LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 4.1.2015

SO-VANDACBIET-VOHONG

Giai phẩm Văn - Số đặc biệt nhà văn Võ Hồng (ấn hành tháng 3.1974). Tư liệu L.M.Q

 

Không thể chối cãi, các trang mạng xã hội đã là nguồn thông tin cần thiết cho nhiều người. Bất kỳ kỳ ai cũng có thể chia sẻ, đón nhận cùng cộng đồng. Cả ngày nhoay nhoáy gõ phím, sáng nay tình cờ lạc vào trang cá nhân của nhà thơ Trần Mạnh Hảo. Phải nói thật, thỉnh thoảng y cũng lướt qua nhiều trang facebook. Có lúc, thấy hình ảnh nhưng không ghé mắt đến. Có những thông tin không đọc gì. Chỉ lướt qua với tâm thế của một người sau giờ làm việc, vươn vai bước ra trước nhà xem xe cộ ngược xuôi cho vui con mắt, tán gẫu với bà hàng xóm vài câu vơ vơ đỡ nhạt miệng. Chẳng bận tâm gì.

Thế nhưng hôm nay phải dừng lại với bài Mặt trời khiếm thị vào thơ của nhà thơ Trần Mạnh Hảo. Anh bình tập thơ lục bát Thức cùng bóng tối (NXB Hội Nhà văn 10-2014) của nhà thơ khiếm thị Nguyễn Việt Anh. Nhà thơ chuyên nghiệp bình thơ, rõ ràng đáng tin cậy.  Hơn nữa, đọc thấy 2 chữ “khiếm thị” tự dưng có cảm tình, không thể bỏ qua. Nhà thơ Trần Đăng Khoa có comment: “Nhiều câu quả là hay thật, và hay nhất là không ngửi thấy mùi Trần Mạnh Hảo. Sợ bố Hảo lại vẽ ra một nhà thơ, như lão đã từng vẽ ở... thế kỷ trước. Bác đưa hết thơ cô bé này lên fb đi. Tuyệt!”

Tuy nhiên, y lại ngờ ngợ không rõ anh Hảo có “bốc đồng” hay không?

Chừng mươi năm trước, anh đến tòa soạn báo PN gặp y, hào hứng thông báo vừa ra phát hiện nhân tài thơ mới toanh, ấn luôn cả tập thơ vào tay: “Q đã biết tác giả thơ này chưa? Chưa à? Thiếu sót trầm trọng đấy nhé. Cô ta ở Bình Dương, còn trẻ, làm cơ quan Nhà nước, thơ cực hay, hay cực kỳ. Nói thật, tớ phải ngã mũ chào”. Đại khái thế, anh khen bốc lên tận mây xanh, ca ngợi trên vài tờ báo và hiện nay, tác giả thơ đó chìm nghỉm vô âm tín.

Thời buổi này, ai ai cũng làm thơ. Nhưng thơ hay vẫn thuộc lại hiếm, do đó, ghi lại những câu thơ của Nguyễn Việt Anh mà anh Hảo đã chọn. Có đoạn anh bình: “Có lẽ trong nền thi ca Việt Nam và thi ca thế giới chưa ai viết về giọt mưa hay như Nguyễn Việt Anh trong bài thơ 2 câu sau:

Giọt mưa làm ướt nỗi buồn

Hay buồn làm ướt tâm hồn giọt mưa?

Nhà thơ chắc đã mang “tâm hồn giọt mưa” trong nỗi buồn ướt nước mắt của mình, hay giọt mưa từng là hóa thân của anh, một giọt mưa cô đơn, một giọt mưa buồn, một giọt mưa khiếm thị? Chỉ đọc câu lục bát thần kỳ này của Nguyễn Việt Anh đã khiến tôi ngơ ngẩn suốt cả chiều”. Và đây là những câu thơ anh đã khen hay, tất nhiên là hay:

Nâng ly bóng chạm với hình

Tưởng ta cay đắng một mình mà đôi

Em là thực hay là mơ

Xa thì rõ gần lại mờ... mờ sương

Sao em như thể làn hương

Đuổi tìm thì mất nhãng buông thì còn?

Yêu em yêu đến dửng dưng

Thương em thương đến lạnh lùng cằn khô

Nhớ em nhớ đến thờ ơ

Mong em mong đến hững hờ cả em

Trong ta ngọn lửa chập chờn

Muốn hôn lại sợ nụ hôn cháy bùng

Giờ em nhổ tóc dùm anh

Ai người nhổ cỏ giúp mình ngày sau

Yêu đi cho tóc bền màu

Lo gì cỏ mọc trên đầu một mai

Nhặt những hòn sỏi ven bờ

Ném vào vô định mặt hồ du dương

Thú vui tưởng rất bình thường

Ai ngờ chú cá bị thương một ngày

Hải âu giờ đã khác rồi

Cái vỏ ốc cũng qua thời mê say

Cát là cát của hôm nay

Chỉ riêng con sóng vỗ đầy ngày xưa

Thu đi em cũng đi rồi

Chỉ còn hoang vắng tôi ngồi với cây

Ngậm ngùi đón chiếc lá bay

Biết đâu gió giật khỏi tay nỗi buồn

Em tin trong cõi vô hình

Có bàn tay đỡ tay mình không em?

Suốt đêm thức với mưa rơi

Thức hoài chẳng biết trả lời sao đây

Tâm tư thật khó giãi bày

Gửi em trang giấy viết đầy trắng tinh

Gồng mình lên để nói không

Chi bằng nói có cho lòng nhẹ vơi

Theo nhà thơ Trần Mạnh Hảo, tác giả Thức cùng bóng tối hiện sống tại Hà Nội, năm nay 32 tuổi: “Năm 15 tuổi, cậu thiếu niên Nguyễn Việt Anh mắt đang sáng rỡ như mọi người đã bị ngã đứt dây thần kinh thị giác, hỏng hai con mắt, bị mù. Nghĩa là suốt 17 năm nay Nguyễn Việt Anh sống toàn phần trong bóng tối”. Đọc những câu thơ hay, lòng nhẹ nhàng. Tự dưng thấy rằng, biết rằng đâu đó trong dòng đời chảy xiết vẫn còn những tâm hồn đau đáu với thơ.

Hôm kia, nhà văn Bích Ngân gửi tặng vài tập sách mới. Thích nhất là tập Niềm tin chưa mất (NXB Văn hóa Văn nghệ), tuyển chọn lại những sáng tác của nhà văn Võ Hồng viết trước năm 1975. Năm 1936, nhà văn Trầm mặc cây rừng học lớp Nhất trường Tiểu học Sông Cầu. Đây là hình ảnh người thầy năm tháng đó qua trí nhớ của Võ Hồng. Ông tả rõ từng chi tiết:

“Thầy thường mặc Âu phục trắng. Giày nâu, đế cao su. Mũ casque cứng lợp vải màu kaki. Ði tới lớp, tay ôm cặp da, thứ da cá sấu mềm.

Thời đó Âu phục và Nam phục song song tồn tại. Nam phục là quần trắng áo dài đen. Quần trắng bằng vải "tàu bay" hay lụa. Vải áo dài đen thông thường là vải trang đầm cho đàn bà và học sinh trung lưu. Người đàn ông thì mặc áo lương đen (miền Bắc gọi là áo the), áo xuyến (mặt láng), áo sa văn minh (một loại the mỏng, dệt có vân, có bắt hình bìm bìm) áo sa tanh (satin). Vải may Âu phục tiêu chuẩn là một loại vải dệt thật dày bằng sợi đay, màu trắng. Sau thế giới đại chiến lần thứ hai, sợi tổng hợp Polyester mới thịnh hành và vải thường màu đen hoặc màu xanh tối gần với đen. Phép xã giao thời đó đòi hỏi phải khoác áo vét-tông chứ không được chỉ mặc sơ-mi khi đi ra ngoài. Cho dẫu trời nóng 35 độ. Chỉ có thể, khi ngồi trong lớp dạy hay ngồi làm việc ở bàn giấy, cởi áo vét-tông ra máng vào thành ghế.

Ðôi giày cũng có lịch sử của nó. Cũng sau thế giới đại chiến lần thứ hai, màu giày đen mới thịnh hành. Dưới thời Pháp thuộc, màu giày sậm nhất là màu nâu, màu cà-phê rang. Lợt một chút là màu vàng thiên nhiên của da thuộc. Lợt nhất là màu trắng. Duyên dáng ăn diện là giày hai màu. Giày màu đen chỉ được dùng trong những đại lễ”.

Xem lại hình ảnh thời trước, dù trẻ nhưng người ta cũng đã mặc veston khi ra phố, lúc cà phê cà pháo, nay ít thấy. Còn chi tiết này, đọc xong, khó có thể tin nổi, nếu xét trong hoàn cảnh hiện nay: “Thầy có một cách đặc biệt theo dõi đôn đốc sự học của học sinh mình: đó là hằng đêm vào chặng 8-9 giờ, thầy đi rảo một vòng những nhà học trò ở các con đường lân cận coi thử chúng tôi có ngồi nhà học bài hay không. Do vậy mà có những buổi sáng thầy vô lớp kêu tên một đứa bạn tôi, hỏi:

- Hồi hôm trò đi đâu lang thang ở trước tiệm Chấn Thanh? Hoặc:

- Hồi tối nhà trò sao mới 8 giờ mà đã tối thui? Trò học bài trong tối hả?

Một đêm kia thầy đi qua nhà ông cử Giáp, nơi trò Huỳnh và trò Duyên, quê ở Gò Duối đang trọ học. Thầy nghe có tiếng sát phạt "Xì Rô... Già Cơ.. Ðầm Chuồng... Bồi Bích..." Thầy lặng lẽ hé cổng bước vô, đứng sau trò Huỳnh đang say sưa cắt bài, chia bài. Cái miệng cứ tía lia, cười cười nói nói, đôi tay cứ dẻo quẹo cắt cắt chia chia, chợt thầy đằng hắng ho một tiếng ở sau lưng. Quay lại. Ngó lên. Trời ơi, chết rồi! Ríu ríu bốn tay bài lặng lẽ đứng dậy, mắt mở trao tráo như khỉ bị rắn thôi miên. Thầy cúi lượm bộ bài, lặng lẽ đi ra cửa ngõ.

Ai cũng đoán biết được hôm sau loại bão tố nào nổ ra giữa lớp. Bốn tay bài rủi ro đều là học trò lớp Nhất. Ngoài Huỳnh và Duyên, hai người kia tôi quên mất tên”.

Thầy cô bây giờ có đủ thời gian chăm lo cho học sinh như thế không? Chắc chắn là không? Năm qua, tình hình giáo dục nước nhà có nhiều điểm “nóng”, trang TTO vừa chọn ra 10 sự kiện “nóng” nhất trong năm 2014. Đọc xong, thấy buồn cười với thông tin này: “Theo thông tư của Bộ GD-ĐT, từ ngày 15-10-2014, chính thức bỏ cho điểm đối với học sinh tiểu học, thay vào đó hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng giáo viên chủ nhiệm có những nhận xét cụ thể về thái độ học tập, việc hình thành, phát triển năng lực, phẩm chất cần thiết của học sinh, chú trọng việc nhận xét quá trình nỗ lực, tiến bộ của học sinh…

Theo Vụ giáo dục tiểu học Bộ GD-ĐT, việc đổi mới đánh giá thường xuyên bằng nhận xét để tập trung hình thành động lực bên trong, cách đánh giá này giúp giáo viên đổi mới cách dạy, giúp học sinh học được, thích học và học tốt hơn.

Tuy vậy, thay vì nhận xét bằng lời nói, chữ viết, không ít giáo viên đã có “sáng kiến” khắc các con dấu có chữ “Very good”, “Cô khen, cần cẩn thận hơn” “Em cần rèn luyện thêm kỹ năng tính toán” để đóng dấu vào vở của học sinh. Nhiều giáo viên cho rằng việc thay đổi này khiến công việc của họ tăng lên quá nhiều, không đủ thời gian ghi lời phê, nhận xét cho từng học sinh”.

Bạn bè văn nghệ của y có nhiều người vốn nhà giáo như nhà văn, nhà thơ Đoàn Thạch Biền, Nguyễn Thái Dương, Từ Nguyên Thạch, Hà Nguyên Thạch, Nguyễn Nhật Ánh, Đoàn Vị Thượng, Đoàn Vy… Tuy nhiên, chỉ có vài người viết tiểu phẩm trào phúng, chẳng hạn anh Nguyễn Nhật Ánh với bút danh Đề Lĩnh. Đọc lại tiểu phẩm Nói có sách, mách có… sổ của Đề Lĩnh xem sao. Trong đó, có kể thập niên 1980, giáo viên trung học phải sắm các loại sổ như Sổ ghi điểm, Sổ công tác, Số kế hoạch hằng tuần, Sổ báo giảng, Sổ dự giờ… Do quá nhiều sổ nên thời bao cấp, “Có lần đi mua gạo thay vì đem Sổ lương thực, tôi đem lộn Sổ kế hoạch hằng tuần, khiến bà bán gạo la om sòm: “Ở đây bán gạo hằng tháng chứ không có bán hằng tuần”. Có thể cười nổi không?

Thì ra, đã mấy chục trôi qua với biết bao cải cách, thay đổi nhưng rồi hầu như vẫn còn nhiều bất cập. Điều âu lo nhất, ước mơ “vui đến trường” của thầy và trò vẫn còn xa lắm. Thôi thì, cứ tâm niệm như nhà giáo Võ Hồng đã viết: “Gắng tạo niềm cảm thông, niềm an ủi cho các thầy cô giáo để ngày ngày họ dạy dỗ con của bạn trong niềm vui. Cũng dễ hiểu thôi mà: khi có nước mát tưới đều, bụi thúy cúc nở những đóa hoa rực rỡ. Và con của bạn đang ngồi vây quanh, hưởng hương sắc của hoa. Còn thầy cô giáo cũ thì có mong chờ gì ở bạn đâu? Vì vậy mà một lời thăm hỏi đủ đem lại niềm vui thanh khiết”.


L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

Add comment