày mai hoa sẽ nở trên nòng súng thép
hỡi em bé Khmer
niềm vui đến rồi con mắt cứ đỏ hoe
chẳng có gì ghìm được tiếng hát
đang vỡ tung trong ngực
phía biên giới bên kia đang ì ầm hỏa lực
mặc kệ
cứ hát lên
chúng ta hát về chân mây cuối trời
tìm kiếm Angkor chìm trong cát bụi
từng đêm
tôi nhìn xuống vết thương ứa ra từng vệt máu
cất giọng ca buồn
Lê Minh Quốc
GẶP Ở ĂNGCO VÁT
Một triệu năm một trăm năm
Người trong đá vẫn cười thầm cùng ta
Mưa chiều lướt thướt bay qua
Trong ngôi đền cổ như là chiêm bao
Bên tôi - em hãy nép vào
Hỡi nàng tiên đứng từ bao giờ rồi?
Ai giam cầm em giữa trời
Đùng đùng sấm sét... trả lời tôi hay
Leo lên tháp chạm trời mây
Một triệu tượng Phật nhíu mày bao dung
Phải là em khóc rưng rưng
Nên mưa gió cứ bão bùng khôn nguôi?
Nụ cười của đá có vui
Từ trong điệu múa ngậm ngùi điều chi?
Lời tôi khấn nguyện bay đi
Vọng vào vách đá dội về nỗi đau
Tôi gai ốc đến ngàn sau
Rùng mình ngửa mặt nhìn vào hư không
Đá sừng sững, đá lặng câm
Đá mềm mại - tựa tôi cầm tay ai...
Bất ngờ tôi hóa cụm mây
Xin em hãy đỡ tôi bay lên trời
Nhưng ngoài kia mưa còn rơi
Em đứng trong đá, tôi ngồi trong em
Chiều Ăng-co Vát khó quên...
Lê Minh Quốc
CHUYỆN TRÒ CÙNG VÁCH ĐÁ
Chiều mưa ướt sũng bầu trời
Trong đền Angkor Wath tôi ngồi
Thương những nàng tiên xòe tay múa
Các em là người đàn bà góa bụa
Ngay từ khi mới được khai sinh
Hỡi người thợ đục đá vô tình
Sao lại để các nàng tiên đơn độc?
Trời đang khóc hay là em sắp khóc
Chẳng có gì vĩnh cửu với thời gian
Những tượng đá ướt đầm nước mắt
Tôi sụp lạy thấy mơ hồ Đức Phật
Chiều nay sương khóc bay lênh đênh
Tôi vuốt ve trên núm vú em
Tôi nâng cánh tay em
Nàng tiên múa ngàn năm rồi có mỏi
Em nhếch môi có điều chi định nói
Nếp đá nhăn sừng sững giữa không gian
Tôi kinh ngạc bàng hoàng
Nhan sắc các em vẫn tươi nguyên trong đá
Lời kinh Phật lãng quên suốt thời giặc giã
Chiều nay tôi lại nghe từ đá dội ra
Các em nhịp nhàng điệu múa Apsara
Tiếng khóc cười ẩn sâu vào nếp đá
Đá có linh hồn sinh tồn trăm ngã
Ai công phu đưa em đến Niết bàn?
Tôi ngờ vực tôi đưa tay đấm ngực
Những thành quách vàng son đã biến thành tù ngục
Ôi! Bao giờ các nàng tiên mới lấy được chồng
Điệu múa chập chờn hư ảo dưới rêu phong...
Lê Minh Quốc
ANGLUNGVENG 1980
Ngọn lửa cháy bập bùng đêm tháng mười gió lạnh
Rừng xanh áo thanh niên
Suối làm duyên con gái
Tiếng nói đùa ồn ào của cánh lính tân binh
Lính 77 chuẩn bị đạn vào gùi
Lính 80 bẻ lá rừng làm vòng ngụy trang
Đêm nay, ừ đêm nay xuất kích
Chúng tôi vào trận đánh rất đàng hoàng
Anh nuôi leo cây xăng lẻ bắt kỳ đà
Lính Quảng Nam đi vo gạo nấu cháo
Lính Hà Nội ngồi cảnh giới cuối rừng xa
Gió Danrek vọng về câu vọng cổ:
“Gió lên lay động hoa bằng lăng ơi thiết tha”
Đêm chùng xuống như sợi dây đàn ghi-ta
Cái nhớ loang ra như làn sương mỏng
Thèm nghe âm thanh vỗ về niềm hy vọng
Đêm nghiêng dài theo cánh võng chơi vơi
Lính ăn như hổ, lính khỏe như voi
Vắt cục cơm ủ túi cóc ba lô còn nóng
Lính bộ binh lội rừng lùng giặc đánh
Lính công binh thấp thỏm mở đường
Lính chốt đường giấu mình sau ụ mối
Lính truyền tin gọi nhau như chim nói
Lính chúng tôi đi vạn dặm đường dài
Đi tới ngày mai
Điểm xuất phát bắt đầu từ thành phố
Đêm ngủ rừng già
Ngày đi qua rừng trẻ
Bước vào chiến dịch nhận thư nhà
Không đọc vội để lòng thêm náo nức
Áp lá thư vào ngực
Làm hành trang đi dưới ánh mặt trời
Tiếng chim tuổi thơ không bao giờ thất lạc
Nếu bếp nuôi quân ngọn lửa cứ sáng ngời
Đêm phục kích là đêm leo cây như khỉ
Ngồi cảnh giới thong dong
Sương đẫm áo lúc trời gần sáng
Đánh vỗ mặt, đánh thọc sườn từ trong tầm đạn
B.40 không phải bắn cầu vồng
Đêm ngủ đất là những đêm trinh sát
Gió chạy về lạnh buốt sau lưng
Nằm như con sâu cuộn tròn trong lá
Chập chờn mơ thấy mẹ khóc rưng rưng
Đêm nay, ừ đêm nay xuất kích
Mấy mùa mưa bám chốt Anlung
Chiến hào dọc ngang ngoằn ngoèo sỏi đá
Gùi gạo vướng mìn luồn trong rừng lá
Từng hạt gạo đẫm máu với mồ hôi
Chiến dịch mùa mưa giục giã chúng tôi
Quần xăn đến gối
Ào ào mưa xối
Trên lưng vác cối
Vai khoác A.K
Đi qua rừng già
Bước chân thần tốc
Từ rừng rậm đến rừng thưa
Mưa rơi chéo chéo lúc vừa hành quân
Vai hằn quai súng qua lưng
Gấu quần rách toạc luồn rừng Anlung
Lê Minh Quốc
MẸ
Khi con chim chích chòe hót vang ngọn cau
mẹ thức dậy ngồi bên bếp lửa
mùa đông xô vào cánh cửa
gió lạnh lẽo xẻo buốt xương
những cơn ho đục khoét hết đêm trường
mẹ trơ trọi biết lấy gì chống chọi?
giông bão đi qua
hằn vết nhăn trên trán mẹ già
con thơ dại trèo lên cây bưởi hái hoa
đỏng đảnh bước xuống vườn cà
đâu thấy bóng mẹ run lẩy bẩy
như một tàu chuối khô
cha con đã mỏi mệt bước giang hồ
trang sách đặt trên tay nghĩ ngợi
điếu thuốc lào lập lòe đêm tối
cát bụi cũng quạnh hiu
những đêm mưa ủ dột tiếng chim kêu
mẹ ru hời khắc khoải
mười tám tuổi con xa nhà đi bộ đội
đêm ngủ còn nghe mẹ gọi trong mơ
tiếng súng gầm lên trên trời Danrek
khúc dân ca rách nát
đồng đội con có người đã chết
còn há mồm để được gọi mẹ ơi!
đêm đêm con thắp ngọn sao trời
hỏi gà gáy ven sông
mẹ dậy lúc nào khi trời chưa kịp sáng
bếp lửa nhen lúc nào mà bây giờ còn ấm?
con hỏi chõng tre
từ lúc nào mẹ cựa mình thức trắng?
tưởng tượng một ngày kia
trăng treo trên vòm trời Đà Nẵng rất khuya
mẹ khỏe mạnh giã gạo
hương cau thơm rụng đầy sân nhà ông ngoại
thuở ấy mẹ mới về với cha
mới nghĩ vậy thôi con sung sướng khóc òa
một niềm vui vĩnh cửu...
Lê Minh Quốc
TRỞ LẠI NƠI ĐÓNG QUÂN
Tượng Bay-on bốn mặt
đau đáu nhìn hư không
thành quách chừ đổ vỡ
ta nghe vó ngựa lồng
những thớt voi chiến trận
ầm ầm mấy tầng không
ta nằm trong ác mộng
nghe cung oán Ăng-co
những gương mặt buồn xo
vẫn ngời lên nhan sắc
hỡi Bay-on bốn mặt
sao không mở mắt nhìn?
những nàng tiên đang khóc
bằng điệu múa lặng im
trời chiều gây giông bão
các em có lạnh run
ta ngã trên thềm đá
thấy trời đau vật vã
vọng từ mấy trăm năm
đây chỗ Phật đang nằm
ai chai tay chạm trổ
đây từ bi hỷ xả
tượng Phật kia cụt đầu
nhang khói bay về đâu
cỏ mọc lan thềm cũ
những lời tôi nguyện cầu
thấy hiện lên quỷ dữ
thấy hiện lên thiên thần
ai giam cầm cung nữ
trong tường đá rêu xanh
vọng lại từ xa xăm
tiếng khóc cười nức nở
sấm sét đùng đùng nổ
rách ngang dọc vòm trời
nàng tiên căng da thịt
đứng múa giữa mưa rơi
ai đập đầu vào đá
đi về trong luân hồi
những nàng tiên mệt lả
có bao giờ nghỉ ngơi
tiếng gươm khua rát mặt
vó ngựa hý vang trời
từ trong ngôi đền cũ
nghe cung oán Ăng co
ôi tự do tự do
đang rền trong vách đá
Lê Minh Quốc
ĐÊM Ở RỪNG CHOANSAN
Trăng treo đầu võng tựa nồi tròn
Đồng chí anh nuôi vo gạo đầu sông
Giữa khuya trăng lặn về doanh trại
Sương lạnh khơi thêm ngọn lửa hồng
Gạo ít thì mình đã hái măng
Đôi giày há mõm có lạnh chân
Nửa khuya thức dậy ăn cháo khỉ
Lòng bồn chồn đợi lệnh hành quân
Người lính mặt tròn như vầng trăng
Gõ xoong quân dụng hát thung thăng
Xua cơn buồn ngủ lùa trong gió
Rừng còn xanh mãi tiếng chim ngân
Chống gậy đi rừng giữa cơn sốt rét
Trăng vàng như thóc đậu trên vai
Mấy cậu tân binh da xanh mét
Cứ cười khúc khích rất con trai
Chúng mình lội suối cười ha hả
Ba lô với súng đội trên đầu
Ra trận trở về mừng sống sót
Lá mềm trên tóc cứ lao xao
Giữa khuya trăng lặn về doanh trại
Chấp chới trời cao tiếng gà rừng
Chờ bình minh cuộn tròn trong giấc ngủ
Anh nuôi vo gạo bước qua sân
Lê Minh Quốc
VIẾT TỪ AN-LUNG-VENG
(Tưởng niệm Hoàng An)
Bềnh bồng sợi tóc em bay
tuổi hồng gửi với cỏ cây lạc loài
trăng rơi trong mắt ngậm ngùi
thân gầy guộc đã chôn vùi đất hoang
thắp cho em nén hương tàn
gió chiều hiu hắt hồn oan chưa về
thấy em cười vọng trăng khuya
đêm dài ma quái như chia nỗi lòng
quan tài che nổi gió đông
hay mưa gió xuống lạnh lòng em tôi?
hình hài còn gửi trăm nơi
ngủ đi em để rong chơi thiên đường
mộ em trăm hoa hướng dương
của giọt nắng rụng còn vương mắt người
vô tình sao thấy đắng môi
khóc em không nước mắt rơi đầm đìa
em nằm không có mộ bia
chỉ trơ trọi mảnh trăng khuya tội tình
trở về lòng đất vô minh
đêm mưa gió hãy hiện hình dương gian
thắp cho em nén hương tàn
chợt nghe tiếng súng bàng hoàng gọi tên...
29.12.1980
Lê Minh Quốc
ĐỌC “BẠCH VÂN THI TẬP” NĂM 1977
Chưa già để bạc tóc râu
Ngồi ngâm thơ cùng mây trắng
Cổ thi chập chờn bóng nắng
Để học đòi Nguyễn Bỉnh Khiêm
Chiều ơi, chiều ngọt tiếng chim
Bập bùng giữa trời ngọn lửa
Hiền sĩ ngày xưa cỡi ngựa
Ngâm thơ rượu cạn lưng bầu
Chúng tôi lại đứng bên nhau
Hát nghênh ngang trong tiếng gió
Đường dốc trượt chân bụi đỏ
Gấu quần rách toạc, cần chi
Không ở ẩn chúng tôi đi
Lên rừng, rừng xanh tiếng hát
Hiền sĩ một đời tóc bạc:
“Ngồi chờ gió thổi tin hoa”
Rượu nhạt phèo buông tiếng khà
Hiền sĩ toan được hóa bướm
Chúng tôi quý ngày đang sống
Cười rung nắng gió qua đèo
Màn che cửa ngõ trăng treo
Hiền sĩ lợi danh xa lánh
Chúng tôi thời trai khỏe mạnh
Cứ đi ngang dọc núi rừng
Hiền sĩ ngâm thơ rưng rưng
Đau đời lệ buồn chực ứa
Chúng tôi nhen lên ngọn lửa
Đọc thơ sảng khoái lạ lùng
Xin biết ơn đến vô cùng
Được đau nỗi đau người trước
Niềm vui bây giờ có được
Hiền sĩ đã một lần mơ
Chúng tôi đi dưới bóng cờ
Lồng ngực con trai mười tám
Đỏ như mặt trời buổi sáng
Đi tìm bóng dáng mùa xuân
Lê Minh Quốc
VIẾT TỪ CÁNH RỪNG ĐÔNG BẮC CĂMPUCHIA
Đêm há mõm bằng một hàm răng chó sói
dẫn tôi đi hun hút về đâu?
tôi cứ đi dẫu biết rằng tôi gặp
bóng tôi ngồi che khuất cả chiêm bao
tôi đã có những đêm treo võng ngủ
trên một triền núi cao
băng đạn A.K cấn vào hông
nòng súng chếch lên mũi
tôi đã no nê ngửi
mùi vị hòa bình
hương vị của chiến tranh
lưỡi hái tử thần đêm đêm lượn lờ trên mái đầu xanh
mặt trăng tròn bị chọc tiết
vùng ánh sáng xám xịt
bủa vây thân phận người du mục
hắn mộng du như một kẻ tà dâm
từng đêm gõ cửa căn nhà người thiếu phụ
xin được trú ngụ
gà đã gáy đánh thức mọi lỗi lầm
ô hay sao cửa vẫn im ỉm đóng?
tôi xanh xao như chiếc lá trải trên võng
siết cò súng bắn nát trời xanh
đêm tối đen nên mọi âm thanh
đều im lặng
tôi nhắm mắt đi ra dòng suối cạn
tìm một chút ánh nắng
nghe mơ hồ từ đỉnh trời Choam
ngôi sao mọc lờ mờ trong tầm đại bác
cất lên từng tiếng kêu rời rạc
không có ngày mai
ngủ đi cái ngủ ơi để chờ ngày mai
đường hành quân còn xa tít tắp
những mìn 45.2A, K.63 chờ tôi dẫm bước
sẽ nổ tung nhức nhối cánh rừng già
quờ quạng tôi đi như một bóng ma
đời lính mục
uống nước đục
ăn cơm cục
hy vọng trở thành những Thạch Sanh
chém đứt cổ Lý Thông và Bạch chằn tinh
chui vào hang cứu thoát nàng công chúa
tôi chỉ gặp cô vũ nữ Apsara góa bụa
ngực lép nép vào đá
khép nép ép người khô như đá
đứng trong đêm
rủ rê tôi những động tác tự tình
đêm nay tôi vừa tròn hai mươi tuổi
ôm mặt khóc tức tưởi
vì đâu?
Lê Minh Quốc
DỖ GIẤC NGỦ
Đường đi lau lách rậm rì
ngủ đi
ừ đêm nay trăng nhợt nhạt như mặt mày con gái vu quy
đồng đội tôi thầm nhắc
ngủ đi
trên võng nằm nhìn lên trời
ước gì ngôi sao biến thành hạt gạo
và rơi
để tôi ăn no rồi vác súng đi chơi
qua mọi miền biên giới
đến bất cứ nơi nào có tiếng cười con gái
nhặt lấy mà gieo vần vào thơ
nếu tôi có chết như một kẻ bơ vơ
xin hãy đắp lên mắt tôi những ngôi sao
mai sau còn nhớ đường về
nếu đêm nay tôi ngủ mê
hãy bắn tôi vỡ sọ
còn hơn mai kia mốt nọ
cứ vất vưởng vật vờ vì cuộc tình bạc bẽo
ngủ đi
trăng hết tròn lại méo
dây ba lô nghiến hai vai để lại vết sẹo
ngày mai hành quân
ngủ đi đừng tiếc nuối ngày xuân
ầm ầm súng nổ...
Lê Minh Quốc
TRÊN ĐƯỜNG RA TUYẾN TRUỚC
Đi qua Kulen tháng sáu
Về đến Anlung tháng mười
Bi đông gõ vào báng súng
Phì phèo điếu thuốc mùa khô
Anh nuôi tuổi đang mười tám
Môi run tím ngắt sau mưa
Dừng chân nghe cười hồn hậu
“Mấy cậu bụng đã đói chưa?”
Lính mới ngồi chung vá áo
Bàn tay se chỉ luồn kim
Vụng về dễ thương đến lạ
Lá rơi chậm ngẩn ngơ nhìn
Lính cũ ngồi chơi cờ tướng
Đùng đùng lên ngựa xuống xe
Bàn chân nhịp theo khoái chí
Đôi giày há mõm lắng nghe
Nắng chiều leo qua ngọn súng
Đũa gõ vào chén điệu vals
Đủng đỉnh là trai Hà Nội
Đứng ăn cảnh giới đàng hoàng
Đi qua mấy mùa chiến dịch
Mấy lần áo ướt lại khô
Hát vang bài ca tuổi trẻ
Quân đi nòng súng nhấp nhô
Đi qua Kulen tháng sáu
Về đến Anlung tháng mười
Chưa có râu ria để cạo
Những người lính trẻ đôi mươi
Hoa xoài trên vai binh nhất
Thơm hoài trong gió mùi hương
Binh nhì đêm nằm tin cậy
Đồng đội từng quen chiến trường
Lính già ngồi bên lính trẻ
Nỗi niềm tâm sự trao nhau
Tay nắm trong tay tin tưởng
Một ngày nhớ đến ngàn sau
Võng giăng đôi bờ mưa nắng
Chung nhau một lá thư tình
Chung con đường ra tuyến trước
Trên đầu đỏ nắng bình minh
Lê Minh Quốc
NHỮNG LIỆT SĨ TRINH TIẾT
Bạn trẻ quá tuổi 18
đầu đội ba lô chân lội bùn non
trên vai vác nắng hoàng hôn
đi qua vùng Prech-vi-hear
đi về Kampốt
niềm tin như giọt nước ngọt chảy ra từ trái thốt nốt
ồ tuổi nhỏ dại dột
sau hành quân mơ sông suối tự tình
suốt phiên gác mơ ngôi sao đồng trinh
vắt kiệt sức
tận cùng giấc mơ chỉ còn lại dòng thơ tình thơm như hoa cúc
ném vào cõi hư vô
đồng đội tôi đặt trinh tiết vào trong ba lô
ngã xuống giữa rừng ngập ngừng chưa muốn chết
khuôn mặt gầy ngờ nghệch
đâu rồi những tiên nữ tuyệt trần
vú nhỏ môi đỏ
vuốt mắt bạn thiên thu?
năm tháng đi qua ma quái âm u
cánh rừng nào mà bạn đã chết?
tiếng mìn K.P2 nổ chát chúa
đanh tai nhức óc
sao lúc ấy không thể nào khóc?
sờ soạng đi tìm thân xác bạn tả tơi
từng mảnh linh hồn bay trăm nơi
làm sao nhặt đủ?
hình hài bạn như một kỷ niệm cũ
khó quên
thời gian đi qua đậm đặc bóng đêm
tôi vẫn thấy bạn quay về nguyên vẹn
bạn đó hả? vẫn nụ hồng rón rén
bộ quân phục rộng thùng thình
vẫn dáng chào kiêu hãnh tân binh
hút thuốc lá sâu kèn
bực mình quá thì chưởi tục
rồi cười
lúc ấy hồn nhiên như mây trời
không làm sao khóc nổi
tiếng mìn nổ toang hoác nát trái tim nóng hổi
còn đâu
còn đâu
bạn ơi, tuổi 18 trang nghiêm trong binh phục
xin cúi đầu chào thế hệ của tôi
quá khứ bừng lên như chiếc gương soi
lấp lánh nụ cười những người chết trẻ
Lê Minh Quốc
BÀI THƠ VỀ HOA CÚC
Hoa cúc nở cuối nhà em buổi ấy
Về phép một lần thương nhớ đến bâng quơ
Bình thường em ngồi bên ô cửa sổ
Riêng anh về đêm mất ngủ làm thơ
Chiều nay anh một mình xuống phố
Xe đạp nghiêng từ nỗi nhớ chung chiêng
Thấy rạo rực niềm vui thời mới lớn
Em cắm hoa cúc vàng như để làm duyên
Anh gọi thầm như tiếng chim, tiếng suối
Ơi hoa cúc vàng thân ái của con trai
Xin một lần gửi hương về bên ấy
Mai xa rồi chưa dám nói cùng ai
Đã có lúc đội trời đạp đất
Qua chông chênh dốc đá ngủ lưng đèo
Uống nắp bi-đông dìu lòng cơn khát
Trên đầu thanh thản tiếng chim reo
Đã từng đi bốn mùa ngang dọc
Áo toạc vai vác súng lội qua rừng
Bên cánh võng có lần nghe cỏ hát
Mường tượng về đôi mắt người thương
Và anh gọi thầm ơi hoa cúc trắng
Dù hoa cúc vàng bối rối lúc nhìn em
Mai xa rồi riêng anh sẽ nhớ
Chiều vàng bình yên em chải tóc bên thềm
Và anh biết “hương gây mùi nhớ” (1)
Một nụ cúc vàng nằm ở ba lô
Đi theo anh những ngày đánh giặc
Tháng năm này vĩnh viễn hóa thành thơ
-----
(1) Chữ của Nguyễn Du
Lê Minh Quốc
MÙA XUÂN
Rừng khộp bây giờ khô không khốc
Người lính đi trên lá lào xào
Gõ chiếc bi đông kêu lách cách
Suối cạn rồi bước thấp bước cao
Súng vác vai, quần xắn đến gối
Đất bỏng chân, nứt nẻ tiếng ve
Xao xác gió đi về Kađạ
Mồ hôi rơi vào mắt cay xè
Rừng khộp khô thì lá khộp rơi
Người lính làm quạt mát thảnh thơi
Chưa có nước nhớ về giếng nước
Có nụ hoa xoài lấm tấm rơi...
Mình đi mặc kệ nắng chang chang
Có lửa đâu mà giống chảo rang
Anh nuôi đầu đội soong quân dụng
Tiếng cười trai trẻ giòn tan
Trống rôm vông đang giục bước chân
Mười lăm phút nữa gặp mùa xuân
Gió đưa về vị đường thốt nốt
Nhắc thì thầm ta sắp vào phum
Chim puk reo trên quê hương Chùa Tháp
Người lính đi mấy thuở ngang tàng
Chợt hồn nhiên chỉnh tề quân phục
Vào phum bạn gái sẽ nhìn ngang...
Lê Minh Quốc
ĐỨNG TRƯỚC NGHĨA TRANG SVAY RIENG
(Tưởng nhớ chiến hữu HT. 5A 2106 Pleiku)
Nằm yên mà ngủ nghe em
Xác thân tơi tả đã mềm đất đai
Không còn nguyên vẹn hình hài
Tiết trinh thì vẫn là trai dậy thì
Một ngày biên giới chân đi
Đạp mìn nhìn lại thấy gì nữa đâu
Hồn bay lên cõi trời cao
Thịt xương chằng chịt rơi vào hư vô
Ngủ yên đầu gối ba lô
Vùi ba thước đất nấm mồ vô danh
Còn trơ trọi mảnh trăng xanh
Đêm nay bầm tím cũng tanh máu người
Em muôn đời tuổi hai mươi
Bây giờ đang khóc hay cười cõi âm?
Bóng ma què quặt đôi chân
Làm sao về lại dương trần gặp nhau?
Nằm yên mà ngủ cho sâu
Đường qua cõi tử nối vào tương lai
Trên trời rời rạc mây bay
Linh hồn ấm lạnh cỏ cây vỗ về
Nằm yên mà tưởng nhớ quê
Đêm đêm nức nở trở về trần gian
Thắp cho em nén hương tàn
Hắt hiu mộ chí giữa hàng thơ xanh
Lê Minh Quốc
TRÒ CHUYỆN VỚI CỎ
Sáng ra chợt thấy cỏ xanh
Trước cửa hầm tôi đang đứng
Bàn tay vân vê quai súng
Có phải xuân về tối qua?
Đi xa nhớ cỏ quê nhà
Đêm mơ cỏ bông ấm áp
Chén nước nóng mùi cỏ bấc
Uống vào ngọt mãi trên môi
Chiến hào đầy cỏ tai voi
Đang rún rẩy reo trước gió
Nhủ thầm xuân về rồi đó
Tôi xôn xao nhánh cỏ hương
Khi mùa xuân đến chiến trường
Là cỏ đuôi chồn đã nhạt
Cỏ lau trắng từ câu hát
Có bồn chồn trước cỏ xanh?
Tôi đang đi giữa cỏ tranh
Cỏ dùng dằng da diết thế
Cắn cỏ gừng thèm cỏ nghệ
Cỏ gà, cỏ cú mọc đâu?
Xòe tay nắm cỏ lưỡi trầu
Cỏ mượt như tóc con gái
Xuân ơi cho tôi nghĩ vậy
Nhen trong lòng chút tình yêu
Có phải cỏ mốc đăm chiêu
Mà trong tôi thì rạo rực
Hương cỏ đang đầy lồng ngực
Trước hầm cỏ cú nhú lên
Xuân ẩn trong sắc cỏ mềm
Nơi người lính đang cầm súng
Cỏ xanh dưới chân tôi đứng
Là xuân về tối hôm qua
Lê Minh Quốc
ĐÊM TRÚ QUÂN Ở XAM CÔNG THMÂY NHỚ HÀN MẶC TỬ
Thi sĩ đồng trinh vật vã dưới trăng
Vầng nguyệt úa tình duyên xa cách mãi
Đêm bát ngát một tâm hồn điên dại
Thương Hương thơm bất hạnh đến vô biên
Tôi như Gái quê ca hát hồn nhiên
Khẩu súng quàng vai năm mười tám tuổi
Quen địa hình xuyên rừng lội suối
Hơn suy tư đắm đuối với trăng ngân
Mối tình nào anh ngậm buốt trong răng?
Lầu Ông Hoàng bấp bênh niềm chờ đợi
Dòng thơ ấy chưa làm tôi nghĩ ngợi
Khi gặp chiến tranh ngay cánh cửa vào đời
Pháo gầm lên đạn bắn méo trời
Chưa kịp ngã dưới vũng trăng tình ái
Chưa như anh trong Đau thương ruồng rẫy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
Tôi vác trên vai khẩu súng A.K
Chơi giữa mùa trăng chỉ nghe mìn nổ
Đạn băm vầng trăng khiến chị Hằng mặt rỗ
Làm sao rao Tôi bán trăng cho?
Nhưng anh rót cho tôi một dòng sữa thơm tho
Là nguyệt bạch của đêm chiến dịch
Lúc dừng chân trên chặng đường truy kích
Tôi soi qua bếp lửa đọc thơ anh...
Lê Minh Quốc
TRÊN ĐƯỜNG VỀ NƯỚC UỐNG RƯỢU Ở STUNG TRENG
Bến Tầm Dương đêm khuya đưa khách
Sao em không ngâm Tì Bà Hành?
Hơi thu lau lách Bạch Cư Dị
Động lòng trinh nữ váy dài xanh
“Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân”
Cùng một lứa bên trời lận đận
Gầy gò bộ ngực gái ăn sương
Sau chiến tranh quên hết niềm thù hận
Cao hứng bắn lên dăm phát đạn
Mừng còn sống sót trở về quê
Chiến hữu trời ơi sao nằm lại
Nghĩa trang mờ mịt bóng trăng tê
Sưởi ấm đời nhau qua tiếng nấc
Sao ta lại nhớ Tì Bà Hành?
Lính tráng hành quân qua quán rượu
Mặt đỏ như là đứa trẻ ranh
Đứa trẻ đội thơ Bạch Cư Dị
Đêm nay ném xuống sông Mê Kông
Sông sẽ hóa thành dòng rượu ngọt
Chờ em xuống giặt váy dài xanh...
Lê Minh Quốc
Chậm chút nữa đêm ơi! Đừng vội gáy tiếng gà
Chỉ còn lại đêm nay. Chỉ đêm nay nhìn lại
Vòm thốt nốt giữa cánh rừng lửa cháy
Tiếng pháo xa còn vọng mãi ì ầm...
Những địa danh trong ký ức xa xăm
Chưa vội xanh rêu. Chưa mờ kỷ niệm
Không phải như tráng sĩ trở về cung với kiếm
Chúng tôi về mang theo nhớ cùng thương
Mang theo cơn sốt rét ở chiến trường
Những ngày lạnh run niềm tin nghiệt ngã
Không hề so đo. Không hề mặc cả
Mười năm đi qua cuộc chiến tranh này
Chúng tôi cùng tâm sự với đất đai
Chậm chút nữa đêm ơi! Chỉ đêm nay ngồi lại
Cỏ chưa xanh những nấm mồ đồng đội
Chiến hào còn ấm áp bước chân quen
Những đêm khuya thao thức với ngọn đèn
Lá thư nhà chuyền tay nhau đọc vội
Tiếng pháo gầm gừ bên kia biên giới
Làm chòng chành giấc ngủ mỗi đêm
Chúng tôi về mang theo những cánh tem
Bìa thư cũ nhòe màu mực tím
Chiếc võng tòng teng trong căn hầm dã chiến
Gió sẽ lùa vào chống chếnh nhớ thương ai?
Chỉ còn đêm nay, đừng vội đánh thức ban mai
Xin yên tĩnh cho cánh rừng đang ngủ
Đêm diệt chủng của một bầy quỷ dữ
Chỉ còn trong huyền thoại Ăng-co
Kỷ niệm chất đầy trong chiếc balô
Năm tháng đi qua ngọn gió rừng phóng khoáng
Chậm chút nữa đêm ơi! Trời đừng vội sáng
Tuổi trẻ chúng tôi không trở lại bao giờ...
Lê Minh Quốc
Có nhiều lúc nằm một mình đợi sáng
Lòng vu vơ mơ đến cánh rừng
Chân dung tôi của năm mười tám
Võng chông chênh súng khoát ở sau lưng
Tại sao nhớ những điều xa xôi ấy ?
Gà gáy vang bóng tối ở thị thành
Nghe nôn nao tưởng trèo non vượt dốc
Chiếc ba lô nặng trĩu bước quân hành
Con mắt mở nhìn vào bóng tối
Nghe dế reo vui cỏ mượt trước sân nhà
Bỗng lao đao tưởng nằm trên cánh võng
Treo tòng teng hầm dã chiến chữ A
Có những điều muốn quên nhưng lại nhớ
Giữa dòng đời xuôi ngược lợi và danh
Trong phút chốc cũng đều vô nghĩa hết
Chiến trường xa đồng đội ngủ yên lành
Tôi lại thức nằm một mình đợi sáng
Chẳng có gì vui và chẳng có gì buồn
Không thể nào quay về năm mười tám
Thương nhớ hoài mệt mõi với trăng suông...
Lê Minh Quốc
Dây ba lô xiết chặt
Oằn cả đôi vai gầy
“Đi đều - đi - đều - bước”
Phố phường không bóng cây
A ha thời trận mạc
Còn lại những vết chai
Xòe bàn tay năm ngón
Ve vuốt nắng ban mai
Chân đi mà đau nhói
Dù đã mang đôi giày
Đi một vòng trái đất
Chợt nghe tiếng “một - hai”
“Đi đều - đi - đều - bước”
Chớp mắt hết thời trai
Đi ta còn đi mãi
Vào quán uống lai rai
Vào chợ nghe thiên hạ
Rót mật đầy lỗ tai
Đỏ bừng bừng con mắt
Xốc ba lô lên vai
“Đi đều - đi - đều - bước”
Vượt núi cao sông dài
Sông bây giờ cạn nước
Núi thấp xuống ngang vai
A ha chàng binh nhất
Tròm trèm tuổi bốn mươi
Đi trong phường giữa phố
Thân thiện với mọi người
Dù ai không cười lại
Cuộc đời vẫn cứ tươi
Đứng dựa cây trụ điện
Thắt chặt lại dây giày
“Đi đều - đi - đều - bước”
Chẳng ai nhìn rõ ai
A ha thời trận mạc
Xương thịt gửi đất đai
Bây giờ vụt đứng dậy
Cùng đồng đội sum vầy
Thương nhau như cật ruột
Đi đều nhịp “một- hai”...
Lê Minh Quốc
Tan ra trong không gian quay cuồng
ngọn cỏ lau mọc giữa ngực
tiếng cười nhạt nhẽo
ngoài trời đang mưa
gió thổi trên mái nhà vang vọng lại âm xưa
cánh rừng ù ù tiếng đại bác
võng đang nằm chao nghiêng
cơn sốt xô tôi lăn xuống đất
hố mắt ứa ra vài giọt nước mắt
vỗ về ngọn cỏ xanh
trời ơi ngọn cỏ xanh
nhai ngấu nghiến
mây trời xanh đã tan trong miệng
đủ sức để đẩy lùi cơn sốt
suốt mấy đêm tôi nằm tái nhợt
mơ được ăn ngôi sao trên trời
có phải ăn được nó thì da dẻ hồng hào ?
tôi cứ hy vọng
võng nghiêng như đang nằm trên sóng
tôi trôi về nơi nào ?
đang nằm đây mà nghe vọng trong đầu
tiếng gió rú
tiếng B.40 của những ngày rất cũ
nổ tan tành
ngoài trời còn mưa hay nắng đã lên xanh
tôi đang thức hay chập chờn giấc ngủ ?
mở cửa sổ nhìn ra
vẫn gặp hoa trẫy hội trước sân nhà…
Lê Minh Quốc
(Tặng Đoàn Tuấn)
Lâu lắm chẳng thư từ
Cũng không nghe điện thoại
Như trái gái tương tư
Thèm được nghe giọng nói
Mày xa tít Hà Nội
Tao ở tận Sài Gòn
Gặp như tằm ăn rỗi
Uống bia ít thấy ngon
Sao không chung một vợ
Để được gặp nhau luôn
Đùa thôi duyên với nợ
Ít vui lại nhiều buồn
Nhớ hoài thuở chung hầm
Tránh pháo gầm đại bác
Khói súng sẫm câu thơ
Hai thằng cười tuếch toác
Dìu nhau đi chệch choạc
Biên giới dốc với đèo
Ba lô mười bảy tuổi
Suốt đời còn mang theo
Giọt nước mắt trong veo
Ấm trên vai đồng đội
Còn sống thì không quên
Thịt xương trong đất sỏi
Lại thèm nghe giọng nói
Qua không gian vô cùng
Kiếp người thì hữu hạn
Cõi đời quá mông lung
Tao mày có gì chung
Trong tâm linh bé nhỏ?
Nhớ mày tao ra sân
Cúi mặt nhìn ngọn cỏ...
Lê Minh Quốc
Ngồi lại cùng nhau bên đống lửa
Vỗ tay reo cho ấm nhánh trăng gầy
Đồng đội ơi một thời trận mạc
Vẫn còn kỷ niệm ở trên vai
Xin đọc lại bài thơ ngày trước
Viết bên cánh võng gió xênh xang
Thổi vào vần điệu thời trai trẻ
Hương rừng quyến rũ đến mênh mang
Xin nhớ lại ngày trèo lên Danrek
Bạn ơi sốt rét đến trọc đầu
Mùa xuân gió núi khô không khốc
Mây trắng phiêu du cũng bạc nhầu
Xin kể lại đêm vào chiến dịch
Bạn khâu áo rách đến là thương
Sao con chim khách kêu hoài vậy
Mày báo tin chi giữa chiến trường?
Đêm ấy cũng ngồi bên đống lửa
Dăm tiếng cười đùa xóa vết nhăn
Đường ra tuyến trước không chọn lựa
Trên đầu còn sáng một vầng trăng
Buồn vui đầy ắp trong trí nhớ
Tuổi trẻ mình đi ngang dọc cánh rừng
Từ buổi ra quân càng thấm thía
Hai mùa mưa nắng vẫn trên lưng
Đêm nay khật khưỡng vài ly đế
Người lính thương nhau rất thật lòng
Kể chuyện đời mình như cổ tích
Chợt nâng ly rượu hét xung phong!
Lê Minh Quốc
Trả lại tôi là tuổi trẻ mênh mông
chúng mình như lúa reo ngoài đồng...
Tuổi trẻ của tôi lẩn trốn ở đâu?
Hỡi tiếng chim chập chùng trên cánh võng
Tôi đang kiếm tìm. Tôi đang nghe ngóng
Gió thổi về lồng lộng thuở thanh xuân
Khi xốc ba lô trở lại cánh rừng
Tôi sung sướng gặp giọng cười phóng khoáng
Người lính hồn nhiên vuốt ve đầu đạn
Quân phục thùng thình bụi đỏ lấm lem
Tôi nhận ra tôi từ dáng ngủ chông chênh
Đêm nằm co ro trong căn hầm dã chiến
Tôi nhận ra tôi trong phiên gác nửa đêm
Ngước mắt nhìn vầng trăng thơm xao xuyến
Tôi nhận ra tôi khi về thăm viếng
Nén nhang bay trên mộ bạn âm thầm
Thuở ra trận dáng Kiều nào đưa tiễn?
Đất mẹ bây giờ thêm nặng mối tình câm
Tôi trở về rực rỡ giấc mơ xanh
Thuở bắt đầu yêu. Chưa hề tuyệt vọng
Tôi nhận ra tôi đêm mưa lạnh cóng
Ngồi làm thơ bên bếp lửa nuôi quân
Tuổi trẻ đi qua mải miết giống như sông
Dòng chảy ấy không hề quay trở lại
Và mầm xanh thời trai trẻ của tôi
Trái đã chín. Xin thời gian đừng hái
Lê Minh Quốc
Đôït nhiên lại nhớ ngày xưa
Cánh rừng độ lượng nắng mưa bùi ngùi
Lập lòe điếu thuốc chia vui
Gối tay đồng đội cho nguôi nhớ nhà
Đêm chiến dịch ngủ rừng già
Võng giăng đầu núi thư nhà đọc chung
Ngủ giường lúc ở nhà thùng
Ngủ đất hò hẹn với cùng đất đai
Phục kích thì ngủ trên cây
Truy kích ngủ võng gối tay ân cần
Tình cờ một tiếng chim ngân
Tưởng mưa rơi xuống bần thần trông lên
Quên làm sao được mà quên
Hành quân đói lả ngã trên đầm lầy
Ba lô súng đạn đặt vai
Tôi vác hết một thời trai bọt bèo
Đường lên Khăm-pắc phải trèo
Cây gậy, khẩu súng chống chèo tựa nhau
Một ngày nhớ đến ngàn sau
Hiếm hoi giọt nước chiêm bao lại đầy
Quên làm sao được Pông-nay
Đuờng lên khúc khủy từng ngày ốm tong
Nước đầy trên tấm lưng cong
Dốc đèo thiên thẹo quẹo vòng quanh co
Đi qua lau lách đắn đo
Tiếng mìn khô khốc hẹn hò nghĩa trang
Bạn nằm lại cõi Choan-san
Còn thơm màu lá ngụy trang thuở nào?
Trời ơi! Tuổi trẻ qua mau
Vừa ngoảnh lại thấy tóc râu đề huề
Trong mơ áo lính đi về
Đồng đội gọi dội bốn bề tương lai
Lê Minh Quốc
Đường đi vào trận mạc
Chiều mưa lướt thướt rơi
Những dấu chân đồng đội
Còn hằn giữa ngực tôi
Quân phục thùng thình rộng
Đôi giày há mõm cười
Chiếc ba lô bạc phếch
Chứa đựng cả gia tài
Nặng như đeo trái đất
Đi qua năm tháng dài
Vòng tay ôm súng thép
Ngày sốt rét trọc đầu
Đồng đội khiêng tôi chạy
Đạn thù rượt phía sau
Năm tháng đi qua mãi
Râu ria đã mọc dài
Lính đôi mươi mười bảy
Chững chạc thành con trai
Mùa khô nằm với đất
Cỏ nhú đau cả lưng
Tưởng như xuyên qua ngực
Biết mùa đã sang xuân
Mặt trời thành hòn lửa
Mặt đất nóng như nung
Chúng tôi khô như mắm
Ngủ đầm đìa mồ hôi
Gối đầu bi đông nước
Chập chờn dòng sông trôi
Chúng tôi đi và sống
Thanh xuân mỗi một thời
Những người lính hào phóng
Đạp mìn chân cụt rồi
Nhưng trên vai vẫn cõng
Giọt lệ lẫn nụ cười
Cho tôi được sống lại
Ngày đầy tuổi hai mươi
Kỷ niệm tan trong máu
Nuôi dưỡng tôi thành người
Lê Minh Quốc
TRƯA NAY
(Tặng Cao Vũ Huy Miên)
"Trưa cuốc đất trên cánh đồng Chó Ngáp
Cuốc đụng miểng bom cứ tưởng cục vàng"
Câu thơ bạn viết thời phóng khoáng
Còn nghe dội lại tiếng cười vang
Những vóng mây trôi trong trí nhớ
Muôn đời sau râm mát chỗ ta ngồi
Một dòng kênh xanh. Một vòm trời vạm vỡ
Ta ngước nhìn còn thấy mặn mồ hôi
Trưa nay lang thang đi trên triền dốc
Bàn chân nhói đau chạm đóa cúc vàng
Bông hoa dại như thời trai trẻ
Còn rực vàng dưới nắng chang chang
Trưa nay, tôi về ngủ bên dòng suối
Còn năm mơ nghe chim chóc tự tình
Giấc ngủ được vỗ về hương rừng núi
Giữa cuộc đời độ lượng nắng bình minh
Cứ tưởng kỳ niệm xưa thất lạc
Những ngược xuôi cơm áo của đời thường
Câu thơ bạn viết thời phóng khoáng
Rưng rưng vọng lại đến là thương...
Lê Minh Quốc
Đi trên 36 phố phường
Tôi xa rời những hội hè đình đám
Những ngõ ngách bức tường rêu xám
Rực sáng nụ cười nửa tỉnh, nửa quê
Những mái nhà như đang ngủ mê
Cánh cửa khép hờ lờ mờ giọng hát
Những ngõ nhỏ xiên xẹo quẹo về đâu?
Tôi cứ thả bước chân không sợ lạc
Vì hôm nay đã mua thêm đôi giày
Rất quen thuộc của thời trận mạc
Tôi đi bằng hồn. Tôi đi bằng xác
Lòng chợt vu vơ mơ đến cánh rừng
Thằng bạn thủ đô đi đánh giặc mặc quần
Nay cũng cởi trần ngồi bơm xe đạp
Bụi bặm Hà Nội há mồm ngồi ngáp
Con ruồi đen thiền định tọa trên môi
Buồn quá tôi đi như vệt sao rơi
Lòng chợt mơ về bốn bề vách núi
Bạn gùi gạo nhưng đạp mìn chết đói
Thân xác tả tơi rong chơi nơi mô?
Mà linh hồn còn nức nở ở Thủ đô
Tôi đi bằng chân. Tôi đi bằng óc
Mệt mỏi quá thì gọi chiếc xích lô
Hăm bốn giờ đi từ lúc sao mọc
Đến mặt trời lên thì tôi mệt nhọc
Đi giữa Thăng Long lại nhớ Bung-lung
Đường dài ôi thời gian nhân vận tốc
Kỷ niệm rớt trên đầu ngang dọc
Bạn tôi đang về lảo đảo cõi tâm linh
Bạn tôi hiện lên trên chiếc áo nhà binh
Ngay dưới chân tôi từ đôi giày lính?
Lê Minh Quốc
Buổi chiều anh ngồi đọc báo
và uống trà
những con chim bay qua
để rơi tiếng hót
trên mái nhà
trên từng cánh hoa thơm
anh chắp tay mà lạy mười phương
tạ ơn anh em bốn hướng
cho anh mái nhà
để mỗi chiều anh ngồi đọc báo
để lắng nghe ngày xưa gió bão
thổi về lạnh buốt cánh rừng xanh
những bước chân hành quân
giấc ngủ lưng chừng dốc núi
ngủ bụi ngủ bờ
mái nhà là ảo ảnh trong mơ
treo tòng teng hai đầu cánh võng
ru anh ngủ để mà mơ mộng
về một mái nhà
sống cái nhà chết cái mồ
bạn anh có người xương thịt cháy ra tro
nằm dọc theo biên giới
nắng nung mưa xối
anh tìm nấm mồ của bạn nơi đâu?
bạn anh có người gửi lại rừng sâu
một cánh tay
một bàn chân
muôn đời nằm phơi trần
mưa nắng
những buổi chiều anh ngồi yên lặng
nguyện cầu người khuất bóng
đã một thời cùng anh yêu và sống
hãy về dưới mái nhà
mỗi chiều ngồi uống trà
và cùng anh đọc báo
NHỮNG NGÀY LÀM THƠ
Tôi làm thơ như hít khí trời để thở
như đói thì ăn, như mệt thì nằm
con tàu đi chông chênh qua vực thẳm
tôi ngồi co ro gió rét căm căm
hỡi cô Tấm dịu dàng trong cổ tích
trái thị đầu mùa tôi lỡ cắn - sâu răng
còn nhức buốt một ngày thơ dại
như những lần
trái tim tôi em giẫm dưới bàn chân
tôi làm thơ như ...
như cái gì tôi không biết nữa
dốc đời cao và tôi như con ngựa
kéo khổ đau leo lên dốc mỗi ngày
này em,
tôi thao thức mỗi đêm
làm thơ không biết mệt
mây trắng phiêu du đỉnh trời Danrek
võng bạt tôi nằm hoài niệm cánh rừng xưa
những người lính binh nhì, binh nhất
đã sống cùng tôi tháng ngày đi đánh giặc
hồn thơ như hoa cẩm chướng đỏ tươi
như mặt trời sáng lòa giữa ngực
tôi làm thơ như...
như cái gì chỉ có em mới biết
tôi mộng du trên trang giấy một mình
cái vắng teo không hiện lên chữ viết
đêm mùa thu hoa cúc nở vô tình
như đói thì ăn, như mệt thì nằm
tôi làm thơ như tôi đã sống
Lê Minh Quốc
Lời thưa
Thơ ĐOÀN TUẤN
Tuấn ơi! tuổi trẻ của chúng mình (Lê Minh Quốc giới thiệu)
Tuổi l8
Mẹ và hòm thư con
Tollê Sáp đêm 5-1-1979
Đất bên ngoài Tổ quốc
Lính tráng
Lá mục
Hoàng hôn Đức Lập
Đường lính
Sau màu xanh lá
Vận ơi!
Anlung năm 81
Điếu thuốc
Cơn khát và tiếng gà rừng
Đêm ấy chúng tôi nghe lời ru bỗng sợ
Mưa
Đêm ở rừng nghe thơ
Một nét làng
Tiếng ngày mới bình yên
Tối thứ Bẩy
Chiếc khăn rằn Khơme
Khúc dân ca trên điểm tựa
Miếng trầu phum Choăm Sre
“Hết nước cấm nhìn”
Dải đồng bằng thương nhớ
Giấc ngủ
Bài thơ không viết nháp
Tìm bạn
Ngày tôi rời mặt trận
Kính gửi sư đoàn 307
Trời sao
Kỷ niệm ngày nhập ngủ
Thơ LÊ MINH QUỐC
Trên những nẻo đường chiến tranh (Đoàn Tuấn giới thiệu)
Đất nước và người lính
Đề tựa thơ mình
Ngủ đất
Nhật ký một ngày
Binh nhất
Đọc lại Truyện Kiều
Những mùa mùa khô trong trí nhớ
Uzađao 1979
Mùa trăng phum Giềng
Gặp ở Angko Vát
Trò chuyện cùng vách đá
Anglungveng 1980
Mẹ
Trở lại nơi đóng quân
Đêm ở rừng Choansan
Viết từ Anglungveng
Đọc “Bạch Vân thi tập” 1977
Viết từ cánh rừng Đông Bắc Campuchia
Dỗ giấc ngủ
Trên đường ra tiền tuyến
Những liệt sĩ trinh tiết
Bài thơ về hoa cúc
Mùa xuân
Đứng trước nghĩa trang Svâyriêng
Trò chuyện với cỏ
Đêm trú quân ở Xam Công Thmây nhớ Hàn Mặc Tử
Trên đường về nước uống rượu ở Stung reng
Trời đừng vội sáng
Hoài niệm cánh rừng
Nhịp thở “một - hai”
Cơn sốt
Đồng đội
Đêm hạnh ngộ
Giấc mơ xanh
Trong mơ áo lính
Hồi tưởng tuổi 20
Đến Hà Nội nhớ bạn thời đi bộ đội
Thơ mừng nhà mới
Những ngày làm thơ
< Lùi |
---|