THƠ Tập thơ Lê Minh Quốc, Đoàn Tuấn - ĐẤT BÊN NGOÀI TỔ QUỐC

Lê Minh Quốc, Đoàn Tuấn - ĐẤT BÊN NGOÀI TỔ QUỐC

Mục lục
Lê Minh Quốc, Đoàn Tuấn - ĐẤT BÊN NGOÀI TỔ QUỐC
LÊ MINH QUỐC giới thiệu ĐOÀN TUẤN
TUỔI 18
MẸ VÀ HÒM THƯ CON
TÔLLÊ SÁP ĐÊM 5 THÁNG MỘT NĂM 1979
ĐẤT BÊN NGOÀI TỔ QUỐC
LÍNH TRÁNG
LÁ MỤC
HOÀNG HÔN ĐỨC LẬP
ĐƯỜNG LÍNH
SAU MÀU XANH LÁ
VẬN ƠI!
AN-LUNG NĂM 1981
ĐIẾU THUỐC
CƠN KHÁT VÀ TIẾNG GÀ RỪNG
ĐÊM ẤY CHÚNG TÔI NGHE LỜI RU BỖNG SỢ
MƯA
ĐÊM Ở RỪNG NGHE THƠ
MỘT NÉT LÀNG
TIẾNG NGÀY MỚI BÌNH YÊN
TỐI THỨ BẢY
CHIẾC KHĂN RẰN KHƠ-ME
KHÚC DÂN CA TRÊN ĐIỂM TỰA
MIẾNG TRẦU PHUM CHOĂMSRE
HẾT NƯỚC CẤM NHÌN
DẢI ĐỒNG BẰNG THƯƠNG NHỚ
GIẤC NGỦ
BÀI THƠ KHÔNG VIẾT NHÁP
TÌM BẠN
NGÀY TÔI RỜI MẶT TRẬN
KÍNH GỬI SƯ ĐOÀN 307
TRỜI SAO
KỶ NIỆM NGÀY NHẬP NGỦ
ĐOÀN TUẤN giới thiệu LÊ MINH QUỐC
ĐẤT NƯỚC VÀ NGƯỜI LÍNH
ĐỀ TỰA THƠ MÌNH
NGỦ ĐẤT
NHẬT KÝ MỘT NGÀY
BINH NHẤT
ĐỌC LẠI TRUYỆN KIỀU
NHỮNG MÙA KHÔ TRONG TRÍ NHỚ
UDAĐAO 1979
MÙA TRĂNG PHUM GIỀNG
GẶP Ở ĂNGCO VÁT
CHUYỆN TRÒ CÙNG VÁCH ĐÁ
ANGLUNGVENG 1980
MẸ
TRỞ LẠI NƠI ĐÓNG QUÂN
ĐÊM Ở RỪNG CHOANSAN
VIẾT TỪ AN-LUNG-VENG
ĐỌC “BẠCH VÂN THI TẬP” NĂM 1977
VIẾT TỪ CÁNH RỪNG ĐÔNG BẮC CĂMPUCHIA
DỖ GIẤC NGỦ
TRÊN ĐƯỜNG RA TUYẾN TRUỚC
NHỮNG LIỆT SĨ TRINH TIẾT
BÀI THƠ VỀ HOA CÚC
MÙA XUÂN
ĐỨNG TRƯỚC NGHĨA TRANG SVAY RIENG
TRÒ CHUYỆN VỚI CỎ
ĐÊM TRÚ QUÂN Ở XAM CÔNG THMÂY NHỚ HÀN MẶC TỬ
TRÊN ĐƯỜNG VỀ NƯỚC UỐNG RƯỢU Ở STUNG TRENG
TRỜI ĐỪNG VỘI SÁNG
HOÀI NIỆM CÁNH RỪNG
NHỊP THỞ ‘MỘT- HAI”
CƠN SỐT
ĐỒNG ĐỘI
ĐÊM HẠNH NGỘ
GIẤC MƠ XANH
TRONG MƠ ÁO LÍNH
HỒI TƯỞNG TUỔI HAI MUƠI
TRƯA NAY
ĐẾN HÀ NỘI NHỚ BẠN THỜI ĐI BỘ ĐỘI
THƠ MỪNG NHÀ MỚI
NHỮNG NGÀY LÀM THƠ
Thơ ĐOÀN TUẤN
Tất cả các trang

6

 

LỜI THƯA,

Tập thơ này được ra đời khi tôi ra Hà Nội gặp lại đồng đội cũ của một thời chiến tranh. Góp nhặt lại những gì đã viết còn rơi rớt trong sổ tay. Tập thơ in xong và nộp lưu chiểu vào tháng 12.1997.

Toàn bộ tiền thưởng của tôi trong cuộc thi thơ về hình tượng con cọp do báo Văn nghệ TP.HCM tổ chức, chuyển ra Hà Nội để Đoàn Tuấn lo in ấn. Bìa là tượng điêu khắc của Điềm Phùng Thị. Sau này tập thơ được NXB Trẻ tái bản.

Đọc lại và còn thương lấy thời tuổi trẻ của mình. Một vết sọ đã hằn qua năm tháng...

Nay tôi post lại bài trả lời phóng vấn của báo Phụ Nữ TP.HCM ngày 22.12.1999 như lời tự sự về năm tháng đó:

Lê Minh Quốc: Thời gian ở chiến trường là những ngày đẹp nhất

Năm mười tám tuổi, tôi đi bộ đội. Khoảng thời gian 6 năm ở chiến trường với tôi là những tháng ngày đẹp nhất không còn trở lại nữa của tuổi thanh xuân. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ về kỷ niệm rất gian khổ. Lúc đó, chúng tôi đã làm thơ để chuyền tay nhau đọc. Tôi còn nhớ những bài thơ của Đoàn Minh Tuấn (giải A cuộc thi thơ của tạp chí Văn Nghệ Quân đội năm 1986) cũng bắt đầu từ năm tháng đó. Có điều là một người từng cầm súng chiến đấu ở đất nước Ăng-ko - nhưng tôi nhận thấy: Chúng ta vẫn chưa có những tác phẩm thơ xứng đáng với tầm vóc của người chiến sĩ quân tình nguyện. Chắc chắn không phải vì tài năng của người cầm bút - mà vì một điều gì đó tôi không lý giải được. Những năm tháng ở Campuchia, Lào, ở biên giới Thái Lan - với tôi vẫn còn đậm tình đồng đội và sự hy sinh rất lớn… Chẳng bao giờ tôi quên được những buổi chiều vàng vọt ở các nghĩa trang Đức Cơ (đường 19B), An Lung Veng, Kulen… nơi an nghỉ của những đồng đội. Chẳng quên được những cánh rừng trong mùa khô, mùa mưa mà mìn KP2, K63, 65.2A, 45.2A,… rải đầy như lá. Đối đầu với biết bao sự gian khổ rất khắc nghiệt, chúng tôi sống và làm thơ. Những bài thơ của tôi sau này được in trên báo chí, trong những tập thơ - đã được ra đời như vậy. Bây giờ lùi vào quá khứ để nhìn lại cuộc chiến tranh, tôi thấy mình đã ít nhiều thi vị hóa, thậm chí đã tránh né khi viết về sự hy sinh mất mát. Liệu có nên như vậy không? Bây giờ đã rời đội ngũ, vật lộn với cơm áo đời thường làm tôi thấm thía những tháng năm tuổi trẻ cầm súng lúc đó, không ai đòi hỏi chúng tôi về chuyện… hộ khẩu bao giờ! Bây giờ trở về, trường đại học, rồi đi viết báo kiếm sống, với tôi hộ khẩu lại vẫn là chuyện canh cánh bên lòng. Có phải đây là một đòi hỏi quá lớn đối với một người lính trở về? Những đời thường như vậy thơ ca của tôi đành bất lực. Dù sao, xin ghi nhớ sự cưu mang của đơn vị C7, D8, F29 (307) đã nuôi dưỡng thơ tôi và tôi trưởng thành.


VI.2012

LÊ MINH QUỐC

 

 

6B



Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com