QUÁCH GIAO: Tình bạn của thi sĩ QUÁCH TẤN

Mục lục
QUÁCH GIAO: Tình bạn của thi sĩ QUÁCH TẤN
Tình bạn Bàn Thành Tứ Hữu
Thân tình giữa Yến Lan và Quách Tấn
Yến Lan hát bội để gởi niềm tâm sự
Tất cả các trang

 

Nhà nghiên cứu Quách Giao là con trai thi sĩ Quách Tấn. Ông đã có nhiều tập sách, trong đó có những tập viết chung với Quách Tấn. Sau khi thân phụ mất, ông đã làm một nghĩa cử cảm động là tìm kiếm, sắp xếp thứ tự thời gian và công bố thư từ trao đổi giữa Quách Tấn và Nguyễn Hiến Lê: Những bức thư đầm ấm (NXB TH TP.HCM -2010). Qua trên 200 lá thư trao đổi của hai nhà văn hóa nước Việt từ năm 1966 đến năm 1984, dù thư riêng nhưng công chúng tìm thấy ở đó quan niệm sáng tác, cảm nhận văn học, thậm chí cả thời cuộc lúc ấy...

 

quach-tanRR

 

Nay, tôi vừa nhận bài viết của nhà nghiên cứu Quách Giao - do chị Lâm Bích Thủy cung cấp, đọc kỹ  và xét thấy những tự liệu này có ích cho văn học sử nước nhà, tôi xin phép post lên trang web www.leminhquoc.vn đặng bạn đọc tham khảo.

L.M.Q

V.2014


 

thisiyenlan-R

Thi sĩ Yến Lan - ảnh tư liệu gia đình do Lâm Bích Thủy cung cấp


Tình bạn Bàn Thành Tứ Hữu

 

Ở Bình Định có bốn nhà thơ chơi thân với nhau là Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan và Quách Tấn. Một nhà thơ đất Kiên Mỹ thuộc huyện Bình Khê gọi bốn nhà thơ này là Bàn Thành Tứ Hữu, tức là bốn người bạn của đất Bình Định. Bàn Thành là thành Đồ Bàn thủ đô của nước Chiêm Thành tại Bình Định vào thế kỷ thứ X do vua Ngô Nhật Hoan xây cất. Thành Đồ Bàn  nhờ địa thế và kiến trúc kiên cố nên bền vững trên 5 thế kỷ. Đến năm 1470 vua Lê Thánh Tông đánh lấy đổi tên là thành Qui Nhơn. Đời Tây Sơn,  Nguyễn Nhạc xưng đế đóng đô tại đây được 18 năm, đặt tên là Hoàng Đế Thành. Năm 1799 Nguyễn Ánh lấy được đổi tên là Bình Định thành. Năm 1814 thành Đồ Bàn bị phá đi để lấy đá xây thành mới cách thành cũ chừng 5 cây số về hướng Nam. Người đời sau khi nói đến địa danh Bình Định thường dùng tên  Đồ Bàn

Bốn nhà thơ tuy không cùng sinh song đã sống tại Bình Định và đã kết tình văn nghệ  cùng nhau nên bạn hữu đặt tên là Bàn Thành Tứ Hữu cho thêm phần văn chương. Ngoài ra bốn nhà thơ này còn được gọi là Tứ Linh (bốn con vật linh thiên là rồng, phụng, lân, rùa) Bốn nhà thơ này không lập ra nhóm trường thơ Bình Định, không thuộc nhóm thơ Qui Nhơn. Tuy nhiên họ vẫn là những nhà thơ của Bình Định.

Người lớn tuổi nhất trong Bàn Thành Tứ Hữu là Quách Tấn (1910) kế đến là Hàn Mặc Tử (1912) rồi Yến Lan (1916) và cuối cùng là Chế Lan Viên.(1920). Quách Tấn và Yến Lan đều sinh tại Bình Định. Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên sinh tại Quảng Trị và lớn lên trên đất Bình Định. Hàn Mặc Tử chết sớm vào năm 28 tuổi (1940) chết và được chôn trên đất Bình Định. Chế Lan Viên chết năm 69 tuổi (1989) hỏa táng trên đất Sài Gòn. Quách Tấn mất năm 85 tuổi chôn nơi Xứ Trầm Hương (Khánh Hòa). Và Yến Lan mất năm 83 tuổi (1998) chôn tại quê hương Bình Định.

Làng thơ Bình Định dùng tên Tứ Linh để gọi Tứ Hữu: Hàn Mặc Tử là rồng, Chế Lan Viên là phụng, Yến Lan là lân và Quách Tấn là rùa. Phần lớn nhân cách và văn phong của mỗi người đều tương xứng với mỗi con vật.

Trong Bàn Thành Tứ Hữu, hai nhà thơ Yến Lan và Chế Lan Viên quen thân với nhau từ thuở ấu thơ vì hai người cùng sống với gia đình gần bên nhau tại thành Bình Định. Yến Lan gặp Hàn Mặc Tử năm 1930 tại nhà Yến Lan và cùng lên xuống thăm nhau. Lúc này Yến Lan đang mang biệt hiệu Xuân Khai và Hàn Mặc Tử còn lấy hiệu Phong Trần. Hàn Mặc Tử quen với Chế Lan Viên năm 1936 khi đang cùng học trường collêge Qui Nhơn. Từ ấy ba nhà thơ qua lại cùng nhau và cùng có ý định thành lập trường thơ Loạn. Sau đây là một đoạn hồi ký của nhà thơ Yến Lan về trường thơ này:

"Sống giữa lòng Bình Định, những chiều hiu hiu nắng quái, tôi và Chế Lan Viên thường lên lầu cửa Đông mà hai đứa tôi gọi là lầu Tư Tưởng, phòng tầm mắt nhìn thị trấn, rồi vọng đến những chân trời xa tắp, lòng ngậm ngùi cho mảnh đất quê hương đã trải qua lắm uộc đổi thay. Có lúc chúng tôi nghĩ xa hơn đến các triều đại của quá khứ từng nối tiếp nhau đến sự thăng trầm biến thiên của lịch sử, rồi bàn nhau cùng viết về cảnh điêu tàn, những cuộc đời dâu bể. Hoan đi sâu vào sự đau thương, tán tạ, thịnh vượng, làm sống lại những lễ hội, sinh ca của các hội tộc quyền quý, rồi binh biến, máu lửa thay cho một thuở thanh bình. Tập thơ của Chế có tên là Điêu Tàn. Tập thơ của tôi đặt tên là Giếng Loạn.

Nghe tôi đôi lần đề cập đến Giếng Loạn, Tử rất muốn xem (lúc này anh đang bệnh). Tôi mang xuống cho anh. Khoảng một tuần sau Tử đưa trả bản thảo và nói: Tôi đã xem hết tập thơ rồi. Có một số  xúc cảm nên cố làm một bài riêng tặng cậu. Anh lấy ở túi áo ra trao cho tôi và trân trọng nói. Đây cứ tạm coi như là một bài bạt sơ thảo. Mà tôi thấy cái nhan đề không ổn. Sao cậu không viết là “Giếng lạng” mà viết là “Giếng Loạn”? Tôi đáp:

"Có vấn đề ngôn ngữ tôi muốn thảo luận với anh đấy. Rồi tôi và Tử bàn nhau hồi lâu, sau cùng thống nhất là “Giếng Loạn”. Loạn ở đây là loạn lạc, đày đủ ý nghĩa hơn Lạng là bỏ hoang. Bài thơ Tử tặng tôi chính là bài “Trăng Tự Tử” mang dáng dấp của một bài bạt cho cả tập thơ. Tôi đã có chủ ý sẽ in nó vào tập “Giếng Loạn” khi xuất bản. Nhưng bản chép tay ấy với cả tập thơ bị thất lạc lúc đi sơ tán, ngày Pháp mở chiến dịch Át- lăng đánh vào Qui Nhơn. Bản in trên các sách hiện nay là bản lưu từ trong xấp di cảo do anh Quách Tấn giữ (Trích Hồi ký: Yến Lan - Nhớ Mãi Về Anh).

Trong hồi ký về Bàn Thành Tứ Hữu, Quách Tấn cũng có viết:

Lúc ấy Hàn Mặc Tử đã hoàn chỉnh tập Thơ Điên, Chế đã xuất bản tập Điêu Tàn, Yến Lan có làm tập thơ Giếng Loạn. Trong ba tập tơ đều có không khí siêu thực, bất thường nên ba tác giả mới cùng nhau lập ra  Trường Thơ Loạn. Trường Thơ Loạn, năm 1938 lấy bài tựa tập Thơ Điên và tập Điêu Tàn tạm dùng làm tuyên ngôn. Trương thơ ra đời không được nhiều người hưởng ứng nên không gây được ảnh hưởng trong làng thơ ( Trích Bóng Ngày Qua. Bàn Thành Tứ Hữu).

Quách Tấn quen với Hàn Mặc Tử từ năm 1931 khi Quách Tấn làm việc tại Đà Lạt nhờ một người bạn là Nguyễn Trấp ở Qui Nhơn tìm hộ. Hai người quen nhau và Tử giới thiệu Chế Lan Viên cùng Yến Lan cho Quách Tấn. Mãi đên khi Hàn Mặc Tử mất (11/11/1940) Ba nhà thơ Quách, Chế và Yến mới thật thân nhau và sồng bên nhau trong những ngày vui nơi xứ Trầm Hương có tiếng sóng của biển Nha Trang đồng vọng dưới bóng mát của khóm mận ba cành trong sân vườn nhà 21 đường Bến Chợ.

Những tình cảm giữa các người bạn đều được ghi lại trong hồi ký của Quách Tấn. Về Hàn Mặc Tử có “Đôi Nét Về Hàn Mặc Tử”. Về Bích Khê có “Đời Bích Khê”, Với Chế Lan Viên và Yến Lan trong “Bàn Thành Tứ Hữu”. Sau đây là những gì chưa có trong hồi ký của Quách Tấn.


 

Thân tình giữa Yến Lan và Quách Tấn


 

quach-tanRR


Tuy quen nhau rất muộn nhưng Yến Lan đã có nhiều thời gian sống cùng Quách Tấn tại Nha Trang và Bình Định.

Năm 1941, sau khi Hàn Mặc Tử mất và Chế Lan Viên ra Thanh Hóa dạy học, Yến Lan vì buồn nên vào Nha Trang chơi gần nửa năm. Công việc của Yến Lan chỉ ở nhà đọc sách khi Quách Tấn đi làm. Tủ sách trong nhà gồm có sách chữ Pháp, chữ Hán và các sách các báo trong nước. Yến Lan đọc và ghi chú các điều cần nhớ và hàng đêm đều đem ra thảo luận cùng với Quách Tấn. Hiện tại  húng tôi còn giữ được một tập ghi chép của Yến Lan về thơ Pháp và Trung Hoa dày trên 100 trang khổ giấy lớn (A4). Chúng tôi mỗi khi đi học về đều quanh quẩn bên chú Lang (Yến Lan tên thật Lâm Thanh Lang) và được chú chỉ dạy thêm về các bài vở ở nhà trường. Chú giảng dạy rất dể hiểu và nhiều lý thú. Ngoài ra chú còn dạy tôi học thuộc những bài thơ lục bát của Tản Đà, những bài ca dao. Má tôi đối với chú Lang rất quý mến và thương yêu như em ruột.

Những kỷ niệm giữa ba tôi và chú Lang tôi thường được chứng kiến vì khi đi chơi biển hoặc viếng cảnh Tháp Bà, Hòn Chồng hay các thắng cảnh khác tôi đều được cho đi theo. Đi Hòn Chồng thì tôi thích thú khi được chú Lang chỉ cho cách ngắm cảnh nước non theo kiểu chổng khu nhìn cánh vật qua hai chân và đầu lộn ngược.

Tôi say sưa nghe những câu chuyện về bàn tay ông Khổng Lồ còn in lại trên vách đá và nhất là những bài thơ vịnh Hòn Chồng của chí sĩ Trần Quý Cáp và của cụ Thuần Phu Trần Khắc Thành.Sở dĩ tôi luôn luôn có mặt trong các cuộc thăm viếng thắng cảnh vì ba tôi và các thân hữu thường chỉ đi vào ngày chúa nhật.

Nhà tôi ở bên cạnh một ngôi đình tên là Đình Xương Huân. Đình có cây me lâu năm, tàn xõa trùm lên ngôi nhà bếp của chúng tôi. Đến mùa me có trái, thấy chúng tôi nhìn chùm me chín mà thèm song không thể nào hái được, chú Yến Lan bắt thang leo lên mái nhà hái đem xuống cho chúng tôi. Vừa khi ấy ba tôi đi làm về. Chú Lang sợ ba tôi ngầy nên vừa đánh đu trên nhánh me vừa cười giả lả:

- Anh Tấn ăn me chín được không?

Biết được tấm lòng của chú nên hình ảnh hái me vẫn sống mãi trong lòng ba tôi. Trong hồi ký ba tôi có viết: "Hình ảnh ấy trong mấy mươi năm vẫn sống trong lòng tôi. Mùa thu năm Mậu Thân (1968) lòng bổng nhớ Yến Lan da diết, tôi ra đứng tần ngần dưới gốc me. Bổng một trận lá me vàng tuôn xuống làm sốn dậy bóng dáng cố nhân! Gần 15 năm ly biệt, không một tin đưa! Bồi hồi, ấo não tôi viết được một bài lục bát:

Me thu lã chã mưa vàng

Bóng thu hiu hắt bóng chàng năm xưa

Bấy chầy cách trở nắng mưa

Đời Ly Tao ngọt hay chua hỡi lòng.

Thời tiền chiến, nhờ sống trong một môi trường an lành, sung túc nên tình bạn chỉ biết vui trong niềm vui riêng với gia đình, bạn hữu. Mùa hè sống với trời mây biến cả. Tết đến thì đi ngao du Bình Định Nha Trang. Kỷ niệm đầy đủ và nên thơ nhất là tình bạn sum vầy dưới khóm mận trước sân".

Cây mận sống đã lâu năm, cành lá sum suê tỏa bóng mát đầy sân là nơi ba tôi và các bằng hữu thường trải chiêu hoặc bắt ghế ra ngồi trong những buổi trưa. Khi mận ra hoa thì râu hoa mận rụng đầy sân như tuyết phú, khi trái chín thì màu đỏ của trái mận làm  ngây ngất lòng thi nhân. Cảnh mận ra hoa, mận chín và sự sum họp của bạn bằng thường chứa chất vào trong thơ của ba tôi. Như:

Gốc mận ba cành huê lại huê

Đường xa ba bạn mãi chưa về.

Bóng sân trải chiếu chờ tin mộng

Bướm chập chờn hương gió bốn bề.

Từ năm 1942 Yến Lan ra Thanh Hóa dạy trường Mission thế chỗ cho Chế Lan Viên vào dạy trương Chấn Hưng (Đà Nẳng) thì chú Lang thường vào Nha Trang trong những ngày hè. Tuy nhiên sau này chú Chế Lan Viên có vợ và chú Yến Lan cũng vậy nên kể từ năm 1943 chú Yến Lan thưa vào Nha Trang. Ba tôi có thơ:

Năm ngoái trời trưa chung bóng mận

Năm nay mận nở luống trông nhau

Ngày xanh gặp gỡ dần thưa thớt

Mây ráng thêm thương tuổi bạc đầu.

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, ba tôi cùng chú Yến Lan cùng ở Bình Định nhưng xa cách nhau trên ba mươi cây số. Vì không có phương tiện nên đi lại thăm nhau khó khăn và nhất là sinh kế nên hai người rất ít khi gặp nhau.

Quách Tấn ngồi thắc gióng

Yến Lan nấu sà phòng

Văn chương tỉnh Bình Định

Phó mặc Nguyễn Thành Long.

Khi đó tôi học trường Nguyễn Huệ  ở Bồng Sơn và Hòa Bình nên thường có dịp ghé lại thành Bình Định để đọc thơ Yến Lan và nhất là xin chép những vở kịch kháng chiến để về trình diễn tại địa phương.

Sau hiệp định Geneve (1954) Yến Lan và gia đình tập kết ra Bắc, Quách Tấn và gia đình trở lại Nha Trang. Trước khi chia tay hai nhà thơ gặp nhau tại Bồng sơn trong một buổi học tập chính trị. Hai người lén nói chuyện riêng nơi vắng vẻ. Quách Tấn khuyên Yến Lan nên ở lại vì đi tập kết chỉ có hai năm. Yến Lan tuy ưng thuận song còn ngập ngừng nên gởi cho Quách Tấn ba bản thảo: hai tập thơ “Xa Xăm” và “Kết Giao” cùng một tập kịch thơ “Bóng Giai Nhân”. Sau đó thím Yến Lan vào Nha Trang và nhận nơi Quách Tấn một bức thư gởi cho Yến Lan tin cho biết tay tỉnh trưởng Phú Yên đã có kế hoạch thủ tiêu những người ở lại (trong đó có Yến Lan) vậy Yến Lan nên đem gia đình đi tập kết. Tâm sự Quách Tấn dường như đã có trong thơ từ trước:

Chở nặng buồn thương xe bạn đi

Ráng vàng lau trắng bóng sâm si

Đầy sân hoa mận hai lần nở

Lòng bạn phương xa đã nóng về.

Suốt hai mươi năm trời (1954-1975) kẻ Bắc người Nam lòng thương nhớ không lúc nào nguôi:

Nước chia đôi nhà cũng chia đôi

Anh Nam em Bắc, bạn phương trời

Chờ mong mộng luống chìm theo mộng

Thương nhớ lời không dám rỉ lời

Mòn mỏi niên quang hoa lá rụng

Bẽ bàng tâm sự nước mây trôi

Những đêm ánh sáp ngời trang sử

Sùi sụt dòng Ngân sóng biển khơi.

Trong những ngày xa cách Yến Lan có viết một bài thơ nhan đề “ Nhà Tôi Đó” đề tặng Quách Tấn. Bài thơ làm tháng 6 năm 1957 dài 227 câu. Có những đoạn như:

Anh từ bảy bến đò cách quãng

Tìm đến nhau như vệt nắng vàng hanh

Giữa chiều đông tìm sưởi tâm tình

Đọng giữa khay trà chén không đủ bộ

Hai chúng ta đang ngày gian khổ

Được gần nhau chỉ một vài đêm

Dưới nhà này

như trong tổ

đôi chim

Nằm ấp lại bãi bờ trước ngày kháng chiến

Đâu Nha Tang

con tàu đêm bánh chuyển

Rụng mất rồi trăng hẹn bãi thông xanh

Mây giăng ngang những nét chữ thư tình

Lòng lên sạn nẻo đường nắng ướm

Và từ ấy trong thơ tôi vắng bướm


Và cảm động nhất là đoạn kết:

Chính anh đang đi trên đường phố chợ

Chân dừng lại trước gian nhà tôi ở

Nhịp bước rộn ràng động thức mấy cây

Anh lại gần

Gọi khẽ: “Yến Lan

Gió đã lạnh hãy mặc thêm chiếc áo

Đốt điếu thuốc

và cùng mình đi dạo”

Trên đường chiều ngất ngưởng chúng ta đi

Bóng ngã qua đồi nhòe bóng những cây si

Dưới chân đồi người tưởng bóng mây

Vội cởi nón để nhìn sao rựng mọc.

Nhớ đến Yến Lan, Quách Tấn trong các tập thơ đã xuất bản như tập Đọng Bóng Chiều có bài Chi Xiết viết đề tặng Xuân Khai (tức Yến Lan):

Hoa bưởi ngát vườn sương

Khuya rồi canh nhớ thương

Phương trời thu lận đận

Chi xiết niềm tha hương

(Nha Trang 1964)

Và Trông Mận Nhớ Người, viết đề tặng Hoan (tức Chế Lan Viên), Lang:

Mận già ba gốc sum suê

Ngã hai còn một não nề nhớ thương

Xuân về cành biếng đơm hương

Đầy sân rụng ánh tà dương lạnh lùng

Đây là một bài thơ trong tập Nhánh Lục chưa xuất bản. Tập này toàn là thơ lục bát có nhiều bài như Tình Chim, Cúc Nảy Hương đều nói đến sự thương nhớ các bạn ở xa.

Trăm năm đã non nguyền nước hẹn

Dẫu đôi bờ tình hẹn trước sau

Đôi bờ dẫu bạc gió lau

Lòng thương vẫn nhớ một màu sông xanh

(Cúc Nảy hương – Nhánh Lục)

Năm 1972 trong tập thơ Tiếng Vàng Khô, Quách Tấn có đôi câu:

Muốn đem tâm sự trao lòng giấy

Thoảng khói ngàn xa bút ngại ngần

thì năm 1982 (mười năm sau) Yến Lan cũng viết bài tứ tuyệt:

Nhớ bạn nhiều hôm da diết nhớ

Lại đành không tiện viết thư thăm

Ngại trao tâm sự cho tờ giấy

Đè nặng thêm tay kẻ nhận cầm

(Vô Tình và Hữu Tình)

Bài thơ của Yến Lan làm từ tháng 9 năm1982 mà mãi đến tháng 10 năm 1990 (hơn 8 năm) mới cho đăng báo. Được hỏi ý kiến Quách Tấn đã trả lời: “Tôi vẫn biết và tin chắc rằng lòng hai bạn đối với tôi xưa sao nay vậy. Thái độ hờ hửng chỉ là sắc tướng bên ngoài. Tình thương yêu nhau mới là thể tánh.Tướng tùy duyên, tánh bất biến nên lòng tôi đối với Yến Lan vẫn nguyên chất lượng”.

Trong thời gian đất nước phân đôi, tình của nhà thơ Yến Lan đối với Quách Tấn được một người duy nhất chứng kiến, đó là chú Quách Tạo em ruột nhà thơ Quách Tấn. Trước kia chú Quách Tạo tuy không được liệt vào hàng tứ hữu song vì thường xuyên có mặt ở Nha Trang trong những ngày vui dưới bóng mận, những cuộc du hành lý thú trong các dịp Tết tại Bình Định và nhất là  trong những buổi bàn luận văn chương giữa các nhà thơ. Chú Quách Tạo hiểu về thơ rất sâu sắc, đọc nhiều và lại biết võ nghệ và hát bội rất thiện nghệ. Khi tập kết ra Bắc chú làm ở viện Kiểm sát tối cao Hà Nội và ăn cơm tháng tại nhà chú Yến Lan. Tình cảm giữa hai gia đình rất thân thương như tình ruột thịt. Trong hồi ký của mình chú Quách Tạo có viết lại câu chuyện Yến Lan hát bội (bài có đăng trong cuốn Đào Tấn và Hát Bội Bình Định) và câu chuyện về tập thơ Giọt Trăng.


Sau đây là câu chuyện trích trong Hồi Ký của Quách Tạo:

 

42550nhung-buoc-thuRR


 

Yến Lan hát bội để gởi niềm tâm sự


Chế Lan Viên tuy bận nhiều công tác nhưng mỗi khi gặp nhau đều hỏi thăm tình hình gia đình anh Tấn ở miền Nam và thường nhắc đến những kỷ niệm xưa lúc ở Nha Trang, Bình Định một cách trìu mến thân thương. Trong những bài văn thỉnh thoảng Chế Lan Viên có nhắc đến những kỷ niệm học tập thơ văn, nhưng tình cảm quý mến một cách e dè.

Riêng Yến Lan thì tình cảm thân thương hơn. Tình cảm của Yến Lan đối với anh Tấn như tình một người em đối với một người anh hơn là một đôi bạn. Những kỷ niệm đẹp khi Yến Lan sống với anh Tấn ở Nha Trang, ở Bình Định, Yến Lan nhiều lúc muốn gởi vào văn, thơ song không viết. Tấm lòng của Yến Lan trong những ngày sống bên tôi ở miền Bắc đối với anh Tấn thật thiết tha, thật thông cảm.

Một hôm anh em ngồi bàn luận về thơ văn Đào Tấn. Chợt câu chuyện chuyển qua vở tuồng “Cổ Thành Hội”. Tôi cất giọng hát về đoạn Trương Phi tại Cổ Thành:

Thủa Hạ Bì phò nhị tẩu xa

Đầu Tào Tháo phụ tam nhân ước

Bài khai nhất chước

Nhận ngã thiên sầu

Nghĩ quái cho nhị ca Phi: Đầu? đầu? đầu?

Là đầu làm sao hè?

Thương hại cho ca ca Phi: Khổ? khổ? khổ?

Tôi hát đến đó thì Yến Lan hát nối tiếp:

Nhất nhạn hoành phi vân tế lộ

Cô đăng trường chiếu nguyệt biên thành.

Vừa ngâm xong hai câu này thì Yến Lan ngừng lại nói lối:

Nghĩ lại nhị ca Phi, thân phò nhị tẩu, quy thuận Tào man, hay.. Hay là người quyền giả nhất thời? Ừ..ừ.. Quyền phải? Biến phải?

Rồi lại hát tiếp:

Anh hùng tự hữu quyền nghi xứ

Khả hận vong đô thủ túc tình.

Khi Yến Lan hát dứt câu hát thì lưng Yến Lan ngồi thẳng lên mắt long lanh như có ngấn lệ và nét mặt bâng khuâng. Yến Lan đã sống trọn vẹn trong âm thanh giọng hát, trong ý nghĩa bài hát, trong tâm sự nhân vật Trương Phi.

Sau đó Yến Lan có tâm sự với tôi là anh nghĩ anh Tấn cũng giống như Quan Công vì tòng quyền mà phải về Tào. Mỗi lần hát đến đoạn này là lòng Yến Lan vừa đau xót, vừa nguôi ngoai thương cảm.

 

(Trích Hồi Ký của Quách Tạo)

Q.G

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com