Những năm đầu thế kỷ XX, tại thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định, có ba anh em ruột cùng sinh trong một gia đình đông con. Lớn lên, ba trong số hơn mười người con của gia đình này đều trở thành những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng của nền văn học nghệ thuật Việt Nam. Đó là nhà thơ Phạm Hổ (1926-2007), nhạc sỹ Phạm Thế Mỹ (1930-2009) và nhà văn Phạm Văn Ký (1910-1992).
Về nhà thơ Phạm Hổ và nhạc sỹ Phạm Thế Mỹ, đã có nhiều bài viết và công trình nghiên cứu về sự nghiệp của họ, dù hai anh em ở hai miền trong những năm đất nước tạm thời bị chia cắt. Riêng nhà văn Phạm Văn Ký, một người sống ở Pháp, đã tạo dựng cho mình một sự nghiệp văn chương rất lớn. Nhưng những tác phẩm của ông, cho đến nay, ít được phổ biến tại quê hương. Ngoài một tập thơ Đường về quê (Nhà xuất bản Hội Nhà văn -1993), một tiểu thuyết Mất nơi ở (Perdre la demeure - Nhà xuất bản Hội Nhà văn -2006, Phạm Văn Ba dịch), chúng ta không có nhiều tư liệu về nhà văn Phạm Văn Ký
Theo tài liệu của Hiệp hội Prefasse, một tổ chức có trụ sở tại Grenoble với mục đích thúc đẩy việc giảng dạy tiếng Pháp ở Đông Nam Á, đặc biệt tại Việt Nam, chân dung nhà văn Phạm Văn Ký được lưu giữ khá đầy đủ. Ông sinh ra trong một gia đình quan lại, là con trưởng trong một gia đình có mười hai người con. Được gửi đến Hà Nội từ năm 13 tuổi, ông học tiếng Pháp tại Lycée du Protectorat, Lycée Albert-Sarraut. Chính tại những nơi này, chàng thanh niên Phạm Văn Ký đã bị kho tàng văn chương Pháp quyến rũ. Theo lời kể của người em là nhà thơ Phạm Hổ, Phạm Văn Ký đã viết thơ và tiểu thuyết bằng tiếng Pháp ngay từ khi còn nhỏ.
Năm 18 tuổi, ông đã là tổng biên tập của hai tờ báo, một ở Sài Gòn, một ở Huế. Báo chí là cách duy nhất để làm cho mình được biết đến như một nhà văn. Mặt khác, thơ ca là nghệ thuật văn học chính. Từ năm hai mươi tuổi, Phạm Văn Ký đã đoạt giải nhất về thơ tại Đại hội Hoa cỏ Đông Dương nhờ bài thơ Điều tra bằng tiếng Pháp. Bài thơ này sau đó sẽ được xuất bản trong tuyển tập Une Voix sur la Voie, xuất bản năm 1936. Tác giả cho biết, khi làm những bài thơ đầu tay bằng tiếng Pháp, tuy viết về phong cảnh và con người Việt Nam, nhưng ông vẫn chịu ảnh hưởng của nhà thơ Pháp là Stephane Mallarme’ (1842- 1898) - một thi sĩ mà ông ngưỡng mộ. Đó là nhà thơ nổi tiếng theo trường phái tượng trưng, người có ảnh hưởng lớn đén nhiều thi sĩ Pháp và nhiều khuynh hướng nghệ thuật sau này.
Trước khi sang Pháp, Phạm Văn Ký đã chiếm một vị trí quan trọng trong giới văn học Việt Nam. Theo nhà nghiên cứu Riddick, "Bằng cách chọn viết bằng tiếng Pháp, ông đã dấn thân vào con đường của những người trí thức hiểu rằng sau năm 1862, ngày bắt đầu sự chiếm đóng của Pháp, đất nước phải trở nên phương Tây hóa để có thể đối mặt với đối thủ bằng vũ khí của riêng mình”.
Giới thượng lưu Việt Nam hy vọng Phạm Văn Ký cũng như những trí thức trẻ khác sẽ dẫn dắt Việt Nam tiến tới một cuộc cách mạng văn hóa xã hội, đây sẽ là điều kiện cần cho nền độc lập của đất nước. Trong tư liệu của Hiệp hội Prefasse còn lưu giữ bức thư của nhà thơ Nguyễn Giang (1910-1969) - họa sĩ và nhà thơ Việt Nam, gửi cho Phạm Văn Ký vào ngày 4/6/ 1939 cho thấy mong muốn này:
“Ký thân yêu của tôi, chúng ta đang làm gì vậy? Chúng ta đang làm việc, phải không? Và tại sao chúng ta làm việc? Để kiếm sống... nhưng trong sâu thẳm, đằng sau mục tiêu thực sự và trước mắt này, tất cả chúng ta hãy hướng tới một mục tiêu khác: lợi ích cho đất nước, phục hồi vật chất và trên hết là đạo đức và trí tuệ của cả một dân tộc. Đây một lần nữa là sự thật mà tôi hiểu không phải vì lạc quan mà là do cách giải thích đúng đắn về các hoạt động của chúng ta. Tôi nghĩ rằng trong hiện trạng xã hội của chúng ta, điều có thể đóng góp nhiều nhất cho sự phục hồi này là một “phong trào”, thế nào cũng được, miễn đó là một phong trào mang tính dân tộc. Một phong trào văn học nghệ thuật của cả nước, đây là điều mà tôi mơ ước bấy lâu nay... Tôi đã nghĩ rất nhiều về bạn, bạn và Nguyễn Tiến Lãng là hai đại diện đẹp nhất của dòng họ nhà văn An Nam mới được mệnh danh là “những nhà văn An Nam viết chữ Pháp”…
Chúng ta không biết Phạm Văn Ký đã trả lời gì trong bức thư này. Nhưng lịch sử không thấy sự hiện thực của “phong trào” này mà người đời sau đã đề cập trong thư từ của ông. Tuy nhiên, mong muốn về một sự tiến hóa về văn hóa và tri thức để nâng Việt Nam khỏi tình trạng bị phụ thuộc là có thực trong các học giả Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc như Nguyễn Giang và Phạm Văn Ký. Đây là thời điểm Phạm Văn Ký nuôi hoài bão khẳng định bản sắc dân tộc trước công chúng.
Năm 1939, Phạm Văn Ký nhập học tại Đại học Sorbonne để nghiên cứu văn học, sau đó cũng chuẩn bị tại Viện Nghiên cứu Trung Quốc cao cấp, một luận án về khoa học tôn giáo. Chiến tranh làm gián đoạn luận án của ông. Để tồn tại, ông phải luân phiên làm giáo viên dạy tiếng Pháp trong một khóa học riêng ở Neuilly, đồng thời viết thơ và truyện ngắn. Ông tìm cách làm cho mình được biết đến với giới nhà văn ở Paris, thông qua các ấn phẩm trên báo chí và các bài phê bình văn học. Bài báo cũ nhất được lưu giữ trong kho lưu trữ của ông viết ngày 4.10.1945. Trong truyện ngắn của mình, Phạm Văn Ký gợi lên những vấn đề xuất phát từ nền văn hóa kép của mình: Sự giằng xé giữa hai nền văn minh, nỗi nhớ quê hương xứ sở, và phổ biến hơn là xung đột giữa các nền văn hóa khác nhau.
Ông cũng xuất bản các bài báo phê bình về nghệ thuật ở Viễn Đông (Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản). Ông đã cộng tác trên nhiều tạp chí định kỳ lớn như Esprit, Les Temps Modernes, Les Cahiers du Sud, La Nef, Syntheses, L'Âge nouveau, Les Nouvelles littéraires…
Năm 1946, các tờ báo có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa quan tâm đến các nhà văn nói tiếng Pháp có liên hệ với Liên hiệp Pháp, tổ chức chủ trương đoàn kết và bình đẳng giữa đô thị và các thuộc địa của nó. Vì vậy, tờ báo Le Populaire - cơ quan của Đảng Xã hội SFIO, xuất bản năm 1947, các cuộc phỏng vấn Phạm Văn Ký, Léopold Sédar Senghor và Jean Amrouche, do nhà thơ Georges-Emmanuel Clancier thực hiện. Lý do của những cuộc phỏng vấn này được đăng trong mục “Tiếng nói của Liên hiệp Pháp” đã được thể hiện rất rõ trong bài viết về Phạm Văn Ký: “Vào thời điểm mà Liên hiệp Pháp đang bị đe dọa nghiêm trọng từ mọi phía, chúng tôi nghĩ rằng nó sẽ hữu ích để hỏi một người An Nam, một người Senegal, một người Berber, ý kiến của họ về các báo cáo của đất nước họ và đô thị trong hiện tại và tương lai”.
Năm 1944, ông sáng tác ba vở kịch ngắn, một trong những vở đó cá tên Những mảnh vỡ của người An Nam do nhà hát của Trung tâm Sinh viên Quốc gia Hải ngoại Pháp trình diễn. Ông cũng đăng một số bài báo về sân khấu Việt Nam và sân khấu Trung Quốc trên tạp chí Le Magazine du Spectre năm 1946, sau đó là 1948. Ông tham gia Đài phát thanh truyền hình Pháp năm 1947 với vở kịch phát thanh La Muraille de Chine. Các vở kịch của ông tập trung vào giao lưu văn hóa, dựa trên bối cảnh lịch sử.
Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông Frères de sang xuất hiện vào năm 1947 do Éditions du Seuil ấn hành. Một năm sau khi truyện ngắn Đó là em ruột của tôi… được đăng trên tạp chí Esprit. Chủ đề là cuộc trở về quê hương trong tưởng tượng, trong đó nhà văn phải đối mặt với những cuộc đối đầu gay gắt, giữa bản ngã của quá khứ và bản ngã của hiện tại, giữa văn hóa cội nguồn và văn hóa tiếp nhận. Ông tiếp tục cộng tác với Đài phát thanh , viết kịch bản sân khấu trong khi xuất bản tiểu thuyết: Celui qui re’gnere (Grasset, 1954), Les Yeux Courroucés (Gallimard, 1958), Les Contemporains (Gallimard, 1959)… Năm 1961, ông giành giải thưởng Lớn của Viện Hàn lâm Pháp ( Grand Prix du roman de l'Académie française) với tiểu thuyết Mất nơi ở.
Mục tiêu lãng mạn của nó như sau: “Để xây dựng một câu chuyện mạch lạc với trọng tâm là sự quan tâm, những khúc quanh và một diễn tiến kịch tính. Sau đó, với "cái cớ" này, tôi kể về sự tan vỡ, bằng cách mô tả những điều khác và phong tục của một thời kỳ hấp hối. Nhưng đồng thời, sử dụng mô típ dân gian để tạo thành kết cấu của cuộc xung đột. Cuối cùng, mục tiêu mà tôi muốn giới thiệu độc giả châu Âu vào một vũ trụ, bất chấp sự khác biệt về bề mặt, hoặc thậm chí khác biệt về hành vi, con người luôn phải đối mặt với những vấn đề giống nhau, ở một quốc gia nào đó mà nó thuộc về, và bất cứ nơi nào chúng phát sinh”, phát biểu của ông cuộc nphỏng vấn tại Le Soir , Brussels, năm 1954.
Năm 1964, trong cuốn tiểu thuyết Des Femmes Assises çà et là, Phạm Văn Ký đã đề xuất một cách nghĩ mới về tính đa văn hóa và đa dạng văn hóa. Theo ông, Viễn Đông và phương Tây tồn tại và phát triển theo một "nghĩa toàn thể", ngụ ý rằng tất cả những thứ dường như riêng biệt, một số hữu hình, một số khác vô hình, đều phụ thuộc lẫn nhau theo logic của sự hài hòa và sự luân phiên giữa âm và dương.
Phạm Văn Ký ngừng xuất bản từ năm 1970. Chỉ có vở Bức màn mưa của ông được dàn dựng và công diễn năm 1974. Sự im lặng đột ngột này dường như nối tiếp lần trở lại Việt Nam duy nhất của ông vào năm 1970, với tư cách là thành viên của một đoàn Việt Kiều - Việt Nam sinh sống ở nước ngoài do Mặt trận Tổ quốc mời đến dự lễ kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám (19/8/1945) và ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (2/9/1945). Trong lần trở lại Paris, ông đã viết một bài luận Le Défi Vietnamien - kể lại thời gian ở Việt Nam, những lần gặp gỡ ở đó, bày tỏ sự xúc động sau ba mươi năm xa xứ.
Người em của ông là Phạm Hổ xác nhận mối liên hệ giữa việc trở về Việt Nam lẩn này và việc Phạm Văn Ký ngừng hoạt động văn chương “Trong những năm cuối đời, anh tôi có một cuộc sống khó khăn. Vì từ khi về nước cho đến khi anh tôi mất, các nhà xuất bản lớn của Pháp không xuất bản bất kỳ bản thảo nào của anh tôi. Ngay cả đối với một dự án tiểu thuyết mà anh ấy đã ký với Gallimard trước chuyến đi đến Việt Nam, khi trở về, anh ấy biết rằng nhà xuất bản đang tìm lý do để hủy bỏ nó… ”.Sau năm 1970, ông chuyển hướng sang lĩnh vực văn học ở quê hương mình. Tác giả xuất hiện trở lại trong các bài phê bình văn học Việt Nam với những bài thơ về Chủ tịch Hồ Chí Minh, công cuộc tái thiết đất nước xã hội chủ nghĩa, những trận chiến hào hùng của Việt Nam.
Năm 1993, một năm sau khi ông mất, với sự giúp sức của gia đình, Nhà xuất bản Hội Nhà văn đã xuất bản một tập thơ của ông với tựa đề Đường về quê. Đó là con đường trở về trong tâm tưởng. Tên tuổi của ông nổi tiếng ở Pháp, nhưng ở trong nước, tên tuổi ông ít được nhắc đến trong các tuyển tập và từ điển văn học. Cho đến cuối đời, Phạm Văn Ký vẫn là một “kẻ lang thang biên giới”, ít nhiều đã bị lãng quên.
Đ.T
(nguồn: Báo ANTG cuối tháng - số 240 tháng 8.2021)
< Lùi | Tiếp theo > |
---|