Tọa đàm khoa học về thi sĩ BÙI GIÁNG

Mục lục
Tọa đàm khoa học về thi sĩ BÙI GIÁNG
Bùi Giáng: thơ phơi giữa nắng (HUỲNH NHƯ PHƯƠNG)
BÙI GIÁNG “CHƠI” (NHẬT CHIÊU)
* BẢN MỆNH THƠ BÙI GIÁNG (HỒ THẾ HÀ)
*Bùi Giáng - thi sĩ tinh quái của nền thi ca Việt Nam hiện đại (LÊ MINH QUỐC)
* Bùi Giáng đối thoại
Tất cả các trang

 

Nhân dịp kỷ niệm 15 năm ngày mất nhà thơ Bùi Giáng, để tưởng nhớ một tài năng văn học nhiều mặt của nước ta, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn tổ chức Tọa đàm khoa học về thi sĩ Bùi Giáng.
Thời gian: 8 giờ sáng Thứ Bảy ngày 14 tháng 9 năm 2013
Địa điểm: Hội trường D, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - ĐHQG TP.HCM (10-12 Đinh Tiên Hoàng, Quận 1, TP.HCM).

Hiệu trưởng / Trưởng Ban Tổ chức

PGS.TS VÕ VĂN SEN

 

KẾ HOẠCH  TỌA ĐÀM KHOA HỌC VỀ THI SĨ BÙI GIÁNG

1. BAN TỔ CHỨC
Trường Đại học KHXH & NV TP.HCM, Khoa Văn học và ngôn ngữ
Gia tộc học Bùi Vĩnh Trinh Quảng Nam
1.        PGS, TS Võ Văn Sen  -  Trưởng ban, chịu trách nhiệm chung
2.        TS Nguyễn Khắc Cảnh  -  Phó trưởng ban, chỉ đạo thực hiện
3.        PGS.TS Lê Giang  -  UV, chịu trách nhiệm thực hiện
4.        TS. Huỳnh Thị Hồng Hạnh  -  UV, thay mặt Khoa VH - NN tổ chức thực hiện
5.        TS. Võ Văn Nhơn  -  UV, chịu trách nhiệm về tham luận
6.        GS, TS Huỳnh Như Phương  -  UV, phối hợp về nội dung
7.        TS Nguyễn Ngọc Thơ  -  UV, quản lý khoa học tọa đàm

 

buigiang

Bùi Giáng thời trẻ

 

2. CHƯƠNG TRÌNH TỌA ĐÀM

8:00-8:15    Văn nghệ (3 tiết mục của Khoa VH-NN)  -  Nguyễn Thùy Nương
8: 15-8:20    Tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu    MC. Diễm Trang
8:20-8:30    PGS, TS Võ Văn Sen phát biểu khai mạc    
8:30-8:40    Video clip về Bùi Giáng  -  BP kỹ thuật
8:40-8:50    Nghệ sĩ Kim Cương phát biểu và phát học bổng cho HV, NCS nghiên cứu về Bùi Giang   
8:50-9:00    Phát quà cho HV, NCS nghiên cứu về Bùi Giáng  -  Nghệ sĩ Kim Cương tộc họ Bùi


TỌA ĐÀM I    
9: 00    Mời chủ tọa đoàn: PGS Võ Văn Sen, TS  Bùi Văn Nam Sơn,  PGS Lê Giang    Diễm Trang mời
9:00 – 9:15    GS. Huỳnh Như Phương đọc tham luận
9:15 – 9:30    Nhà văn Nhật Chiêu đọc tham luận   
9:30-9:45    PGS.TS. Hồ Thế Hà đọc tham luận   
9:45 –10:00    Phát biểu thảo luận: 2 diễn giả phát biểu tự do: nhà thơ Lê Minh Quốc, ThS. Huỳnh Thu Hậu    
10:00 – 10:25    Giải lao, cà phê và xem triển lãm    


TỌA ĐÀM 2    
10:30 – 10:50    Ngâm thơ và hát các bài của Bùi Giáng  (4 bài)  -  SV VH-NN
10:50    Chủ tọa lên bàn làm việc:     
10:50 – 11:05    NNC Bùi Văn Nam Sơn đọc tham luận    
11:05-11:20    PGS, TS Nguyễn Thị Thanh Xuân đọc tham luận.     
11:20-11:40    Phát biểu thảo luận: Mời TS. Trần Hoài Anh, PGS. Nguyễn Công Lý, Trần Nữ Phượng Nhi    
11:40-11:50    Gia tộc họ Bùi kể chuyện hồi ức và cám ơn  -   Gia tộc họ Bùi

11:50-12:00    Tổng kết và kết thúc Tọa đàm   - Đoàn  Lê Giang

* Học bổng cho người NC về Bùi Giáng: Quà 5.000.000 đ ThS; 3.000.000 đ CN
-    ThS. Trần Nữ Phượng Nhi (văn học)
-    ThS. Nguyễn Đức Chính (ngôn ngữ)
-    Và một vài người nữa

 

3. KỶ YẾU

MỤC LỤC
Lời nói đầu        
1.    Võ Văn Sen    Diễn văn khai mạc    
2.    Trần Hoài Anh    Bùi Giáng trong cái nhìn phê bình văn học của miền Nam trước 1975    
3.    Vũ Đức Sao Biển    Bùi Giáng – quê nhà và cuộc dời    
4.    Nhật Chiêu    Bùi Giáng “chơi”    
5.    Nguyễn Đức Chính    Thơ Bùi Giáng, một biển trời ngôn ngữ    
6.    Hồ Thế Hà    Bản mệnh thơ Bùi Giáng    
7.    Huỳnh Thị Thu Hậu    Cõi Mộng và Điên trong thơ Bùi Giáng    
8.    Giao Hưởng    Bùi Giáng với kinh Phật thuyết đại thừa vô lượng thọ    
9.    Bùi Văn Ký    Những chuyện chưa kể về Bùi Giáng    
10.    Nguyễn Công Lý    Thơ Bùi Giáng: đôi điểu cảm nhận    
11.    Phan Nguyễn Kiến Nam    Thơ tượng trưng Bùi Giáng    
12.    Trần Nữ Phượng Nhi    Thiên đường ngưỡng vọng trong thơ Bùi Giáng    
13.    Tâm Nhiên    Thế giới thi ca tư tưởng Bùi Giáng        
14.    Phạm Phú Phong    Lời đề nghị đầu năm cho trung niên thi sĩ    
15.    Huỳnh Như Phương     Bùi Giáng: thơ phơi giữa nắng    
16.    Lê Minh Quốc    Bùi Giáng - thi sĩ tinh quái của nền thi ca Việt Nam hiện đại    
17.    Bùi Văn Nam Sơn    Triết gia và thi sĩ    
18.    Nguyễn Đình Trân    Về Bùi Giáng    
19.    Nguyễn Thế Truyền    Về thể thơ tứ lục của Bùi Giáng qua hai bài thơ Gái buồn và Nghe trong tập Mưa nguồn
20.    Bùi Thanh Tường    Nghệ thuật sử dụng từ ngữ Hán Việt của Bùi Giáng    
21.    Nguyễn Thị Thanh Xuân    Bùi Giáng bản nhiên

(nguồn: Ban Tổ chức cung cấp)

 


 

 

Bùi Giáng: thơ phơi giữa nắng

                                                          (Tham luận của Huỳnh Như Phương)



           Cách đây 15 năm, ngày 07-10-1998, nhà thơ Bùi Giáng phủi nợ trần gian sau một cơn tai biến mạch máu não. Đêm trước ngày tiễn ông về nghĩa trang Gò Dưa, giới văn nghệ Sài Gòn tụ tập ở vãng sanh đường chùa Vĩnh Nghiêm, hát và đọc thơ ông. Hôm nay chúng ta gặp nhau ở đây, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, trong khuôn viên Trường Đại học Văn khoa ngày trước, để tưởng nhớ ông.

           15 năm qua, hình ảnh Bùi Giáng ngày càng hiện ra đậm nét và tròn đầy trong ký ức văn học của đất nước. Từ ngày hòa bình đến nay, sau Nguyễn Hiến Lê và Sơn Nam, có lẽ Bùi Giáng là tác giả có nhiều tác phẩm được tái bản, đa dạng về thể loại: thơ, tiểu luận văn học, biên khảo triết học, sách giáo khoa, dịch thuật… Theo một thống kê chưa đầy đủ, sách của Bùi Giáng đã xuất bản trong nước và ngoài nước gồm có 25 tập thơ; 26 công trình nghiên cứu triết học, phê bình văn học; 16 dịch phẩm. Đó là chưa kể hiện nay di cảo thơ của ông còn được cất giữ tản mát trong sưu tập của những người yêu thơ, thỉnh thoảng lại được công bố ra ở nơi này nơi khác nhưng chưa được tập hợp đầy đủ. Vì vậy, mặc dù chồng sách Bùi Giáng để lại nay đã cao lắm, nhưng chắc còn lâu nữa những nhà nghiên cứu mới có thể nói đến một “Toàn tập Bùi Giáng”. Có thể nói, đời sống văn học Việt Nam chịu một cái ơn lớn đối với lao động nghệ thuật và học thuật của ông.

           Theo Sơ lược tiểu truyện Bùi Giáng do nhà văn Đặng Tiến soạn, Bùi Giáng quê gốc làng Vĩnh Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam; sau gia đình dời sang làng Thanh Châu bên cạnh và ông sinh ở đó ngày 17-12-1926. Thân phụ là ông Bùi Thuyên, tục danh là Cửu Tý; thân mẫu là bà Huỳnh Thị Kiền, người vợ kế. Cả hai đời vợ, ông Cửu Tý có đến 12 người con, Bùi Giáng thứ năm, nói theo người miền Nam là Sáu Giáng. Bùi Giáng từng làm câu thơ vui: Có ông Cửu Tý họ Bùi/ Đẻ ra Bùi Giáng đuổi ruồi không bay. Lớn lên ông đi học ở Hội An, Điện Bàn, vào Quy Nhơn rồi ra Huế, đậu bằng thành chung, sau đó tiếp tục theo học bậc tú tài ở Bồng Sơn và Hà Tĩnh, có lúc về làng Trung Phước chăn dê. Trong kháng chiến chống Pháp, Bùi Giáng tham gia một đơn vị bộ đội công binh, theo lời kể của nhà thơ Tường Linh, một người học trò và đồng hương của ông. Ông lập gia đình với bà Phạm Thị Ninh, nhưng bà mất sớm. Sau khi chịu tang vợ, vì mắt kém, sức khỏe yếu, ông xin xuất ngũ rồi vào Sài Gòn làm nghề dạy học.

           Từ 1952, Bùi Giáng ở Sài Gòn, vừa dạy Việt văn và Pháp văn cho các trường trung học, vừa làm thơ, soạn sách giáo khoa, dịch văn học Pháp và nghiên cứu văn học, triết học. Năm 1969, sau một vụ hỏa hoạn thiêu rụi  bản thảo, tranh và sách báo ở nhà trọ, Bùi Giáng phát bệnh tâm thần, phải vào điều trị ở Dưỡng trí viện Biên Hòa. Từ đó cho đến khi qua đời, ông vừa là thi nhân, vừa là bệnh nhân. Ông sống trong thế giới của riêng ông nhưng vẫn không mất cảm giác về thực tại: đất nước, chiến tranh, hòa bình… Đặc biệt, ông là một người điên hiền lành, không làm hại ai và sức sáng tạo vẫn dồi dào cho đến những năm tháng cuối cùng.

           Nguyễn Minh Châu có lần nói rằng Nguyễn Tuân là cả một định nghĩa về người nghệ sĩ. Trong ý tứ ấy, có lẽ nhà văn muốn nhấn mạnh đến tính độc đáo của Nguyễn Tuân, người mà cách sống và cách viết không hề giống ai và cũng không ai giống được. Không thể lấy Bùi Giáng để định nghĩa về người nghệ sĩ như Nguyễn Tuân, nhưng nói về tính độc đáo thì Bùi Giáng không thua gì, thậm chí có thể nói đó là một “ca” đặc biệt, độc nhất vô nhị, của văn học Việt Nam cả về đời người và đời văn, làm nên căn cước của một văn tài không có “thẻ căn cước”.

           Vậy cái độc đáo của Bùi Giáng là ở chỗ nào? Nhiều người đã viết về điều này với những phân tích và dẫn chứng thuyết phục. Nhân đây, cũng xin nói thêm rằng, trong lịch sử tiếp nhận văn học Việt Nam đương đại, ít có tác gia nào gợi cảm hứng cho nhiều bài viết hay như Bùi Giáng. Hai cuốn sách Bùi Giáng trong cõi người ta và Đười ươi chân kinh nói lên điều đó. Kế thừa ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trước, dưới đây chúng tôi xin nêu lên một số đặc điểm khái quát nói lên sự độc đáo của văn và người Bùi Giáng.

 Thứ nhất, thơ và người Bùi Giáng là sự kết hợp giữa thiên nhiên nguyên sơ, hoang dã và nhịp đời phố thị. Tuổi thơ Bùi Giáng trải qua một vùng thiên nhiên hào phóng ruộng đồng, non nước, cỏ cây dọc sông Thu Bồn, dưới chân núi Cà Tang. Thơ lục bát của Bùi Giáng hóa kiếp và cho đầu thai để tái sinh cả những cánh bướm, cánh chuồn chuồn, con kiến, con vi trùng, sâu bọ cùng hoa hoang cỏ dại qua ngôn ngữ hiện đại. Ông thi vị hóa và biểu tượng hóa những năm tháng theo đời Tô Vũ những ngày Trung Phước đó. Nhưng ông cũng sớm nhập vào cuộc sống đô thị, bắt đầu từ Hội An, Huế, rồi Sài Gòn: Anh đi về đô hội/ Ngó phố thị mơ màng. Ông như một cái cây bị bứng khỏi phù sa Thu Bồn, vất giữa đất Sài Gòn, tưởng thung thổ lạ lẫm mà vẫn hút được dưỡng chất phồn hoa để tồn tại. Những ai từng gặp ông quần áo tả tơi, thổi tu huýt, cầm tàu lá chuối chỉ hướng cho xe cộ ngược xuôi ở một ngã tư giữa trưa nắng Sài Gòn, sẽ thấy sự kết hợp kỳ lạ giữa hình ảnh người nhà quê và văn minh đô thị. Ông vừa lạc lõng giữa đất Sài Gòn lại vừa muốn là một tế bào – tuy là tế bào dị thể – của nó. Thơ ông không dửng dưng với “những đèn khuya phố thị”, “những chiều hôm phố thị”. Có lúc ông tự tránh mình: Bây giờ tôi đã quên xưa/ Sài Gòn cám dỗ tôi chưa chịu về. Điều kỳ diệu là Bùi Giáng ngao du sơn thủy mà vẫn như trụ chân một chỗ. Sau 37 năm ông mới trở lại quê nhà, nhưng thật ra ông đã có bao chuyến về tâm thức, đúng hơn, chân ông đi xa mà tâm ông còn ở lại: Hỏi rằng: người ở quê đâu?/ Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà.

        Thứ hai, gắn liền với kết hợp Quê – Phố đó là một kết hợp khác trong sự nghiệp Bùi Giáng: kết hợp giữa cổ xưa và hiện đại, Đông phương và Tây phương. Từ một làng quê xứ Quảng, giã từ bầy dê từng được ông choàng hoa và đặt tên, Bùi Giáng và những trang từ điển của ông mở lối lên thành phố và đi ra nhân loại. Rồi ra Trung Niên Thi Sĩ không chỉ thân thiết với Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, Tản Đà…; mà còn làm quen với những tâm hồn xứ lạ của Martin Heidegger, Saint-Exupéry, Gérard de Nerval, André Gide, Albert Camus… Ông chơi với cái cổ điển nhất cũng hết mình như chơi với cái tân kỳ nhất. Ông yêu Thúy Vân trong vẻ đẹp truyền thống nhưng cũng tụng ca Thúy Kiều trên nền nhạc hiện sinh. Nhưng dù là truyền thống hay cách tân, Bùi Giáng vẫn hướng về những giá trị vĩnh cửu. Với ông, cái tĩnh tại uy nghi trường tồn như núi Ngự muôn đời bên bờ sông Hương là đẹp, đồng thời cái biến dịch muôn sắc huy hoàng cũng là đẹp, miễn là chúng ta vĩnh cửu hóa nó bằng nghệ thuật. Nếu làm một thống kê từ vựng trong thơ Bùi Giáng, sẽ thấy rằng bảng pha màu ngôn ngữ của ông đa dạng biết bao: những từ cổ kính, nghiêm trang đan kết với những từ tân thời, nghịch ngợm. Trục chọn lựa của ông phong phú, đa dạng mà trục kết hợp thì bất ngờ, kỳ lạ. Bản dịch Terre des hommes có nhiều nhan đề tiếng Việt: Giá trị con người, Quê xứ con người, Đất của con người… nhưng phải nhận rằng cái nhan đề do Bùi Giáng lấy từ câu thơ Kiều là hay nhất: Cõi người ta. Tương tự như vậy, theo thiển ý, Hoàng tử bé vẫn hay hơn Cậu hoàng con, Chú bé hoàng tử hay Cậu bé con nhà trời… Có lúc ông tặng cho bạn đọc cả hai nhan đề của cùng một cuốn sách: ai thích thân mật, suồng sã thì chọn Trường học đờn bà; ai muốn nghiêm cẩn, đài các thì lấy Thục nữ học đường. Nếu dùng một từ thời thượng hiện nay là “mở cửa”, “hội nhập”, thì ông nhà quê Bùi Giáng là người “mở cửa”, “hội  nhập” sớm hơn ai hết. Việc ông giỏi chữ Hán, tiếng Pháp thì không khó hiểu. Nhưng chỉ mười năm ở Sài Gòn, không qua trường lớp nào, mà ông thông thạo tiếng Anh, có thể đọc Shakespeare trong nguyên tác, và am hiểu một cách chuẩn xác, sâu sắc, khi đọc, dịch, trích dẫn Friedrich Hölderlin, Martin Heidegger, như sự xác nhận qua kiểm chứng trong thực tế của nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn, thì quả là một năng lực ngôn ngữ thâm hậu. 

        Thứ ba, một đối cực khác được kết hợp trong tác phẩm và con người Bùi Giáng là sách vở, nhà trường trang nghiêm với cuộc đời nắng gió, bụi bặm, xô bồ. Đó cũng là kết hợp giữa quy cách và phá cách. Xuất thân Bùi Giáng là nhà giáo, ông viết những lời trân trọng về các thầy giáo cũ của mình: Lê Trí Viễn, Cao Xuân Huy, Trần Đình Đàn, Hoài Thanh, Đào Duy Anh... Ông vào trường thi, thi rớt, phải thi lại để có tấm bằng. Nhưng ông cũng sẵn sàng bỏ trường mà đi khi thất vọng về nó. Khi viết sách giáo khoa, ông viết rõ ràng, mạch lạc, khúc chiết. Khi sáng tác, viết khảo luận và dịch thuật, ông để dòng ý thức của mình lôi ngòi bút đi miên man bất tận. Khó ai nói là đã hiểu đúng, hiểu hết ý tứ của ông, trong thơ và cả trong tiểu luận. Dịch Cõi người ta và Hoàng tử bé, ông có thể thêm vào những câu văn của chính mình để quảng diễn tư tưởng của tác giả, miễn là không trái nghịch với nó, như sự phân tích của nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc. Say Truyện Kiều, nên ông tập Kiều rất nhanh để diễn giải một hiện tượng văn học khác, chẳng hạn ông nói về tác phẩm Sylvie của G. de Nerval mà ông dịch là Mùi hương xuân sắc:

                          Người lên ngựa kẻ chia bào

                     Màu Sylvie đã nhuộm màu thời gian

                          Dặm hồng bụi cuốn chinh an

                     Trông vời lịch sử quan san nghiêng mày.

          Sách vở giúp Bùi Giáng trở thành trí giả; cuộc đời và số phận biến ông thành hiền giả. Người trí giả phải chịu lép vế trước người hiền giả trong ông. Điền thú vị là chưa nghe ai nói đến học giả Bùi Giáng, như cách dùng phổ biến lâu nay để chỉ những người chuyên sâu về một lĩnh vực học thuật như ông. Người và văn ông không để cho những chuẩn mực câu thúc, ý văn ông tràn ra ngoài những ranh giới của Lý trí, vì ông tin vào Heidegger: “Tư tưởng chỉ bắt đầu tư tưởng, là lúc chúng ta đã lịch nghiệm lĩnh hội được rằng cái Lý trí, vốn từ ba thế kỷ được xiển dương, xưng tụng, chính nó là thù địch ngoan cố nhất của Tư tưởng”. Và như vậy tư tưởng của ông đi theo đường dây của nó, nhảy từ Nerval đến Shakespeare, nhảy từ Shakespeare đến Nguyễn Du, nhảy từ Nguyễn Du đến Gide, rồi lại từ Gide nhảy đến Saint-Exupéry… Qua cái bề ngoài phi lô-gích, văn bản của ông thách đố người đọc đi tìm sự mạch lạc nội tại của nó.

          Thứ tư, đứng về mặt tâm lý sáng tạo và chức năng biểu hiện của văn bản, tác phẩm Bùi Giáng là sự pha trộn, nhập nhòa giữa thực và mộng, giữa tỉnh và mê. Thực và mộng, tỉnh và mê không có ranh giới rõ ràng mà thực hòa trong mộng, tỉnh hòa trong mê và ngược lại. Cô Mọi nhỏ, nàng Brigitte Bardot, em Marilyn Monroe, nường công chúa trong rừng…, đó là thực hay mộng, vậy mà ông thầm thì trò chuyện? Người ta có thể làm thơ trong khi điên, khi mê; nhưng điên và mê mà viết tiểu luận, biên khảo có được không? Có những trang thơ, trang sách Bùi Giáng viết như lên đồng, như viết tự động, viết trong giấc thụy du. 

          Theo lời kể của gia đình, bệnh án Bùi Giáng có ghi ông mắc bệnh “tâm thần phân liệt dạng sáng tạo chữ”. “Máu cuồng và hồn điên” phải chăng là một tố chất nghệ sĩ? Điên là cách thoát khỏi thế giới thực tại để đi vào trong một thế giới huyễn ảo của tâm hồn. Nói cách khác, điên là lìa xa thế giới của người, ẩn sâu vào thế giới của mình, không còn bị gò bó, vướng bận. Từ khi được/ bị xem là điên, Bùi Giáng thong dong đi tiếp con đường của mình, không phải chiều lụy gia đình, xã hội; không ai và không điều gì có thể níu kéo, làm phiền ông nữa. Điên như Bùi Giáng có hai cái lợi. Một mặt, ông không tùy thuộc vào đời sống vật chất, không theo những quy ước thông thường của con người xã hội. Mặt khác, ông có thể phóng mình vào thi giới của mình, một thi giới mang ít nhiều ảnh tượng của hiện thực nhưng lại do chính ông tái tạo và chế biến. Có thể nói ông là đấng toàn năng, là hoàng đế trong thế giới của riêng ông.

         Thứ năm, lao động nghệ thuật của Bùi Giáng là sự kết hợp giữa nghĩ, viết và chơi. Có lẽ ông không phải là “phu chữ”, như cách nói của Lê Đạt, mà là “người nghịch chữ”. Ngay trong khi nghĩ, ông đã nghịch ngợm những con chữ và khi viết ra thì thực sự là ông bày trò chơi trên trang giấy. Bao vấn đề suy tư triết học, tư tưởng văn học hóc búa, rối rắm, ông diễn đạt tuy rườm rà mà đọc vẫn thấy vui, nhiều khi ta chưa hiểu hết ý của ông mà không thấy mệt óc. Ông là bậc kế tục thượng thừa những trò chơi chữ, nói lái của văn hóa dân gian, của Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Tú Quỳ… Người ta ít thấy trong văn Bùi Giáng vẻ nghiêm nghị, cau có của người tin rằng mình đang nói những điều quan trọng hay đang phát ngôn cho chân lý.

         Thứ sáu, đây là điều tế nhị mà cũng khó phân tích đầy đủ, ngôn ngữ Bùi Giáng là sự kết hợp giữa tục và thanh, tục mà thanh, thanh mà tục, trong tục có thanh, trong thanh có tục. Tôi e là sẽ đi quá xa nếu dùng khái niệm ẩn ức của phân tâm học để giải thích sự say mê từ ngữ có tính chất sinh thực khí, nhiều khi đến độ lẳng lơ, của Bùi Giáng. Nhưng đó là một thực tại ngôn từ trong văn bản của ông. Nhiều khi những khái niệm triết lý uyên áo được biểu đạt bằng một từ mà với cách nói lái, người đọc hồ nghi về sự nghiêm túc của nó. Thay vì tìm đường tránh né bằng cách viết tắt, hay lộ liễu nói ra sự vật không che đậy như các nhà văn trẻ bạo liệt hiện nay, Bùi Giáng dùng cách nói lái, có lẽ vì ông cho rằng cách này sẽ không làm mất đi sự vang lên của âm thanh trong tiếp nhận của người đọc, lại vang những hai lần theo hai lối ngược và xuôi. Hẳn nhiên, như đã nói, ông không phải là kẻ khai phá hay sáng chế thú chơi chữ này, nhưng có lẽ ông là người phát huy nó mạnh mẽ và cuồng nhiệt nhất.

         Tuy nhiên, Bùi Giáng lại hiếm khi gắn cái sự nghịch ngợm đó khi phác vẽ hình tượng những người nữ yêu mến của ông. Tình yêu của ông với những người nữ ngoài đời hay trong tưởng tượng, từ Cô mọi nhỏ đến những bậc nữ lưu danh giá như Phùng Khánh, Kim Cương, Hà Thanh, Marilyn Monroe, Brigitte Bardot… đều là tình yêu thánh hóa, tình yêu trong ý niệm theo kiểu Platon. Những khát khao dục tính chìm khuất dưới lớp từ ngữ nhiều ẩn dụ. Thành ra Bùi Giáng không ưa làm một thứ văn chương sạch sẽ quá, nhưng văn chương ông vẫn là sang trọng, tục mà không thô.

         Sáu đặc điểm đó nói lên rằng Bùi Giáng là một thứ của lạ, của hiếm trong văn học Việt Nam. Ông là thứ quả mà cây văn chương chỉ kết được một lần. Thiên tài bao giờ cũng là một bí ẩn. Hàn Mặc Tử là bí ẩn. Bích Khê là bí ẩn. Nhưng Hàn Mặc Tử chôn kín đời mình trong trại phong Quy Hòa, Bích Khê giam thân trên con đò Trà Giang, mặc cho người đời tìm cách suy đoán, giải mã thế giới nghệ thuật của họ. Bùi Giáng, trái lại, phơi mình giữa nắng gió cuộc đời, rong chơi bất tận giữa đám đông người mà vẫn là bí ẩn trước mắt thiên hạ.

         Ai ở Sài Gòn những năm 70, 80, 90 mà không một lần gặp Trung Niên Thi Sĩ. Trên những con đường quanh chợ Trương Minh Giảng. Trước cổng trường Đại học Vạn Hạnh. Trong sân chùa Già Lam. Giữa các con hẻm quanh co của Xóm Gà Gia Định. Chúng tôi có bốn năm là hàng xóm của ông ở Xóm Gà. Một buổi trưa nắng gắt, tôi chạy xe về hẻm 482 Lê Quang Định, thấy ông nằm như thiu ngủ trên một đống cát nhà ai đang xây, bóng cây không che hết gương mặt teo tóp đọng nắng của ông. Vài tờ giấy viết dở vương vãi bên cạnh. Tôi dừng xe lại, chưa biết làm gì: nhặt giúp ông những tờ bản thảo sắp bay đi hay đánh thức gọi ông vô nhà. Giữa lúc tôi còn phân vân, thì Bùi Giáng, mắt vẫn nhắm nghiền, nhưng linh cảm có người bên cạnh, đưa bàn tay lên xua qua xua lại, ngầm bảo rằng: hãy đi chơi chỗ khác đi, đừng quấy rầy ông, hãy để ông yên với cơn mê của ông, thế giới của ông.

          Chúng ta nói nhiều, viết nhiều về Bùi Giáng, nhưng có lẽ chúng ta vẫn là người xa lạ đối với ông. Cuộc tọa đàm này cần cho chúng ta, để chúng ta thêm một lần đón nhận ông, đón ông về lại với không gian văn hóa này, thậm chí, có thể nói, một cách nào đó là chuộc lỗi với ông, bởi có lần ta đã lạnh nhạt, nếu không muốn nói là xua đuổi ông. Thử tưởng tượng bữa nay Bùi Giáng tinh anh nghe nói có tọa đàm về ông ở trường đại học. Chắc ông sẽ lò dò đến đây, leo lên cầu thang, đứng ngoài cửa ngó vào, nghe lấy đôi câu, rồi hấp háy đôi mắt dưới cặp kính dày cộp mà lẩm bẩm: “Các con cứ ở đó mà tọa đàm đi, Trẫm rong chơi đây!”.

          Dẫu có như thế, chúng ta cũng đừng phật ý. Ta hãy đáp lại ông bằng ngôn ngữ của chính ông: “Vui thôi mà, thưa Trung Niên Thi Sĩ”.

(nguồn: Ban Tổ chức cung cấp)


 

BÙI GIÁNG “CHƠI”

(Tham luận của Nhật Chiêu)

 

Con người và thơ ca Bùi Giáng dường như ăn nằm với một chữ “Chơi”.

Một cuộc chơi lu bù, bất tận, điên đảo, “tục tĩu mà thần tiên”.

Nói theo ngữ ngôn của ông là: trùng du điệp hí, anh nhi hí, đồng tử hí, trần gian du hí, thần thông du hí, ngày tháng ngao du, đùa với tuyết rỡn với vân, tót vời cuộc chơi, mở trận đùa rỡn từng cơn cơn cuộc cuộc, chơi theo lối nghịch hành, chơi trùng khơi trí hải….

Chơi thiên nhiên, chơi đời, chơi thơ, chơi huyền thoại, chơi kinh điển, chơi giai nhân, chơi hỗn độn, chơi thiêng liêng, chơi sáng tạo. Và chơi cái chết.

Thế giới đầy sáng tạo này là Vishnu Lila, trò chơi của Vishnu theo người Ấn Độ. Lila là chơi đùa, nhảy múa. Riêng cõi thơ này là Bùi Giáng Lila.

Đừng đọc thơ Bùi Giáng. Hãy chơi đùa và nhảy múa cùng thơ ấy.

Đó là thơ của Hồn du mục, thơ của Đời vui đón hội và thơ của Ngữ ngôn cuồng dại.

HỒN DU MỤC

Tập Mưa Nguồn là thơ của du tử, mục tử hiểu theo mọi nghĩa. Trang thơ mở đầu đã ngân lên hồn du mục:

Cỏ hoa từ bỏ ruộng đồng

Hồn du mục cũ xa gần hử em

Bùi Giáng từng chăn dê chăn bò vào mấy năm cuối thập niên 40 vào cuối thế kỷ trước. Có thể thấy rõ việc làm đó cũng là trò chơi, đúng cốt cách Bùi Giáng.

Và chắc chắn nhà thơ mục tử xem chuyện chăn dắt ấy có hẳn một tư cách khác. Con người là mục tử chăn giữ “Tính thể”. Ý tưởng ấy Heidegger bày tỏ trong Thư về Nhân bản luận, một tác phẩm mà Bùi Giáng rất tán tụng.

Không chỉ cánh đồng của du mục là cánh đồng mà thân thể cũng là cánh đồng theo cách nói của Chí Tôn ca (Bhagavad Gita, khúc 13).

Trong lời tựa cho cuốn L’Anti – Oedipe của Deleuze, Foucault viết: “Hãy chuộng lấy những gì lạc quan và đa dạng, chuộng khác biệt hơn là đồng dạng, lưu lãng hơn là đóng khép, biến chuyển hơn là hệ thống. Hãy tin rằng những thành tựu không đến từ ngồi yên mà từ hồn du mục” (1).

Bùi Giáng đem phong cách du mục vào thơ ca, một phong cách tràn đầy tự do, ngang tàng, táo bạo, bất chấp, phụng dâng, tận hiến, tung hê, cuồng ngạo.

Mọi thứ trong thơ Bùi Giáng đều khác thường, lưu lãng, biến chuyển, đều trôi, bay, cuộn sóng, bão giông, quay cuồng, xô đẩy, ầm ào, lên đường, tách bến, ra khơi…

Từ đó mà:

Gót chân khơi rộng bóng cành…

Trùng quan vó ngựa tế nhanh trong mù

Trời đêm tinh tú chạy vòng…

Người xuống theo giòng trôi nước lũ

Người xuống theo thu gió thổi trời

Ô vạn vật vẫn chờ nguồn nước lũ

Nghe mùa nước lũ nguồn trôi phăng đồng

Nguồn trôi nước lũ xuống đè cát xanh

Cái lưu lãng không chỉ nằm ở tứ mà còn nằm ngay trong ngữ âm:

Bờ thánh thót động giòng em đi đến

Làn lênh lang lau lách lại luân lưu…

Trong bài Tuổi Trẻ (Mưa Nguồn) nhà thơ không ngớt giục: “Chạy đi em!”, “Chạy đi em!”… Với người thương, không là ru ngủ như thường tình mà là giục chạy, có lạ không!

Không chỉ có người mới đi và chạy. Cả bản thân THƠ nữa, thơ cũng trôi:

Thơ còn có chảy dưới chân em?

Đó là thế giới của gió và nước, của phiêu du và chuyển hóa.

Nhưng cái đi đến một lúc nào đó lại trùng phục với cái về.

Nước đi ra bể lại MƯA về NGUỒN

(Tản Đà)

Hồn du mục, hồn phiêu lưu cũng là hồn của về nguồn, hồi nguyên. Hồn của Ulysse, Từ Thức. Cội nguồn, ngõ ban sơ, cố quận, nguyên xuân…

Ra đi hẹn với xuân đầu

Buổi hồi nguyên lại pha màu bình minh

Thế cho nên Mưa nguồn mở đầu với hồn du mục và kết tập với:

Em về mấy thế kỷ sau

Nhìn trăng có thấy nguyên màu ấy không

Ta đi còn gửi đôi giòng

Lá rơi có dội ở trong sương mù

Như vậy là đi và về được nối kết, xưa và sau được nối kết. Cũng thế, sống và chết được nối kết. Tất cả ở trong trò chơi bất tuyệt.

Cả cái chết cũng là trò chơi. Chơi cái chết. Đã chết rồi lại chết nữa. Chết thêm một trận:

Con bèn tái điệp dấn liều

Chết thêm một trận hoang liêu song trùng

Nều hồn chỉ là tâm, thể chỉ là thân thì không thể chơi đùa như thế được. Nhưng với tâm thần phân lập (schizo) thì khác. “Schizo là vũ trụ của cơ chế dục vọng, có thể sản xuất và tái sản xuất”, theo Deleuze (2).

Do vậy mà có hai câu thơ độc đáo và phân lập trong Rong rêu:

Em đi như thể thân là thể

Anh ở một mình thể mất thân

Hoặc như:

Chúng tôi người ngợm vô thường

Lúc mê man lúc chán chường thể thân

Đùa rỡn hết mực, thơ Bùi Giáng trở thành một thứ NGHỊCH THƠ. Nghịch là đùa mà cũng là ngược. Thơ ấy có thể nghịch mắt trái tai với những người xem thơ ca nghệ thuật là trịnh trọng trang nghiêm.

Nhưng phải nhận ra gương mặt thơ của Bùi Giáng như một trò hài (farce).

Nhận xét về văn chương nghệ thuật hiện đại, Ortega trong tiểu luận Giải nhân hóa nghệ thuật (The Dehumanization of Art) cho rằng: “Nghệ thuật được nhận ra như một trò hài (farce)… là trò hài chính là sứ mệnh và đạo lý của nghệ thuật… mời gọi chúng ta nhìn tác phẩm như một trò đùa (a joke) tự chế nhạo mình trong yếu tính… Nghệ thuật mới tự lố bịch hóa mình” (Art… is recognized as a farce… to be a farce may be precisely the mission and the virtue of art… invite us to look at a piece of art that is a joke and that essentially makes fun of itself… The new art ridicules art itself) (3).

Những lời ấy Ortega viết từ năm 1925 ở Tây Ban Nha trong Giải nhân hóa nghệ thuật.

Đến năm 1971, ở Việt Nam, trong Ngày tháng ngao du, có thể là tình cờ Bùi Giáng cũng nêu lên “giọng nói lố bịch” trong triết học và thơ ca:

“Nietzsche thường có giọng nói lố bịch như thế. Lố bịch một cách khệ nệ khệnh khạng như Lão Tử. Hoặc như những ông thiền sư lố bịch ‘Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư’.

Thơ văn tôi làm cũng có lố bịch, nhưng lố bịch một cách thơ dại, khiến người đọc vui vẻ trường thọ…

Lố bịch như thế khiến cõi đời thơ mộng ra. Chúng ta không còn ngạc nhiên gì nữa, nếu thấy bao nhiêu hoàng hậu trong sử xanh đều yêu mến Bùi Giáng, và xa lánh Nietzsche, xa lánh Lão Tử, xa lánh những ông thiền sư”.

Có một trò chơi văn bản (text play) mà Bùi Giáng hết sức ưa vận dụng tạm gọi theo thể cách của ông là trùng phục thu hồi. Đó là cách mà thơ ông tiếp biến với văn chương kinh điển, đặc biệt là với Nguyễn Du, Kinh Phật và Camus. Thường là ông lặp lại (trùng phục) một ít ngữ ngôn hay ý cảnh của họ, từ đó khai lộ những khả tính mới hay hồi nguyên (thu hồi) cái ẩn mật giấu mình nơi đó.

Trùng phục thu hồi là dụng ngữ ông dịch từ Heidegger (nguyên văn tiếng Đức là Wiederholung) khi triết gia này đọc lại Kant.

Ta tạm lấy cụm từ Trùng phục thu hồi để chỉ một thủ pháp thường thấy trong thơ Bùi Giáng.

Trong bài lục bát Hoàng hậu, thử nhặt ra hai câu thơ quen thuộc:

Ngõ ban sơ hạnh ngân dài

Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua

Thơ Nguyễn Du luôn ám ảnh Bùi Giáng. Hơn một lần Bùi Giáng nhắc đến ngõ hạnh. Bắt đầu từ câu 2862 trong Truyện Kiều:

Cửa trời rộng mở đường mây

Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần

Ngõ hạnh viên là nơi các tân khoa tiến sĩ dự yến, xem hoa, dạo chơi. Hạnh đàn là nơi dạy học, ca hát gảy đàn. Dương Qúy Phi được gọi là Hạnh hoa thần…

Bản thân Bùi Giáng có dịch bài tản văn Những cây hạnh (Les Amandiers) của Camus in trong Mùa hè sa mạc, trong đó có câu: “một đêm duy nhất lạnh giá và thuần khiết tháng hai, những cây hạnh trong thung lũng Consuls sẽ đơm đầy bông trắng”. Điều này trùng hợp với những cây hạnh Á Đông, nơi tháng hai (âm lịch) là tháng hoa hạnh (Hạnh hoa phát vu lộ hàn: hoa hạnh nở trong sương lạnh).

Và chữ hạnh còn làm ta liên tưởng đến hạnh phúc, hạnh vận, hạnh ngộ…

Khi người tài tử đi qua cuộc đời thì phong tư tài mạo tuyệt vời của họ sẽ ngân dài trong khí quyển của những niềm vui hạnh ngộ, và những ngõ hạnh sẽ nở đầy hoa trắng bất tuyệt, và những mặt hạnh môi đào sẽ đón chờ đâu đó, mặc buốt giá lạnh sương.

Đó chính là đời vui đón hội.

ĐỜI VUI ĐÓN HỘI

Giọng người đổ xuống bến xanh

Đời vui đón hội sao đành sớm tan

Thơ Bùi Giáng là lời tụng ca trần thế, tụng ca cuộc sống. Trước cõi đời và mặt đất, thơ ông dâng lễ mừng, dâng lời tạ ơn. Với ông, đời là hội, như hai câu lục bát trong Mưa nguồn kể trên. Ông gọi trần gian là lễ hội. Ông gọi thi sĩ xưa nay là những người trẩy hội trần gian:

“Họ vào cuộc Lễ Hội Trần Gian cũng đơn sơ như con chim về mùa Xuân ca hót… chỉ xin vào cuộc Hội Hoa Đăng, ca một lời cho Hoa Đăng xán lạn. Cho mọi người cùng yến tiệc giữa Hoa Đăng…” (Đi vào Cõi Thơ).

Giả như Ta hỏi: Tại sao thế, thì có lẽ ông sẽ đáp rằng: “Vì đời là rất mực rất thiêng liêng” (trong bài Vì có lẽ).

Nhưng cái thiêng liêng ở Bùi Giáng không là cái gì cách biệt với cái phàm tục. Do vậy ông thản nhiên viết:

Mở hai hàng cỏ tháng ba

Lễ là Đi Tiểu hội là Vén Xiêm

(Ngày tháng ngao du)

Có ai viết hoa Đi Tiểu và Vén Xiêm như Bùi Giáng không, xin chỉ cho tôi.

Chưa hết đâu, những người con gái của ông sẽ vén xiêm đi tiểu ở trên môt cõi Phật Quốc thiêng liêng và thanh tịnh:

“Lúc bấy giờ, tại ngưỡng cửa một non nước tinh khiết Chúng Hương, ‘những người con gái sẽ vén xiêm đi tiểu’…” (Ngày tháng ngao du).

Phải yêu trần gian thế nào mới làm ra những câu thơ phàm tục ấy? Bùi Giáng không báng bổ Phật Quốc hay Thiên quốc nào. Và quan trọng hơn là ông không bao giờ báng bổ trần gian:

Tôi đã nguyện yêu trần gian nguyên vẹn

Hết tâm hồn và hết cả da xương

(Mưa nguồn)

Tôi đã đặt trong bàn tay vạn vật

Quả tim mình nóng hổi những chờ mong

(Mưa nguồn)

Quả tim ấy tràn đầy lòng biết ơn đối với vạn vật, từ “kiến bé một con”… đến “cô em mọi nhỏ” và “mây nước rộng xanh trời”…

Dâng lễ mừng là dâng lời cảm tạ với nàng trần gian, với Nương tử thiên nhiên, là đáp đền thơ vì đã được sống trên đời.

Bùi Giáng xui ta nhớ đến Osho trong tác phẩm Cỗ bài Tarot trong linh hồn Thiền – Trò chơi Đời (Tarot in The Spirit of Zen – The Game of Life):

“Dâng lễ mừng là tràn đầy cảm tạ; đó là lời cầu nguyện xuất phát từ lòng biết ơn… được sống, chỉ vậy thôi đã là hội hè… để dâng lễ mừng, chỉ đời là cần – mà đời thì bạn có rồi. Để dâng lễ mừng, chỉ hiện hữu là cần – mà hiện hữu thì bạn đang có. Để dâng lễ mừng, cây lá, chóc chim và sao trời là cần, và chúng có sẵn đấy thôi. Bạn còn cần gì khác?” (4).

Chẳng những nhà thơ ca mừng đời, với tư cách mục tử, ông còn để cho đàn dê mình chăn dắt trên đường trở về ca mừng cuộc sống:

Rập ràng về bế hế rập ràng ca

Đọc thơ Bùi Giáng, khó mà quên tiếng bế hế rập ràng ấy của đàn dê hòa thanh với lời ca “thi dựng” của nhà thơ trong “Ngữ ngôn cuồng dại chập chờn”.

NGỮ NGÔN CUỒNG DẠI

Đọc Bùi Giáng như thể là đi lạc vào một thế giới hỗn độn, chập chờn. Thiên la địa võng của ngôn từ tuôn ra từng trận từng cơn, trùng trùng điệp điệp.

Câu thơ “Ngữ ngôn cuồng dại chập chờn” của chính Bùi Giáng trong Ngày tháng ngao du có thể dùng để miêu tả thế giới Bùi Giáng – đó là thế giới của người thật dắt tay người ảo. Các nhân danh địa danh nửa có nửa bịa. Các trích dẫn chương cú hư hư thực thực. Những đối thoại tưởng tượng (với Nguyễn Du, Nietzsche, Trang Tử, Simone Weil, với các “mẫu thân”, với chính mình, với cả châu chấu, chuồn chuồn) thì quá ư tiếu ngạo, trộn lẫn mọi thứ có thể và không thể…

Bùi Giáng tung ngọc vào bùn, chẳng cần quan tâm thị phi, khinh trọng.

Ông trộn nhã và tục trong nói lái, pha điên và tỉnh trong triết lý, lẫn giả và chân trong trò chơi văn bản, chen hay và dở những câu thơ.

Thế giới đó, dẫu sao đi nữa, là có một không hai.

Bùi Giáng hồn nhiên như trẻ con và tinh ranh như hồ ly, như khi con chồn nó lùi.

Còn ghì lại ân tình trong cỏ nhặt

Múa vi vu vì hẹn với truông ngàn

Hai câu thơ đẹp chứ gì. Nhưng ai đó lại đọc lái chữ “cỏ nhặt”.

Lại câu thơ khác:

Vườn hoa nụ đứng nụ đằm…

Đó là nói lái Bùi Giáng.

Và bây giờ là nói đảo:

Bây giờ riêng đối diện tôi

Còn hai con mắt khóc người một con

Câu thơ rất nổi tiếng, nhất là sau khi được phổ nhạc. “Người một con” là gì? Vẫn còn cãi nhau.

Đó có lẽ chỉ là cách nói đảo của “một con người”. Cách này Bùi Giáng vẫn hay chơi. Ví dụ:

Bây giờ em đếm đầu năm ngón

Lát nữa sương dầm tuyết sẽ pha

(Ly Tao)

“Đầu năm ngón” tức là “năm đầu ngón”.

Tay năm ngón bốn mùa em đi đếm

(Biểu tượng sơ nguyên)

Tay năm ngón – Năm ngón tay.

Kiến bé một con

Bò trên cỏ dại

(Lá thổi như bay)

“Kiến bé một con” – Một con kiến bé.

Giản dị hơn là cách nói đảo của những từ thân thể và xương xẩu:

- Chán chường thể thân

- Kiệt tận xẩu xương

(Lời người điên)

Đôi khi trích dẫn kinh văn, Bùi Giáng không buồn ghi xuất xứ. Đã thế còn tráo chữ, cưỡng từ đoạt ý. Chẳng hạn, trong Ngày tháng ngao du, ông dẫn kinh văn như sau:

“Lúc bấy giờ Trí Hải Ưu Bà Di ngồi tòa chơn kim, đội mão hải tạng chân chu võng,… rủ tóc xanh ngần…”

Ta có thể đoán biết ông đang dẫn kinh Hoa Nghiêm. Có điều trong kinh ấy không có Trí Hải Ưu Bà Di mà chỉ có Hưu Xả Ưu Bà Di.

Bùi Giáng cố tình đưa Thích Nữ Trí Hải (tức Phùng Khánh) vào kinh Hoa Nghiêm. Trong thơ văn của mình, ông liên tục nhắc đến mẫu thân Phùng Khánh, cũng như ca ngợi thần thông trí hải, trùng khơi trí hải.

Sau đoạn trích trên, ông còn điểm thêm câu “Chùa Vạn Hạnh nức nở reo mừng…”

Và sau đó, ông thản nhiên trích dẫn kinh văn tiếp tục:

“Kẻ nào có dịp nhìn thấy vị Ưu Bà Di kia, lập thời mọi mọi phiền não liền được trừ diệt, rời xa mọi nhơ bợn kiến chấp, xô nhào mọi núi non chướng ngại, mà nhập vào cảnh giới vô ngại thanh tịnh… trở thành thy sĩ thượng thừa thù thắng trung niên…”

Tất nhiên, Trung niên thy sĩ ở đây là Bùi Giáng.

Bùi Giáng ơi, Chơi như Ngài có ai đâu

Trùng khơi trí hải gieo mầu nhiệm thơ.

Nhật Chiêu

--------------

Chú dẫn:

(1)    Dịch theo bản tiếng Anh: Anti-Oedipus, Nxb. Continuum, 2004, tr.XV.

(2)    Anti-Oedipus, như trên, tr.5.

(3)    The Dehumanization of Art, Ortega, Nxb. Doubleday, 1956, tr.44.

(4)    Tarot in the Spirit of Zen – The Game of Life, Osho, St. Martin’s Griffin, 2003, tr.105.

(nguồn: Ban Tổ chức cung cấp)


 

BẢN MỆNH THƠ BÙI GIÁNG

(Tham luận Hồ Thế Hà)

 

Bùi Giáng thi sĩ là hiện tượng lạ của nền thơ Việt Nam hậu bán thế kỷ XX bởi sự tích hợp nghệ thuật kỳ bí song hành với cuộc đời kỳ dị, được công chúng yêu thơ mến mộ, truyền tụng và thêu dệt như những giai thoại, đến một ngưỡng nào đó, được xem như huyền thoại. Gồm hơn 60 tác phẩm hiện tồn, Bùi Giáng đã để lại cho đời một di sản văn chương đồ sộ, đa dạng và mang phẩm tính triết thuật cao diệu, cả trong thơ, khảo cứu và dịch thuật. Từ cuộc đời đến trang sách, thơ Bùi Giáng luôn là nghệ thuật phản quang, là âm bản của tình cảm, tư tưởng, triết mỹ của chính ông trong từng chặng hành trình cuộc sống, làm thành bản mệnh đời – bản mệnh thơ Bùi Giáng.

Nghiên cứu về thơ Bùi Giáng, ngày càng có nhiều công trình công phu và thành tựu ra mắt bạn đọc. Nhưng với một cuộc đời đa dạng và một tài năng thơ đa diện và đa chất như ông, thì không phải mọi kết luận đều đã thống nhất và bình ổn. Vì vậy, sự vẫy gọi từ thế giới thi ca của Bùi Giáng vẫn là khả tính cho những ai quan tâm và muốn đi tìm bản thể cuộc đời và bản mệnh nghệ thuật của thi sĩ tài năng dị biệt này, đúng như nhà văn Sơn Nam đã tâm sự: "Viết đôi lời về Bùi Giáng không bằng đọc về Bùi Giáng. Đọc Bùi Giáng không bằng giao du với Bùi Giáng. Giao du với Bùi Giáng không bằng sống như Bùi Giáng. Mà sống như Bùi Giáng thật vui mà thật khó vậy. Ông thuộc vào loại thiên tài không định nghĩa được, là một bí ẩn toàn diện trong cái vùn vụt, cái bất tuyệt thao thao, cái nửa không nửa có nửa hư nửa thực" (2, tr.166). Trong bài viết ngắn này, tôi muốn đề cập đến một phương diện trong chỉnh thể Đời và Thơ của ông mà tôi tạm gọi là bản mệnh thơ Bùi Giáng.

Những nghịch lý trong sáng tạo nghệ thuật của Bùi Giáng đã làm thành tổng hòa của sự hội tụ chứ không phải là sự phân hóa thi pháp thơ. Nhưng cũng vì vậy mà trong cái bông đùa, cà rỡn có sự thăng hoa của đau xót miên trường; trong cái hồn nhiên có sự uyên uẩn, nhức nhối của trí tuệ; trong điên loạn, cuồng say có sự mộng mơ và mê đắm của cõi tình. Tất cả những nghịch lý trên chính là tâm thức hiện sinh của Bùi Giáng trên từng chặng hành trình sống và hành trình thơ. Tìm hiểu bản mệnh thơ Bùi Giáng, theo tôi, phải tính đến sự cộng hưởng thi pháp rất riêng này của ông.

1. Từ quan niệm văn chương của Bùi Giáng

Là nhà thơ và là nhà tư tưởng uyên bác, Bùi Giáng đã xuất phát từ quan niệm nào cho tư duy nghệ thuật của mình? Bằng những trang dịch, trang thơ và những tuyên ngôn giàu tính hình tượng, ta thấy Bùi Giáng luôn có ý hướng tính phóng thể văn chương rất rõ. Ông nói: "Thơ tôi làm chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm giông bão một lúc thì lập tức xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức... Tôi gạ gẫm với châu chấu chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa trần gian cho chuồn chuồn mang trên hai cánh mỏng bay đi... Tôi ra bờ sông nằm ngủ, khóc một mình giữa thơ dại chiêm bao. Trong chiêm bao, thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao” (1, tr.33). Thế giởi thơ ông chính là triển khai một cách hình tượng cho quan niệm trên. Có lúc, ông nói "thơ là cõi phiêu bồng" thì cũng là kết tinh của chiêm bao lãng đãng đó mà thôi. Thơ là hàm ngôn, nhưng có lúc lại vô ngôn, nhưng là vô ngôn của sự bừng ngộ về tư tưởng nhân sinh như Bùi Giáng luận lý: "Cái nói của tư tưởng chỉ đạt tới chỗ bình hoa thanh tịnh thuần thanh và tìm thấy lại tinh thể của mình là chính lúc nó không nói được điều gì, nó phải tồn tại trong vô ngôn, một sự vô năng như thế sẽ nhiếp dẫn tư tưởng tới tiền diện sự thế, sự vật từ như" (6,  tr.36). Vậy, Bùi Giáng, dù có tuyên ngôn đa dạng và đa niệm thế nào đi nữa, thì theo ông, thơ là cõi huyền nhiệm, kỳ bí đến bát ngát, mênh mông của tâm tưởng và tư tưởng mà chỉ có loài thi sĩ mới đạt đến và đem thông điệp cho người đời cùng ngẫm nghĩ. Trong cõi vô thức và tiềm thức đem trộn với ý thức để cho ngôn từ chảy tràn ra thành những siêu thăng của cảm xúc và tâm trạng thì khi đó, thơ sẽ tiền diện được với tại - thể - người như M. Heidegger đã triết lý. Đó chính là quan niệm thi ca cốt lõi của Bùi Giáng mà thơ ông là minh định cho triết – mỹ rất riêng ấy của ông. Thơ Bùi Giáng siêu thăng mà gần gũi, hòa nhập với hiện thể thiên nhiên và cuộc sống biết bao! Người đọc cũng phái xuất phát từ cõi vô thức, tiềm thức ấy và nhập vào thế giới ấy để đối thoại, tự thoại thì mới mong hiểu và đồng cảm với thơ ông. Nhưng điều ấy không phải dễ dàng đối với mọi chủ thể tiếp nhận, vì thơ ông quá ư đa dạng và đa ngôn, luôn biến ảo, "khả giải bất khả giải". Ông nói: "Đi vào cõi thơ. Thế nghĩa là? Có một cõi và một cuộc đi, cuộc đi có nhiều thế thái. Có thể theo lối chu du của ông Khổng Tử. Có thể đi theo lối ngồi yên không rục rịch suốt bao diên trường tuế nguyệt dưới một gốc cây bồ đề theo lối Như Lai. Cũng có thể đi theo lối anh lùa bò vào đồi sim trái chín. Đi như vậy dù sao thì dù, cũng là trong ý hướng mở cõi ra chơi. Không ai buộc ai phải theo ý của riêng độc đoán của ai... Đó là điều kiện cần và đủ, không buộc ai phải đi qua miên bạc bình sinh" (2, tr.482). Quan niệm về tiếp nhận văn học như trên của Bùi Giáng rất gần với Mỹ học tiếp nhận hiện đại phương Tây, trong đó có Tường giải học văn học và Thông diễn học văn học mà nhất định Bùi Giáng có quán triệt từ vốn đọc qua vốn ngoại ngữ của mình. Mối quan hệ bộ ba: Tác giả - Tác phẩm - Người đọc theo quan niệm của Bùi Giáng đã mở ra những chân trời vẫy gọi cho liên chủ thể tiếp nhận để đồng sáng tạo, làm đầy nghĩa cho tác phẩm, theo từng cách đọc, từng "tầm đón đợi" của mỗi cá nhân.

Từ những quan niệm văn chương như trên, cộng vào quan niệm về nhà thơ của ông, có thể thấy rằng Bùi Giáng là một thi sĩ biệt tài quá ngưỡng và có ý thức nghệ thuật độc đáo, không xa lạ với kim - cổ - Đông - Tây, nhưng cũng không giống ai về lập ngôn, lập tượng và lập thức, khi ông muốn suốt đời tận hiến cho thơ: "Có bạn ngớ ngẩn tưởng rằng thi sĩ ngớ ngẩn. Quả là thi sĩ có ngớ ngẩn nhưng ngớ ngẩn với lá cỏ lá cây, lá lau lá lách cũng như sẵn sàng tích hạp ẩn tàng phơi mở với la de, rượu đế, tàu bay, tàu lặn, tàu ngầm. Nghĩa là nó ngơ ngẩn chan hòa trên mặt đất - và nó ghì thân ở lại vô thường để chị chơi gay cấn hơn là đáo bỉ ngạn (bà là mật kim cương) – và cũng chính vì thế nó thể hội viên dung ba la mật hơn mấy ông trụ trì thượng tọa nữa là khác. Nó chỉ chìm đắm trầm luân mới thể nghiệm sao gọi là chơi vơi, phiêu nhiên giải thoát" (3, tr.23). Như vây, thi sĩ không phải là người điên bệnh lý mà là người biệt nhãn và nhạy cảm mỹ học và tư tưởng với chung quanh hơn người thường rất nhiều. Và chính điều này đã giúp thi sĩ vươn đến sự phóng thể thi ca một cách nghệ thuật. Bùi Giáng là người tận hiến cho thơ đến cùng hiểu theo nghĩa đó. Thơ ông là "tinh hoa phát tiết" từ những trạng thái tình cảm tự nhiên của mình, không bắt chước và không giống ai. Nó là nguyên mộng, nguyên xuân, tức là cái đẹp nguyên sơ không toan tính gì khác ngoài ước nguyền phụng hiến. Muốn tìm về nguyên xuân, thơ phải nói "lời cố quận". Ông học và tự thể hiện cách viết "tự động tâm linh". Những mộng mơ, chiêm cảm, ảo giác là kết quả của chiêm bao và biến thành ngôn ngữ: "Đi về với gió phù du – Mở trang mộng mị cho mù sa bay". Thơ ông vì vậy, tuôn trào tự do theo dòng cảm xúc, không tuân thủ ngữ pháp, nó là ý thức nhưng cũng là vô thức mà kết quả là ông có được những câu thơ hay, bài thơ hay.

Ta gọi chiêm bao về mộng mị

Chắp ân tình cho nghĩa rộng tinh sương

Về tuế nguyệt bước ngao du tận mỵ

Người có nghe tang hải réo vô thường?

Thơ Bùi Giáng là sự hóa giải, hòa kết giữa những trạng thái hoặc tính chất tương hỗ và đối lập nhau để tạo ra sự tích hợp kỳ lạ của hình tượng và ngôn ngữ. Ví như bài thơ Bây giờ: "Bằng bút chì đen – Tôi chép bài thơ – Trên tường vôi trắng – Bằng bút chì trắng – Tôi chép bài thơ – Trên lá lục hồng – Bằng cục than hồng – Tôi đốt bài thơ – Từng giờ từng phút – Tôi cười tôi khóc bâng quơ – Người nghe cười khóc có ngờ chi không?".

Thơ Bùi Giáng mang tâm thức hiện sinh rất rõ, bởi ông là người hiểu và dịch triết hiện sinh phương Tây sang tiếng Việt theo kiểu tư tưởng – triết thi. Những  nghi vấn và hoài nghi có tính bản thể người luôn hiện diện trong thơ Bùi Giáng, kiểu như: "Em từ vô tận xa xăm - Trùng lai chất vấn: từ trăm năm nào?". Thực và mộng đan xen, làm cho cấu trúc thơ trở nên linh diệu và mơ màng. Vì vậy, có người cho rằng hiện thực trong thơ Bùi Giáng là hiện thực của "diệu tưởng" và "nghi tâm" là thế. Tư tưởng hiện đại trong thơ Bùi Giáng pha hợp nhiều nguồn, có định mệnh của Phật giáo, có Thiền, có hiện sinh, có phân tâm học, có tượng trưng, siêu thực... qua hệ thống ngôn ngữ cũng biến ảo, huyễn hoặc, tạo thành thể tính thi ca, bản mệnh thi ca rất riêng của Bùi Giáng.

Và một quan niệm có ảnh hưởng rất rõ trong thơ Bùi Giáng, đó là khi ông xem thân phận con người nằm trong "tinh thể Đười Ươi". Vì vậy mà ông phát hiện ra Phật tính trong hình hài Đười Ươi của Người – của chính tôi. Nên ông có bút danh Đười Ươi thi sĩ là vậy.

Thoạt rằng người cũng là tôi

Hay là tôi cũng là tôi như người

Ấy rằng tinh thể đười ươi

Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và

Ấy rằng một cũng là ba

Là hai mai một mốt là hôm nay

Thơ Bùi Giáng dìu con người vào "cõi phiêu bồng" có hoa thơm, mật ngọt nhưng cũng ba đào, cay đắng, nhưng cao hơn tất cả, đó là lòng nhân ái, bao dung, phụng hiến cho đời, cho thơ trong một thế giới thái hòa, an lạc.

Còn ở lại một ngày còn yêu mãi

Còn một đêm còn thở với trăng sao

Thì cánh mộng còn tung lên không ngại

Níu trời xanh tay với kiễng chân cao

Với những quan niệm thơ như thế, Bùi Giáng đã đi trọn hành trình đau thương và hạnh phúc để còn đây những mật ngọt thi ca phụng hiến cho đời, "dìu ba đào " về những chân trời khát vọng thi ca – không phải chỉ cho mình mà còn cho tha nhân cõi thế.

2. Đến tư duy nghệ thuật thơ Bùi Giáng

Quan niệm thơ và hành trình sáng tạo luôn tác động, hỗ tương và làm thành thi pháp cá nhân của thi sĩ, có ổn định, lặp lại nhưng cũng có biến đổi, cách tân. Thế giới nghệ thuật thơ Bùi Giáng chính là sự vận động và phát triển như thế. Bao gồm 15 tập thơ được xuất bản, từ Mưa nguồn (1962) đến Trúc mai (2008), Bùi Giáng đã đi trọn hành trình đời và hành trình thơ đau thương, bất hạnh nhưng cũng đầy vinh quang, hạnh phúc, làm thành bản mệnh đời và bản mệnh thơ của riêng ông.

Cái tôi trữ tình ngôi thứ nhất là tác giả luôn hiện hữu trong thơ, làm thành điểm nhìn nghệ thuật đa dạng trong thơ Bùi Giáng. Trước hết, là cái tôi trải lòng giao hòa với thiên nhiên, cuộc sống mà ông cho là nó có liên quan với khởi nguyên, cõi tĩnh mật ban đầu. Nó là cõi vô biên nhưng gần gũi với con người mà thi sĩ coi đó là ngôi nhà tâm hồn vĩnh cửu của mình.

Mây đứng lại chân trời phủ khói

Giòng sông đi đò bến đợi ngu ngơ

Chiều trời đẹp tâm tình em không nói

Đất với trời chung một nghĩa bơ vơ

Khi con người bất lực và buồn chán thì thiên nhiên là nguồn an ủi. Mưa nguồn – tên tập thơ đầu tiên có một ý nghĩa mưa móc suối nguồn chảy vào tâm hồn mát ngọt hương yêu của chính người thơ để thành thi cảm và thi tứ chăng? Ở đấy, thiên nhiên với con người có sự giao hòa kỳ diệu giữa hiện tại, qúa khứ và tương lai.

Gió trăng sông núi đợi ta

Chờ sương nhị nguyệt màu hoa dâng mùa

Một mình vào núi đợi mưa

Đợi nghe chớp biển xế trưa mưa nguồn

Thiên nhiên luôn rộng mở, bao la không bờ bến để con người ngao du từ sơn thủy diện tiền đến chân trời xa ngút ngát.

Mưa có tạnh nhưng chân trời còn mãi

Những giọt sương là lệ ở trong mây

Dòng sông đi cho nước nói ngàn ngày

Rằng biển rộng không bến bờ em ạ!

Con người chan hòa cùng hoa lá, chim muông trong vườn thắm xanh tươi sự sống. Nhờ vậy mà con người đỡ bất lực trức chính mình. Một cảm thức hiện sinh mới lại bắt đầu.

Chạy đi em, qua vườn thắm theo ngày

Cùng với phút giây này phơi mở lá

Em ngó nhé cành xanh cây giục giã

Hoa nghiêng đầu ríu rít cạnh chim kêu

Thiên nhiên gắn bó sâu nặng với con người như hành trang từ nguồn đến đích để "Mai sau còn dự hội nào – Ngó nhau từ kỷ niệm đầu bão giông". Tận cùng ngây ngất của tình yêu hoa cỏ là một tự nguyện chan hòa, chia sẻ: "Anh nằm xuống để nhìn lên cho thỏa – Anh thấy lòng mở rộng đón trời xa – Chìm ngây ngất vào trong đôi mắt lá – Anh lim dim cho chết lịm hồn mình". Ở đó, thi sĩ đã lùa bò vào đồi sim trái chín để được như Tô Vũ ngày xưa hòa mình vào thiên nhiên hoang dại mà tận hưởng suối nguồn cuộc sống.

Và giờ đây một lời thề đã thốt

Nghìn thu sau đồi núi chứng cho ta

Cao lời ca bê hê em cùng thốt

Hòa cùng lời anh nghẹn nỗi thiết tha

Có một hình tượng lặp đi lặp lại trong thơ Bùi Giáng, đó là "cố quận", nơi ông sinh ra và lớn lên, nơi ông có những rung cảm đầu đời trong chia biệt mù sương: "Lên mù sương xuống mù sương – Bước xa bờ cỏ xa đường thương yêu – Tuổi thơ em có buồn nhiều –Thì xin cứ để bóng chiều bay qua – Bể dâu sực tỉnh giang hà – Con sơ nguyên mộng sau tà áo xanh".Vì vậy mà cố hương không bao giờ xao nhãng trong tâm hồn thi sĩ, ngay cả trong chiêm bao, mộng mị.

Ngày về tôi sẽ nhận ra

Em là cố quận tôi là tha hương

Tôi tìm kiếm khắp nẻo đường

Đường quanh lối thẳng dặm trường chiêm bao

Bùi Giáng có cảm thức giống như Xuân Diệu, ông chọn mùa xuân làm nguyên khởi cho thời gian, cho bí ẩn tinh khôi của cõi lòng mà ông gọi là Nguyên xuân, Nguyên mộng. Trong Mưa nguồn, Bùi Giáng hướng nguồn thơ của mình vào những gì tin yêu, tươi đẹp và rạo rực nhất, nên mùa xuân tràn ngập trong thơ cũng là logic của tình cảm dẫn đến thi ca vậy: "Mùa xuân, mùa xuân hiển hiện, lung linh ánh sáng, long lanh thanh sắc – Trong niềm hoan lạc của đất trời, vì tin ở sự tuần hoàn miên viễn, như tin vào một cánh én: Én đầu xuân tuyết đầu đông – Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa".

Bài thơ Nắng nguyên đán sáng tác sau này chính là sự níu kéo tâm thức non tươi, khát vọng ấy như một cố gắng đi tìm lại thời gian hiện sinh đã mất của chủ thể lẫn khách thể.

Chạy đi em, nắng gió bốn chân trời

Về chân đất dưới chân em mọc cỏ

Nắng Nguyên Đán lục lam hay hồng đỏ

Tía vi vu hồng lục cũng bao hàm

Chạy đi em! sương gió nắng thênh thang

Trời đất đẹp từ bình minh vũ trụ

Nắng Nguyên Đán của nguyên xuân đầy đủ

Cỏ hoa hương chồi nhú lộc miên man

Nắng xuân xanh mở cỏ mọc hai hàng

Và riêng mở duy Một Hàng Ẩn Mật

Nắng phơ phất vì sắc hương phơ phất

Dưới khung trời mặt đất mở thênh thang

Chạy đi em, gót ngọc bỏ hai hàng.

Và ít nhất trong tâm tưởng của Bùi Giáng, mùa xuân sẽ tuần hoàn trong đam luyến với những gì còn lại để tin yêu và hoài vọng: "Mùa xuân hẹn Thu về em trở lại – Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng – Nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại – Với dòng trong em hẹn ở bên đường". Dẫu điệp khúc ái ân, có lúc làm cho thi nhân nghi hoặc sự chia lìa, nhòa nhạt trong thực tại, thì thơ chính là nơi lưu giữ nguồn xanh yêu bất tuyệt, hoang vu chất ngất non hồng.

Mùa xuân hẹn Thu về em trở lại

Bên đời đi còn giữ mãi hay không

Giọng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại

Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng.

Nhưng có một thực tế, Bùi Giáng là người tha hương, sầu xứ đến ám ảnh. Ông mong ngày trở lại "cố quận", nhưng sao cứ tăm cá mịt mùng. Những giấc mơ vô thức không làm ông thỏa mãn nỗi nhớ mong ngày trùng phùng dâu bể: "Thời gian gội trắng một đời - Trông về quê cũ bạt ngàn mây tuôn". Trong ông, những địa danh thân yêu Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên, Vĩnh Trinh, Lệ Trạch, Lai Châu, Thì Lai, Hà Mật...vẫn nguyên trong ký ức mây mù gần nửa thế kỷ ly hương.

Non nửa thế kỷ xa quê

Mà chưa có dịp về quê một lần

Bảy mươi mốt tuổi tần ngần

Nước non Nam Việt chiếm gần trọn tim

Về Trung biết chốn nào tìm

Lại ngôi nhà cũ láng giềng đã qua?

Giật mình lúc chợt nghĩ ra

Rằng toàn thân thuộc đã qua đời rồi.

Bài thơ Tâm sự, như tên gọi của nó rất chân thành mà sao đau đáu miên man về kiếp người tại thế của thi nhân. Hình như nước mắt cũng đã cạn cùng những giọt khóc thầm, cả cho những ngày thơ dại.

Xuân xanh về khóc giữa dòng

Tuổi già quá cỡ, tấm lòng quá vui

Chần chờ tôi bước thụt lùi

Tới bao giờ gặp lại thằng tuổi thơ?

Vậy là từ một nhà thơ tự nguyện yêu trần gian hết mực, ông dùng thơ để ghi lại cuộc đời mình, cùng chuồn chuồn, châu chấu lên "đồi sim trái chín" để reo vui, bỗng chốc, ông lại rơi vào đô hội lang thang trên khắp nẻo đường, có lúc đớn đau, điên loạn "ngậm ngùi dấn thân", lạc loài cùng đỏ xanh vàng tím: "Đường quanh ngõ quẹo lang thang – Niềm vui tao ngộ muôn vàn lạ thay – Trái tim mỗi mới mỗi ngày – Mỗi giờ phút động mây trời rung rinh". Thơ, với ông là cứu cánh, là phép thắng lợi tinh thần để cứu rỗi, đê "ngậm ngùi dấn thân": "Rong chơi râu tóc bạc phơ – Còn nghe đắm đuối vần thơ yêu người". Nhưng rồi ông cũng nhận ra hiện sinh đời mình là bi đát: "Ta cư ngỡ đùa vui trong chốc lát – Nào ngờ đâu đùa mãi đến điêu linh". Cho nên một tâm lý "vô thường" xuất hiện, ngay cả quê hương và danh tánh của mình, ông cũng "đùa như thật".

Hỏi tên rằng biển xanh dâu

Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa

Gọi tên? Rằng một hai ba

Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm

Có khi ông thấy cả thiên hà hỗn mang trong những giấc chiêm bao bơ vơ nơi đất khách, quê người.

Hỗn mang về giữa thiên hà

Bây giờ cố quận tên là chiêm bao

Đo đếm gì thì cũng không qua được số mệnh đời người. Chỉ còn cách là dấn thân để đi hết hành trình cuộc sống. Và đầu phía bên kia là cõi nghìn thu mà ai cũng ghé lại để yên nghỉ vĩnh hằng: "Rồi tôi cũng phải xa tôi – Đời tài hoa cũng xa xôi ven bờ". Đó phải chăng là kết quả cuối cùng của "diệu tưởng" và "nghi tâm?"

Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại

Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu

Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi

Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu.

Và những câu thơ định mệnh của ông đã tiên đoán chính xác cho bản mệnh đời và bản mệnh thơ của ông.

-Thưa rằng ly biệt mai sau

Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân

-Lỡ từ lạc bước chân ra

Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn

Vậy mà đâu đây vẫn còn vang vọng sự hóa giải gần như kỳ diệu những buồn vui, ân nghĩa quanh đời hay cứu tính hiện sinh cho mỗi kiếp đời cũng thế: Sự sống và cái chết đều sóng đôi. Hai câu thơ như chân lý bất biến.

Xin chào nhau giữa con đường

Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau

Hình tượng nổi bật khác trong thơ Bùi Giáng là người gái nhân gian, biểu hiện thành người tình cụ thể hay người tình trong mộng cũng thế. Ông đã yêu chân thành, mê đắm và cuồng si đến thân xác bơ phờ, đơn phương, tuyệt vọng. Từ người tình thứ nhất thuở hoa niên không thành đã thành chấn thương tình ái trong ông.

Em ở lại với đời ta em nhé

Em đừng đi. Cho ta nắm tay em

Ta muốn nói bằng thơ bay nhẹ nhẹ

Vào trong mơ em mộng giấc êm đềm

Nhưng rồi cả tâm tướng và thi ca không đủ níu kéo tình yêu, đành lặng nghe mùa thu rớt hột tạ từ. Tình đơn phương cũng thành ảo ảnh.

Rồi từ đó về sau mang trái đắng

Bàng hoàng đi theo gió thổi thu bay

Anh chờ em không biết tự bao ngày

Để thấy mãi rằng thơ không đủ gọi.

Trong thực tế bi thương khi người vợ trẻ yêu quý của ông đã ra đi vĩnh viễn thì tình yêu về sau của ông cũng thành định mệnh chăng: "Mỗi giây phút mỗi bất ngờ - Mỗi đêm tưởng tượng thẹn thò cùng em – Tình em bao xiết êm đềm – Tình tôi như thể chênh vênh lạ thường". Trong đời ông, có nhiều bóng hồng xuất hiện, mỗi người một trạng thái và cung bậc tình ái khác nhau, nhưng rồi cuối cùng cũng trở thành ảo ảnh mù xa, để ông phải than lên: "Tặng đời đóa đóa hoa sầu – Nhớ nhau từ đóa mộng đầu rã đôi".

Lời là muộn của muộn màng sông bể

Tình là yêu vô lệ tưởng tới nhau

Em hãy nhớ rằng xưa kia có kẻ

Đã yêu em và suốt kiếp mang sầu

Nhưng tại sao Bùi Giáng lại chọn cho mình sự trái ngang trong tình yêu? Có lẽ đó là tự nguyện của ông chăng? Thú đau thương trong ly biệt nhiều khi là động lực để ông làm thơ và ngất ngây trong men rượu. Những người phụ nữ có liên quan đến thơ và đời ông như Mẫu Thân Phùng Khánh, tức mẹ Trí Hải Ni Cô, Nam Phương hoàng hậu, Kim Cương kỳ nữ, Nường Monroe, Gái Xiêm La, Hà Thanh ca sĩ, Gái Tô Châu, các em Châu Phi da đen, Đạm Tiên, Thúy Vân, Thúy Kiều, bé con Bình Thạnh, các chị miệt vườn Nam Bộ... Thật có, tưởng tượng, hư cấu có. Ai ông cũng có thơ viết về họ chân thành và xúc động. Phải nói là Bùi Giáng đa mang và đa cảm.

Với mẹ Trí Hải Ni Cô, thánh thiện và thanh tịnh mà ông gọi là Mẫu Thân Phùng Khánh.

Mẹ về đứng giữa đầu sân

Cuối cùng Mẹ bước vô ngần Mẹ đi

Ông còn giải thích: " Phùng Khánh vốn là bà mẹ Việt Nam. Tôi lại là con dân Việt Nam. Vậy tất nhiên Phùng Khánh là mẹ của tôi vậy...Phùng Khánh là bà mẹ của loài người" (Thơ vô tận vui,tr.454): "Con về giũ áo đười ươi - Nực cười Trí Hải ngậm ngùi mẫu thân - Đẻ con một trận vô ngần - Mẹ còn đẻ nữa một lần nữa thôi - Mẫu thân Phùng Khánh tuyệt vời - Chiều xuân thơ mộng dưới trời bước đi".

Với người con gái Long Xuyên, ông nâng lên thành thục nữ, thuyền quyên khó bao giờ gặp lại.

Ôi người thục nữ Long Xuyên

Tìm đâu thấy lại thuyền quyên một lần

Với Kim Cương kỳ nữ, Bùi Giáng tôn lên ngôi công chúa. Còn mình là vua đang "vô tận ven đường" đang lang thang định nghĩa tình yêu.

Kính thưa công chúa Kim Cương

Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây

Tờ thư rất mực móng dày

Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?

Đặc biệt, xuất hiện nhiều lần trong thơ Bùi Giáng là hình ảnh Em Mọi sơn nữ, có khi ông gọi Em Mọi nhỏ, hoặc Gái Núi mà ông đã gặp trong thời kháng chiến ở miền rừng lúc ông còn trẻ. Hình ảnh cô sơn nữ ấy ám ảnh ông mà có lần ông kể "tưởng chừng mình đang lạc vào suối Đào Nguyên" mà Đặng Tiến cho rằng đó là "một ẩn dụ hữu cơ trong thơ Bùi Giáng và có khả năng cấu trúc thi hứng như một hình ảnh Đầu Nguồn, một sử lịch sơ khai, một suối Xuân diễm tuyệt...Gái Núi là một khai thị, khai tâm, khai tứ, khai từ" (7, tr.431-432).

Em từ Mọi Nhỏ thanh tân

Mười hai con mắt thiên thần mở ra

Rồi ông lại xác quyết.

Mọi là Em, Mọi Sơ Xuân

Ban sơ núi đỏ chào mừng non xanh

Đó cũng là một ý kiến đáng chú ý, vì qua thơ, ta nhận ra điều ấy. Hình ảnh người em sơn nữ đã đánh thức trong tình cảm Bùi Giáng những rung cảm đẹp và nên thơ, để ông mãi gọi "Em là em mọi – Em ở đâu rồi" tưởng còn âm vang rừng núi.

Em ở trong rừng một buổi xưa

Ngẫu nhiên tao ngộ gió sang mùa

Hai bờ lãnh địa đâu lòng gọi

Sầu suốt giang sơn vọng tiếng thừa

(...)

Rừng xanh nắng biếc em cười nói

Một thoáng bình sinh giữa bốn trời

Có khi ông nhìn Em Mọi hóa thành Kim Cương.

Anh kêu gọi khắp sơn hà

Em là Em Mọi em là Tương Lai

Em là Tiên Nữ Ngày Mai

Em thành Thánh Nữ Thiên Tài Kim Cương

Nhưng rồi cuối cùng, với lòng tôn thờ thánh thiện những người mình yêu quý, ông nâng tình yêu lý tưởng ấy lên thành "đóa sầu" để được buốt nhớ: "Từ phen đá biết tuổi vàng – Một lời vâng tạc muôn vàn mai sau – Ăn làm sao,? Nói làm sao?- Thủy chung muôn một? Còn đau đớn nghìn? Bùi Giáng đã thực sự yêu và đau khổ, yêu và giàu có trong ly tan, tàn tạ. Và giàu có hơn ngàn làn, đó là những bài thơ tình yêu tuyệt mù ông để lại cho nhân gian.

Uống xong ly rượu cuối cùng

Bỗng nhiên chợt nhớ đã từng đầu tiên

Uống như uống nước ngọc tuyền

Từ đầu tiên mộng tới phiền muộn sau

Uống xong ly rượu cùng nhau

Hẹn rằng mai sẽ quên nhau muôn đời

Em còn ở lại vui chơi

Suốt năm suốt tháng suốt nơi lan tràn

Riêng anh về suốt suối vàng

Trùng phùng Lý Bạch nghênh ngang Tản Đà.

Vậy là vĩnh biệt nhưng không vĩnh biệt vì ông đã mang khát vọng bơi ngược dòng sông thời gian để được sống trong thế giới "miên trường phía sau" của những gì không nhòa nhạt – dù đó là tình yêu "tại thể bơ vơ".

Bùi Giáng luôn luôn là những nghịch lý- nhiều lần nghịch lý. Nghịch lý giữa thể xác và tâm hồn, giữa điên và tỉnh, giữa cuộc sống và khát vọng thi ca, giữa hy vọng và thất vọng, giữa tình yêu và vỡ mộng, giữa vui bất tuyệt và cô đơn ngất mù. Tất cả những nghịch lý ấy sẽ gặp nhau, tạo thành những mảnh vỡ thi ca sáng trong như ngọc và xa xót như hồn và máu đang vơi. Đấy là phân hóa trong nhất thể hiện sinh Bùi Giáng.

Bỏ trăng gió lại cho đời

Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa

Bỏ người yêu bỏ bóng ma

Bỏ hình hài của tiên nga trên trời

Bây giờ riêng đối diện tôi

Còn hai con mắt khóc người một con

Bùi Giáng là người mang số phận lưu đày – lưu đày trong cuộc sống và trong thi ca của chính mình, bởi một phần ông chịu ảnh hưởng tư tưởng bi đát, hoài nghi của chủ nghĩa hiện sinh, dù bản chất căn bản của ông là yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng để rồi ông tự thú "Buồn vui như thể thân mình – Ai chia nửa máu, ai giành nửa xương". Và những nghi vấn liên tục xuất hiện cũng chính là những hoài nghi bản thể từ chính cuộc sống tại thế đặc thù của ông.

Ai người đau nữa để xẻ chia

Trời đất hoang mang buổi mộng lìa

Anh ngó, anh nhìn, anh cúi xuống

Ngước đầu anh hỏi có trăng khuya.

Để rồi vẫn trong cảm thức nguyên xuân, ông đã tự hóa giải những gì khổ đau, hệ lụy để tiếp tục tồn tại trong khách thể bi đát, làm thành sự hòa điệu kinh cầu của thi ca.

Mai sau hẹn với ban đầu

Chờ nhau ngõ khác ngả màu nguyên xuân.

Có khi là hòa điệu tái tạo sự sống trong khát vọng tình ái bản năng.

Trùng sinh vô tận hương màu

Hồi sinh vô tận hồi sau sẽ là

Ôm nhau hôn hít thiết tha

Tình yêu vô tận ấy là từ em

Có người đã ví đi vào thế giới thơ Bùi Giáng như đi vào Sa Mạc Phát Tiết - tên một tác phẩm của ông, tức là khó mà giải mã chúng một cách tức thì, nếu không căn cứ từ nhiều yếu tố và đặc biệt là nếu không xét căn nguyên tư tưởng triết mỹ của ông. Ông thể hiện về đất nước, dân tộc hay về con người và chính mình đều có nguyên cớ và bị chi phối bởi những ám ảnh hiện sinh thực tồn của vấn đề. Bùi Giáng luôn nghĩ về lịch sử dân tộc trong tiến trình bão giông của nó cùng với con người và ông gọi đó là Sử lịch.

Tấm thân với mảnh hình hài

Tấm thân thể với canh dài bão giông

Cá khe nước cõng lên đồng

Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng

Tạ từ tháng chạp quay nghiêng

Ầm trong sử lịch thu triền miên trôi.

Cõi sương khói mơ màng, mộng tưởng thiên thu và hồng hoang tâm tưởng trong bàng bạc thơ ông thực ra cũng chính là cõi người hiện tồn đấy thôi. Càng về sau, ông càng triết lý về thời gian sống đời người trong từng kinh nghiệm quan hệ: "Ta đếm lại từng ngón tay lẩy bẩy – Đời chúng ta là mấy trăng tròn" để biết rằng cõi người và cõi tình là "sắc sắc không không".

Em sẽ khóc khi nhìn trong khóe mắt

Thấy một mình người đi lại lang thang

Còn ghì giữ ân tình trong cỏ nhặt

Múa vi vu vì hẹn với truông ngàn

Còn gì ám ảnh hơn là phận người trong hiện tồn hữu hạn. Cho nên trong thơ Bùi Giáng, cõi người luôn được ông chiêm nghiệm ở nhiều góc độ, nhiều quan hệ, nhiều tâm thế và nhiều triết lý. Có khi ông thấy "Đời dại khờ như một giấc chiêm bao", ngay cả quê hương, ông cũng tưởng tượng thành "Hỗn mang về giữa hiên nhà – Bây giờ cố quân tên là chiêm bao", nhưng rồi ông cũng nhận ra nỗi đau trong biệt ly hiện tại "nỗi đau về chẳng hẹn giờ" để cho "Mấy đời ly biệt rẽ đau một mình". Có khi chiêm bao là phương thức cứu rỗi để ông tự an ủi tâm hồn: "Đài vũ trụ hồn chiêm bao rạng tỏ - Một nụ cười thế giới sẽ chia đôi". Nhưng rồi, tình yêu chính là liều thuốc nhiệm mầu nhất có thể xoa dịu bi tình sử đời ông.

Chân cứ bước theo nhịp hồn cứ động

Em là em anh đợi khắp nẻo đường

Em có nụ cười buồn buồn môi mọng

Em có làn mi khép lá cây rung

Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng

Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng!

Phụng hiến lại là cách để ông níu kéo hiện sinh trần thế một cách có ích, ít ra là cho chính mình và cho thi ca: "Còn trang thơ thắm lại với trời hồng".

Trần gian hỡi? Tôi đã về đây sống

Tôi đã tìm đâu ý nghĩa lầm than

Tôi ngẩng mặt ngó ngàn mây cao rộng

Tôi cúi đầu nhìn mặt đất thấp đen

Nguyên sơ, uyên nguyên, tịch liêu, vô cùng là triết lý của Bùi Giáng để ông tìm thấy niềm an ủi, mộng mị cỏ hoa. Chúng là thông điệp được chứa đựng bằng ngôn từ ảo ẩn, bí truyền, có khi như điên loạn, bí mật và đã trở  thành cứu cánh thi pháp thơ. Dù cho ly biệt muôn trùng thì mùa xuân vẫn còn sơ nguyên mộng: "Thưa rằng ly biệt mai sau – Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân". Cảm thức hoài niệm, hoài vãng cũng là cách thi nhân đi tìm thời gian đã một đi không trở lại để đồng hiện thuở ban đầu: "Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài - Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua". Và thực tế, ông luôn mang chủ nghĩa xê dịch cho đã đời một kẻ rong chơi tiêu dao trần thế. Và ông tự nhận mình là người điên viết những bài thơ bằng ngôn từ bất chợt, bừng tỉnh "Tặng nhau từ ngữ lạc lầm – Cũng xin hồng lệ hãy đầm đìa tuôn" để mong đời hãy hiểu lòng ông.

Người điên ngôn ngữ điệp trùng

Dở chừng như mộng dở chừng như mê

Thưa em thôn ngữ quặt què

Làm sao nói được nghiệp nghề người điên

Ngôn ngữ ngón tay cũng thành tín hiệu của mùa xuân sơ mộng hẹn thề thương yêu.

Xin chào nhau giữa bàn tay

Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con

Thưa rằng: những ngón thon thon

Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau

Đó cũng là kết cục của những mối tình trần gian mà thành mộng ảo, nhưng Bùi Giáng không hề gì, vẫn thấy em là thác đổ bên đời. Người đàn bà trong thơ Bùi Giáng được ông thể hiện thành triết mỹ của năng lượng sống ban đầu, uyên nguyên, huyền diệu. Điều này ông có chịu ảnh hưởng từ triết lý hiện sinh mà Heidegger là mạnh mẽ nhất. Trong tác phẩm do ông dịch Heidegger và tư tưởng hiện đại, có đoạn viết: "Người đàn bà phải trở về bủa mộng chiêm bao để thiết lập mộng luân lưu cho thời gian bay múa để cuộc tồn hoạt cuả tồn sinh được tiếp xúc trở lại với hương màu vạn cổ"(4, tr.57).

Một lần gió táp mưa sa

Nghìn thu như một sát na mơ màng

Nhớ em suốt cả dặm đường

Thương em rừng rú suốt phường phố hoa

Nhưng rồi, trong tư tưởng hiện sinh của Bùi Giáng thường trực mâu thuẫn. Những nghịch lý luôn hiện hữu trong thơ như những biến thể của thất vọng và đỗ vỡ. Từ xuất phát điểm ban đầu, nhân vật trữ tình ngôi thứ nhất – nhà thơ thể hiện sự hy vọng, dấn thân, mơ mộng nhưng rồi nhanh chóng chuyển qua trạng thái ưu tư, bất tín để quá trình tiếp theo xuất hiên cảm thức cô đơn và hư vô, cảm thấy mình bị ẩn ức, bị lưu đày trong cõi nhân gian khổ đau và hệ lụy. Sự nổi loạn trong tình cảm là một logic biện chứng dẫn dắt Bùi Giáng đi cùng thi ca một hành trình khá dài và rồi tiếp theo là điểm đến cuối cùng xuất hiện tư tưởng hiện sinh siêu việt. Tư tưởng này đã chứng minh Bùi Giáng đã chịu ảnh hưởng từ những khái niệm và mệnh đề của triết học phương Tay và tôn giáo muốn thể hiện cái vô cùng để hóa giải thực tại một cách vừa cao cả vừa thiêng liêng. Thơ Bùi Giáng chính là những phức cảm, phức tượng, phức hồn và phức ngữ như thế.

Nàng tiên kỳ bí thập thành

Cỗi nguồn vô tận ngọn ngành tới đâu

Nàng đi đứng giữa thiên thâu

Tương lai, hiện tại một màu phôi phai

Vẫn là tư tưởng siêu việt,

Em từ thiên thượng về chơi

Hào quang bất chợt sáng ngời giữa trưa

Hình dung tình mộng thượng thừa

Giấc mơ kỳ vĩ còn lưa muôn đời

Ngay cả khi Bùi Giáng nói về hồn, nói về bóng âm hoặc nói về mộng và cõi lòng cũng là cách ông thõa mãn tư duy, để trừu xuất thành tư tưởng và triết lý kỳ bí của mình bằng thi ca.

Trời đất lạnh và lòng anh không thỏa

Gửi hồn đi phương hướng hút heo ngàn

Hồn ngơ ngác loay hoay về hỏi dạ

Có bao giờ dạ thỏa giữa không gian

Đến cả những gì được người đời xem là thiêng liêng và kiêng dè thì Bùi Giáng cũng đã siêu việt trong tâm tưởng để "đùa thôi mà" một cách bất ngờ và triết nghiệm bằng kiểu ngôn ngữ tu từ mang tính bản năng, bỡn cợt  đặc sắc.

Quan san chết đuối giang hà

Trời hôn cái lá đã ba lần rồi

Lần thứ tư chết lịm thôi

Ba lần cái lá bị trời ghì hôn

Một hai hai một bồn chồn

Trời hôn cái lá trên cồn của em

Hai lần ba một lần thêm

Lần khân tứ khỉ là tên ông trời

Đến cái điên của Bùi Giáng cũng là kết quả của con người nổi loạn, siêu việt. Điên mà biết mỉa mai, cà rỡn, nói lịu, nói lái, nói bỏ lửng bằng hình tượng và từ ngữ giàu ẩn dụ, hoán dụ, đối lập, láy, điệp... thì quả là nghệ thuật đầy chủ đích có một không hai của Bùi Giáng: "Điên chơi cho bớt điên đầu – Điên đầu cho bớt điên rầu rĩ chơi" đó vừa là nghệ thuật chơi chữ vừa là thú tiêu dao theo cách Bùi Giáng.

Đi về với gió du côn

`    Mở giông bão xuống cõi tồn sinh phai

Mép rìa vòm cỏ hương bay

Mở trang nhảy múa trên ngày phù du

Có lúc ông gọi là đùa tếu mà thành xa xót thật trước những ngã ba dằng xé tâm hồn.

Một đời được mấy mấy mình

Mấy mình được mấy một mình cô đơn

Tồn sinh một tấm một mình

Chẻ làm hai mảnh tiền trình dấn thân

Nhưng rồi cuối cùng, nhà thơ cũng là người bằng xương bằng thịt, nên không thể thoát ly khỏi hoàn cảnh sống đang từng ngày từng giờ tác động thân xác và tinh thần, hữu thức và vô thức, có cả tiềm thức của ông: "Trong linh hồn một bông hoa – Hình như có cõi người ta đàng hoàng". Cứ thế, ông tự hiện hữu mình trong từng không – thời gian vừa hiện tại vừa tương lai vừa tâm tưởng.

Tình yêu tưởng tượng hôm mai

Trùng sinh ký ức nhớ ngày đầu tiên

Đi rồi trở lại hiện tiền

Từ mai sau tới mọi miền tương lai

Cùng về một lúc một mai

Một mùa xuân rộng vòng xoay muôn mùa

Thời gian là cuộc lữ hiện sinh mà con người luôn trong vòng quay của nó để mang vác tất cả mọi trạng thái tình cảm tồn lưu trên thân thể của mình, rồi cứ thế hướng về phía tương lai như những mơ mộng – dù là mơ mộng  mù vợi, phai phôi. Đó phải chăng là "tại thể hoài vọng luân lưu" mà Bùi Giáng gọi là Sử lịch, một quan niệm có xuất phát từ triết lý về thời gian và hữu thể của Heidegger: "Thời gian là sự cảm thụ thuần túy về mình. Chính thời gian làm thành cái nhằm tung mình về phía trước. Cho nên thời gian làm nên cơ cấu căn bản của chủ thể tính" (8, tr.23). Thi ca Bùi Giáng phải xét trong quan hệ giữa thời gian và chủ thể tính như vậy mới thấy hết ý nghĩa hiện sinh của chủ thể sáng tạo và thi ca.

3. Vĩ thanh mở

Đến đây, dù chưa đi hết hành trình tư tưởng và nghệ thuật của thế giới thơ Bùi Giáng, chúng ta cũng đã có thấy được bản mệnh đời, bản mệnh thơ của ông một cách rộng mở, chưa có vĩ thanh khép lại trọn vẹn. Và vì vậy, thi giới Bùi Giáng luôn có sức vẫy gọi đồng sáng tạo mạnh mẽ trong nhu cầu tiếp nhận của nhiều thế hệ người đọc hôm nay và mai sau. Những tiêu đề qua từng tập thơ của ông đã là chìa khóa giúp ta lần tìm bên sau, bên sâu, bên xa của ngôn từ để phát hiện ra những "lá hoa cồn" và "ngàn thu rớt hột", qua đó, ta càng hiểu thấm thía "màu hoa trên ngàn" của "ngày tháng ngao du" với "mùa màng tháng tư" mà ở đó, Bùi Giáng đã từng đi qua "con đường ngã ba" để thành "sa mạc trường ca" và "bài ca quần đảo" mà nhận ra "rong rêu" và "mưa nguồn" xanh màu buốt nhức, và liên tục ông có dịp nhìn ngắm "rớt hột phiêu bồng" bằng "mười hai con mắt" để biết đời và "thơ vô tận vui" và cuối cùng trở thành "thi ca tư tưởng". Đó cũng chính là tinh thần  - tư tưởng - triết mỹ - tôn giáo - văn hóa mà Bùi Giáng phụng hiến cho đời, cho thơ. Thơ Bùi Giáng đã thành một hiện tượng thơ, một "thi ca chi bảo" của nền thơ Việt hiện đại thế kỷ XX.

Vỹ Dạ, tháng 10 – 2012

H . T . H

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Giáng (1969), Thi ca tư tưởng, Nxb Ca dao, Sài Gòn.

2. Bùi Giáng (1969), Đi vào cõi thơ, Nxb Ca dao, Sài Gòn.

3. Bùi Giáng (2005), Rong rêu , Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.

4. Bùi Giáng dịch, biên soạn (2001), Heidegger và tư tưởng hiện đại,

Nxb Văn học, Hà Nội.

5. Đoàn Tử Huyến (chủ biên) (2008), Bùi Giàng trong cõi người ta,

Nxb Lao động, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.

6. Bùi Công Khanh (2005), Bùi Giáng trong tôi, Nxb Văn nghệ,

Tp Hồ Chí Minh.

7. Đặng Tiến (2009), Thơ – Thi pháp và chân dung, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

8. Trần Hương Tử (1961), "Heidegger và ý nghĩa con người", Tạp chí

Bách Khoa, số 156.

(nguồn: Ban Tổ chức cung cấp)


Bùi Giáng - thi sĩ tinh quái của nền thi ca Việt Nam hiện đại

(LÊ MINH QUỐC)

 

Về dòng tộc Bùi Giáng, ta có thể tóm tắt như sau: Cụ Bùi Thuyên có hai vợ. Sau khi cụ bà thứ nhất là con gái của Tiến sĩ Phạm Tuấn - một trong “Ngũ phụng tề phi”, sinh được 3 người con nhưng chẳng may mất sớm, cụ “đi bước nữa” với cụ bà Huỳnh Thị Hai (thời con gái tên Kiền). Với bà thứ hai, cụ Bùi Thuyên có được nhân tài Bùi Giáng. Trong gia đình, Bùi Giáng là con trai thứ 5 nên gọi “Sáu Giáng” theo cách người miền Nam. Được biết ông nội của mẹ Bùi Giáng là cụ Hoàng Văn Bảng, em ruột danh tướng Hoàng Diệu.

Bùi Giáng đã đứng một cõi riêng và tạo ra một dấu ấn kỳ lạ trong dòng văn học miền Nam từ năm 1954 đến 1975. Đừng quên rằng, trong trường văn trận bút thuở ấy, phải nói thật một điều, chiếm lĩnh văn đàn hầu hết là các cây bút miền Bắc di cư vào Nam sau khi đất nước ký hiệp định Genève. Dù khệnh khạng, khởi xướng nhiều cuộc “cách tân” trong văn chương, nhưng họ phải mở rộng cánh cửa trên các tờ báo văn hóa nghệ thuật mà họ đang nắm giữ để mời Bùi Giáng bước vào.

Đã có nhiều người viết về Bùi Giáng, xưng tụng tài năng của ông. Nhiều nhà thơ khác cũng được xưng tụng vậy, nhưng quả thật, trong mắt tôi chưa có một ai dám sống, dám sống một cách thi sĩ như Bùi Giáng. Nếu Chalot Chaplin nói rằng “Đừng sợ sống” thì Bùi Giáng là một con người như thế. Ông đã sống triền miên nửa mê nửa tỉnh trong cuộc chơi mà ông gọi là “ngày tháng ngao du”. Sống hồn nhiên, không lo toan, tính toán:

Sài Gòn, Chợ Lớn rong chơi

Đi lên đi xuống đã đời du côn

Khi có một con người dám đem cả cuộc đời của mình ra mà chơi, chơi hồn nhiên như mây bay gió thổi, như cỏ mọc, như đói thì ăn, như sống thì phải thở… ở cuối thế kỷ XX chỉ có thể là Bùi Giáng. Một người làm thơ nhưng không hề ý thức mình đang làm thơ, chỉ có thể là Bùi Giáng. Ở Bùi Giáng, ông chơi như một nhu cầu nội tại, không cố gắng. Ý nghĩa của cuộc chơi ở chỗ chơi là chơi, chứ không phải cố gắng chơi. Ông đã (hay thiên hạ) đã tạo cho ông quá nhiều huyền thoại, giai thoại thực hư được phủ dưới lớp sương mù của thời gian mà mỗi lần tiếp cận thì ta lại bật ra những tiếng cười có thể sảng khoái, có thể thâm trầm, ngậm ngùi thú vị….

leminhquoc--Bui-giangRR

Lê Minh Quốc & Bùi Giáng (ảnh chụp tại tòa soạn báo PN thời còn ở 188 Lý Chính Thắng, Q.3)

 

Tôi đoan chắc rằng, trong các nhà thơ ở thế kỷ XX này, chưa một ai viết hoặc dịch nhiều sách triết học như ông; và cũng chưa ai đem thơ ra “cà rởn” bền bỉ như ông. Riêng về lãnh vực viết sách triết học và dịch thuật của Bùi tiên sinh, tôi nghĩ nôm na, muốn đánh giá lại chất lượng của nó phải là một người có trình độ học vấn uyên thâm ngang ông, phải dựa vào nguyên tác để xem ông đã dịch như thế nào, phải am hiểu triết học đó để xem ông đã “sinh sự” ra sao? Nhưng nhìn chung thấy khó. Âu đó cũng là hạnh phúc và bất hạnh của ông.

Thuở nhỏ, ông học ở trường Bảo An (Điện Bàn) sau đó ra Huế học trường Thuận Hóa. Năm 1945, khi ông học lớp Đệ Tứ, vừa kịp đậu Thành chung thì đảo chánh Nhật. Trong năm này, ông lập gia đình. Ba năm sau, vợ mất. Thời gian này ông rong ruổi khắp Nam Ngãi Bình Phú. Cũng giống như Phan Khôi, điều đáng nể Bùi Giáng còn là ở chỗ tự học. Trong đời, ông có hai lần “bỏ học”.

Lần thứ nhất, năm 1950 khi có kỳ thi Tú tài đặc biệt do Liên khu V tổ chức (gọi đặc biệt vì đề thi từ Liên khu IV gửi vào và sau đó chấm luôn bài thi của thí sinh), Bùi Giáng đã thi đậu Tú tài II Văn chương rồi lên đường ra Liên khu IV để học. Nhưng sau khi đến Hà Tĩnh, ông lại quyết định bỏ học, quay về nhà đi… chăn dê! Trong bài thơ Nỗi lòng Tô Vũ có nhiều đoạn cho ta biết ngày tháng này:

Những bận nào Trà Linh qua Đá Dừng, Hòn Dựng

Dùi Chiên về Phường Rạch ngược Khe Rinh

Bao lần anh cùng chúng em lận đận

Bôn ba băng rú rậm luống rùng mình

Những bận nào Quế Sơn, Rù Rì con suối ngược

Nước trôi nguồn nước lũ xuống phăng phăng

Những bận nào mịt mùng mưa gió ướt

Đẫm thân mình co rúm lạnh như băng

Lần thứ hai, năm 1952 ông thôi chăn dê ở triền núi Trung Phước, trở về Huế thi Tú tài đương đương, rồi vào Sài Gòn ghi danh Đại học văn khoa. Nhưng sau khi nhìn danh sách các vị giáo sư đáng kính sẽ dạy dỗ mình, ông quyết định… chấm dứt việc học ở trường!

Từ đây, ông bắt đầu “đóng cửa phòng văn hì hục viết”. Viết nhiều thể loại, nhưng lưu lại đời sau của ông vẫn chính là thơ, nổi trội hơn cả là thể thơ lục bát.

Trước đây, tôi đã có viết một vài cảm nhận về ông như sau:

Trưa. Nắng gắt. Từ trên đường Trương Minh Giảng một chiếc xích lô lao xuống bạt mạng, mọi người hoảng hốt nhảy tránh. Bỗng một người đàn ông ăn mặc kỳ quái - đầu đội nón lá, tay cầm gậy, còn quần áo thì vá chằng chịt đủ sắc màu rực rỡ như nhân vật Cái Bang trong tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung xuất hiện. Bất chấp tốc độ của chiếc xích lô đang lao xuống, ông nhảy ra chặn đầu xe. Lạ thay, chiếc xích lô dừng phắt lại. Ông ta leo lên ngồi chễm chệ và xe tiếp tục chạy giữa phố xá bụi bặm. Những người bán hàng rong, bán quán cơm bình dân, bán xăng lẻ lại xì xào: “Lại cái ông Bùi Giáng! Chiều nay, chắc số đề lại ra số ông địa nữa!”. Không biết từ bao giờ, Bùi Giáng được tặng biệt danh “ông địa” ở khu vực chân cầu có dòng nước đục ngầu rác rưởi lặng lẽ trôi... Khi chứng kiến cảnh đón xe rất giang hồ kia, tôi bỗng nhớ đến một câu thơ mà ông đã viết cách đây hơn hai mươi năm “Cộ xe nhiều anh nhảy bổng như hưu!”. Một câu thơ rất nghịch ngợm, nhưng phản ánh được tâm trạng nguy khốn của một con người không sao tương thích được với văn minh cơ khí. Thích hợp sao được khi mà Bùi Giáng đã “tự bạch” như sau: “Bùi Giáng (trung niên thi sĩ) thuở bé ham đọc thơ bỏ học về nhà chăn trâu làm thơ thật nhiều tặng chuồn chuồn và châu chấu” (Sa mạc phát tiết, NXB An Tiêm - 1969).

Bùi Giáng đó. Trong thơ ca ông là ông hoàng của thứ ngôn ngữ sang trọng, ước lệ hoặc kiểu chẻ ngôn ngữ ra làm năm làm bảy, tưởng rằng cà rỡn bông đùa nhưng ẩn tàng trong đó những triết lý thâm sâu không dễ gì đạt được nếu không phải là Bùi Giáng. Thế nhưng, trong đời sống hàng ngày, Bùi Giáng lại là người của phố xá rong chơi, bạn của những chai bia Chương Dương, Con Cọp rẻ tiền mà người đối ẩm là bất cứ ai kiếm sống bằng những nghề lương thiện.

Lần đầu tiên đến nhà riêng của Bùi Giáng, tôi đi với một người bạn. Căn phòng nhỏ trên lầu một nằm ở đường Trần Quang Diệu đón chúng tôi trong lặng lẽ. Căn phòng trống trơn, không một quyển sách, không có gì cả ngoài chiếc giường gỗ với chăn gối bừa bãi. “Thi sĩ lớn của tôi đây sao?”. Cô bạn gái của tôi hoảng hốt kêu lên. Một ông già ngồi câm lặng, ngơ ngác nhìn trời. Nắng chiều dội vào căn phòng tỏa ra hơi nóng hầm hập. Không ai nói với ai lời nào. Cổ khát đắng. Một ly nước lọc cũng không có. Bùi Giáng ngồi như người mất hồn. Cô bạn gái đột nhiên bật khóc rấm rức như đứa trẻ. Tại sao? Ngay chính cô cũng không giải thích được. Tôi đã gặp Bùi Giáng ngoài phố, trong quán nhậu nhiều lần. Những lúc đó có thể nói với ông về mọi chuyện, không có chuyện gì đối với ông là nghiêm trọng cả, ngoại trừ - vâng, ngoại trừ... thi ca. Lúc Bùi Giáng đọc thơ, tôi có cảm giác như xem một pianist cuồng nhiệt biểu diễn. Còn nhớ trong một buổi nhậu ngoài lề đường Lê Văn  Sỹ, giữa huyên náo của tiếng động cơ ầm ầm, Bùi Giáng nhất quyết rủ tôi đi tìm cho bằng được nhà phê bình X. “Phải treo cổ nó lên vì đã in thơ Xuân Diệu sai hai chữ”. Thái độ hung hăng khác hẳn thường ngày của ông đã làm tôi kinh ngạc. Thì ra, trong bài Lời kỹ nữ viết từ năm 1939 của Xuân Diệu như sau:

Người giai nhân: Bến đợi dưới cây già

Tình du khách: Thuyền qua không buộc chặt

Không hiểu sao khi bình thơ Xuân Diệu, nhà phê bình X lại viết thành: “Người giai nhân: Bóng đợi dưới trăng già”. Lúc đó không có trong tay tập Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân hoặc tập Gửi hương cho gió của Xuân Diệu để kiểm chứng lại trí nhớ của Bùi Giáng nên tôi mới hỏi: “Ông Bùi ơi! Tại sao ông quả quyết Xuân Diệu dùng chữ cây chứ không phải chữ trăng?”. Bùi Giáng liền lấy ngón tay trỏ và ngón cái khép lại thành vòng tròn. Tôi hiểu ý ông, vì trước đây ông đã từng viết: “Vì em là con gái mang một cái gì (rất lạ) ở trong người”. Ông nói tiếp: “Cái cây thì thẳng, cái vòng thì tròn mới đặt vào nhau được. Chứ đổi thành chữ trăng thì hiểu sai ý Xuân Diệu”. Đó cũng là một cách thẩm thấu thơ rất ... Bùi Giáng. Và vì vậy dù chỉ sai hai chữ song ông đã nổi khùng lên. Chữ nghĩa đối với Bùi Giáng phong phú như một người nông dân gieo hạt vung vãi trên cánh đồng. Nhưng đó là những hạt lúa chắc, nhưng do cà rỡn nên đối khi cũng lẫn vài... hạt lép! Ông làm thơ rất nhiều, rất nhanh, đặt bút xuống là thành thơ. Chữ nghĩa trong tay Bùi Giáng đã được ông sử dụng như một con cờ trong bàn cờ tướng vậy. Hỡi ôi! Làm thơ khó vậy thay! Một lần khác, Bùi Giáng đi xích lô đến tòa soạn báo Phụ Nữ TP.HCM để gửi thơ, gặp tôi, ông lấy trong cuốn tập học trò ghi chằng chịt một tờ giấy, rồi cắm cúi viết:

Một lần thấy một ra ba

Một lần thấy một mà ra bốn lần

Tôi hỏi: “Tại sao không hai lần, năm lần hoặc sáu lần mà lại bốn lần?”. Ông cười rất hồn nhiên: “Bốn lần là...”. Thơ Bùi Giáng cà rỡn vậy đó. Trong đời sống hằng ngày ông cũng là một người cà rỡn, đi đứng nghênh ngang, vui đùa hoạt náo, ai hiểu sao thì hiểu. Ai ái mộ ông, xin thơ ông, ông sẵn sàng viết tặng ngay, viết trên bất cứ cái gì có trong tay. Đi tìm ai, nếu không gặp, ông nhắn lại... bằng thơ! Có lần trong “sổ nhắn tin” của cơ quan tôi, ông viết:

Trẫm từ vô tận về đây

Tháng dài ngày ngắn năm chày chày trôi

Bỗng nhiên bất chợt rụng rời

Ngài đi xa vắng trẫm ngồi xích lô!

Tài thay, chỉ mấy câu mà đã vẽ nên một hình ảnh rất Bùi Giáng, không thể lẫn với ai. Tôi thích nhất là những lúc nhìn ông đùa giỡn với trẻ con ngoài đường phố. Những lúc đó ông hiền lành, vui nhộn, cầm gậy nhảy tít mù giữa phố xá để được đám trẻ nhỏ cười. Chính nhiều lần bắt gặp Bùi Giáng như thế nên tôi đã nghĩ khác về một câu thơ của ông. Bùi Giáng có làm một bài thơ tặng bà Thu Trang - một trí thức Việt kiều ở Pháp trong đó có câu: “Còn hai con mắt khóc người một con”. Riêng câu thơ này nhạc sĩ tài năng Trịnh Công Sơn đã phổ thành ca khúc Con mắt còn lại. Trước khi thu băng phát hành rộng rãi, tôi đã được nghe chính Trịnh Công Sơn hát tại Nhà văn hóa Thanh Niên. Đêm ấy, khán giả bày tỏ nhiều cách hiểu khác nhau về một câu thơ của Bùi Giáng. Có người cho rằng Bùi Giáng khóc người phụ nữ đã có một con (Tục ngữ Việt Nam có câu: “Gái một con trông mòn con mắt”). Nhưng theo tôi, tính cách và cá tính của Bùi Giáng như vậy, thì nên hiểu rằng ôngchỉ khóc một con mắt thôi, còn một con không khóc để nhìn đời cho vui. Có gì phải khóc lóc bi thảm quá vậy - khi mà “Như Lai rỡn từ bi, Jésus Christ rỡn bác ái, Sophocle rỡn trang nhã, thâm trầm kỳ tuyệt, Kim Dung rỡn bất tuyệt v.v...”.  Còn Bùi Giáng? “Khi viết văn tôi thường đùa rỡn pha trò cũng là trong ý đó. Ý riêng vốn không ưa vui cười mà buộc lòng phải viết văn cười vui nghịch để phù hợp với tinh thần suy tư Tồn thể học” (Bùi Giáng - Tư tưởng hiện đại). Vậy đó, với Bùi Giáng, cứ tưởng tất cả là bông phèng, nghịch ngợm, bông đùa nhưng chính nó đã đặt ra bao nhiêu vấn đề nghiêm túc trong thi ca và đời sống.

Có thể nói, chẳng ai có thể hiểu trọn vẹn về Bùi Giáng. Đa số cho ông là một nhà thơ điên. Trong tập tiểu luận Ngày tháng ngao du (NXB An Tiêm- 1971), Bùi Giáng viết: “Nó điên? Nhưng điên một cách vui vẻ. Bạ đâu gọi đó là mẫu thân bát ngát của con. Có kẻ bảo rằng nó giả vờ điên, thì trước hết phải đặt câu hỏi: Sao gọi là điên? Nhưng mà? Nhưng mà đó là một câu hỏi chưa hề có lời giải đáp dưới gầm trời và suốt xưa nay vậy”. Ông không điên, ông chỉ là một tâm trạng bi đát của một con người bị hồn thơ bủa vây một cách khốc liệt. Trong lời tựa Tư tưởng hiện đại của mình, Bùi Giáng viết: “Sử dụng chi ngôn ngụ ngôn trùng ngôn phản ngữ hầu mong đạt tới cõi vô ngôn trong lời”, hoặc ông tự thú một cách rất tỉnh táo: “Tôi làm thơ chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm giông bão một lúc thì lập thời xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu, chuồn chuồn mang trên hai đôi cánh mỏng bay đi. Bay về Tử Trúc Lâm, bay về sương Hy Lạp, ghé Calvaire viếng thăm một vong hồn bát ngát, rồi quay trở về đồng ruộng làm mục tử chăn trâu”.

Có thể xem đây là một quan niệm về sáng tác rất độc đáo của Bùi Giáng?

Thiết tưởng, trong vài ngàn trang tiểu luận về thơ và thơ của Bùi Giáng, chúng ta choáng ngợp trước những tiếng nói tỉnh táo dị thường: “Chúng ta quen thói ngong ngóng chạy đuổi theo mọi thứ trào lưu chủ nghĩa, chúng ta tuyệt nhiên không còn giữ một chút tinh thể cỏn con nào để thể hội rằng lục bát Việt Nam là một cõi thi ca hoằng víễn nhất, kỳ ảo nhất của năm châu bốn biển ba sông bảy hồ” (Tạp chí Văn số ra ngày 18.5.1973). Chính vì ý thức được như vậy, bằng tài năng tót vời của mình, Bùi Giáng đã trở thành một hiện tượng ngôn ngữ trong nguồn thơ lục bát. Ít có ai sử dụng từ ngữ, vần, nhịp nhuần nhuyễn, hiện đại, dân dã mà đầy tính triết học như thế trong thể thơ lục bát như Bùi Gáng. Ông không điên. Ông chỉ là một tâm trạng tuyệt vọng nhằm nỗ lực giải quyết những vấn đề tư tưởng đặt ra trong thời đại ông:

Hãy mang tôi tới bất ngờ

Giết tôi ngẫu nhĩ trong giờ ngẫu nhiên

Không ai hiểu Bùi Giáng hơn Bùi Giáng, ông đã từng hoảng hốt kêu lên: “Chán chường thi ca mà vẫn cứ làm thơ hoài là đạo vậy”. Trong “đạo thơ”, ông là một người đã “đốn ngộ”. Mọi sự lý giải đều không đứng vững trước hai câu lục bát bất tuyệt của ông:

Ông vua kỳ vĩ thập thành

Vì vui quá độ nên thành ra điên

Đơn giản vậy thôi.Vậy mà từ tập thơ đầu tay Mưa nguồn (1962) đến nay, chưa ai có thể hiểu trọn vẹn về hiện tượng Bùi Giáng trong thi ca Việt Nam hiện đại. Tôi chỉ biết chắc chắn rằng, chưa một nhà thơ Việt Nam nào tự đặt và được thiên hạ đặt cho nhiều tên trào lộng như Bùi Giáng. Có lúc ông tự nhận là: Trung niên thi sĩ, Brigitte Giáng, Brigitte Giáng Bardot, Giáng Monroe, Đười Ươi thi sĩ hoặc Bùi Bê Bối, Bùi Bán Dùi, Bùi Bàn Dui, Bùi Tồn Lưu, Bùi Tồn Lê, v.v... Và tôi đã nghe thiên hạ gọi ông là Bùi Hiền Sĩ, Bùi Tiên Sinh, Bùi Chân Không, Bang Chủ Cái Bang, Quái Vật Linh Thiêng, Bùi Giáo Chủ, Bùi Số Dách v.v... Điều đó cho thấy ngay bản thân ông, sự tồn tại của ông cũng là một hiện tượng cà rỡn không kém.

Có thể nói, sinh thời Bùi Giáng (1926 - 7.10.1998) vẫn đi đứng giữa trần gian này một cách hồn nhiên và thong dong. Và trở thành một hiện tượng độc đáo của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhân vật văn học đặc biệt mà dấu ấn ấy thể hiện rất rõ trong thơ của ông - nhất là lục bát. Ông đã viết nhiều thể loại, về thơ có trên 10 tập thơ như Mưa nguồn, Lá hoa cồn, Ngàn thu rớt hột, Đêm ngắm trăng, Như sương…; về triết học ông viết Tư tưởng hiện đại, Thế nào là siêu thực...; về dịch thuật ông đã dịch Khung cửa hẹp (André Gide), Hoàng tử bé, Cõi người ta (Saint Exupéry)...; về khảo luận ông đã viết Nhận xét về Truyện Kiều, Bà Huyện Thanh Quan, Lục Vân Tiên, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu v.v…

Mỗi lần gặp ông, bất chợt trong tâm tưởng tôi lại liên tưởng đến vài lời trong ca khúc Trịnh Công Sơn “Hãy cứ vui chơi mọi ngày, dù chiều nay không ai qua đây hỏi thăm tôi một lời... Dù ta như con đường dài vắng người”. Dù không hề tự ý thức như vậy, nhưng Bùi Giáng vẫn cứ rong chơi. Rong chơi một ngày. Một đời...

Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu

Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa

Gọi tên rằng một hai ba

Đếm là diệu tưởng,  đo là nghi tâm

(Ngày tháng ngao du)

Ta hãy nói đến đến những mối tình của Bùi Giáng. Dù không dễ dàng. Bởi lẽ, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng phát biểu chính xác: “Ở cõi đời này, anh đã đến, đã sống và đã rơi vào một cơn hôn mê bất tận. Anh nói cười bằng một thứ ngôn ngữ xa lạ với thế gian và từ đó sinh ra ngộ nhận. Ngộ nhận gây nên đớn đau và cũng từ phía đớn đau ấy anh như kẻ đắm tàu mang đi cùng mình một nỗi tuyệt vọng bất khả tư nghì”.

Nhưng đó là chuyện sau này, chứ thời trai trẻ Bùi Giáng đã có lúc chưa chìm vào cơn hôn mê, ông tỉnh táo và cũng yêu và... cưới vợ. Em trai Bùi Giáng là ông Bùi Công Luân có kể lại: “Con đường tỉnh lộ, nối liền quốc lộ 1 và mỏ than Nông Sơn, đi qua làng tôi ở cây số 15 - làng Thanh Châu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Quãng năm 1945, khi tôi lên 6 thì anh Bùi Giáng lập gia đình, anh cỡ 19 - tất nhiên tôi còn quá nhỏ để có thể ghi nhớ được thật chắc chắn về ngày cưới; ngoài hình ảnh là những cô gái lạ áo quần màu sắc, môi son má phấn, và nhất là những đôi guốc gót cao. Sau ngày cưới anh Giáng dọn ra riêng. Bỏ xóm làng, anh đi thật xa về hướng Tây, tận vùng núi rừng. Anh đi về Trung Phước - ba mẹ tôi có một ít ruộng đất, vườn tược tại đây”. Có lẽ, đây là những ngày tháng êm đềm ít ỏi mà Bùi Giáng đã có được. Nhưng rồi, cô vợ mới cưới đã không chịu được tính nết của một người mà sau này đã viết được những dòng thơ bát ngát:

Hoàng hoa em trở lại nhà

Bến sông cố quận tên là Ngã Năm

Yên hoa nhị nguyệt đau ngầm

Trúc mai trùng cửu âm thầm trùng lai

Hoàng hoa em ở lâu dài

Mừng xuân tao ngộ trên ngày phù du

Biển dâu lớp lớp trầm phù

Hình dung máu lệ sương mù sử xanh

Em trai Bùi Giáng đã kể lại chi tiết khá thú vị: “Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau ngày cưới, người vợ trẻ phải lặn lội từ cái thung lũng ngoạn mục nhất đó, xuôi sông Thu Bồn êm đềm với ngàn dâu xanh ngắt, về nhà bố mẹ chồng ở Thanh Châu cách hàng mấy chục cây số. Trên chiếc ghe nhỏ, chàng trai nói với người vợ trẻ: “- Nếu em không đổi ý quay về, không bỏ qua chuyện cũ, thì tôi sẽ… nhảy ra khỏi đò!”. Khách xuôi đò tưởng người con trai đùa dọa người vợ mảnh dẻ. Để nguyên quần áo, ngay lập tức chàng “đem mình gieo xuống giữa dòng” sông Thu. Và bơi theo đò. Để rồi thả trôi theo dòng nước mấy chục cây số, tới tận bến nhà. Cô con dâu đứng bên bà mẹ chồng sụt sùi :

- Anh cho con ăn toàn khoai lang và rau luộc. Anh không cho con mua cá, mua thịt…

Cũng như những đôi lứa khác, sau đó họ lại làm lành với nhau. Những người trong gia tộc họ Bùi nhận xét, người vợ Bùi Giáng khá xinh đẹp, cởi mở, vui tính - nhưng rồi bà không ở lâu với người chồng:

Đùa với tuyết, rỡn với vân

Một mình nhớ mãi gái trần gian xa

Sương buổi sớm, nắng chiều tà

Trăm năm hồng lệ có là bao nhiêu

Năm 1948, cuộc kháng chiến chống Pháp đã bước vào giai đoạn quyết liệt, gia đình Bùi Giáng tản cư về Trung Phước. Những ngày tháng này, người vợ trẻ của ông bị bệnh nặng và đột ngột qua đời. Từ đó, Bùi Giáng sống một mình, một cõi, làm thơ, viết văn như một người mộng du qua trần gian này.

Có điều, Bùi Giáng vẫn tiếp tục yêu. Ông yêu thâm trầm, tinh quái, bỡn cợt nhưng không kém dữ dội. Ngay ở trang đầu của tập thơ đầu tay Mưa nguồn ông đã trân trọng viết: “Tặng ba người con gái chiêm bao ở bờ cỏ Phi Châu” rồi yêu cả những trang quốc sắc nổi tiếng như Sophia Loren, Brigitte Bardot, Marilyn Monroe… Hầu hết những ngôi sao màn bạc này đều được ông làm thơ tặng!

Bàn chân rớt xuống con đường

Té ra nương tử là nường Lyn Rô

Thậm chí cả Cléopâtre cũng nằm trong nỗi nhớ của ông :

Biển dâu còn mất chân người

Em hoàng hậu trắng em ngồi trong sương

Em về Ai Cập yêu thương

Ra ngoài phát tiết chán chường anh hoa

Sóng ầm La Mã trào qua

Triều dâng ngập mất dấu tà xiêm xanh

Anh về nhớ suốt năm canh

Nhưng có lẽ người mà ông nhớ nhất vẫn là “cô em mọi nhỏ”, trong thơ ông từng gọi lên nhiều lần rất đằm thắm, âu yếm:

Làm sao nói được tình yêu

Từ em mọi nhỏ diễm kiều kim cương

Người đi lạc phố lầm phường

Kẻ về bối rối nghìn phương mây trời

Trong những người yêu ấy, không rõ có ai “hồi âm” lại cho ông không? Riêng nữ nghệ sĩ Kim Cương được ông gọi là “Thánh nữ thiên tài” và làm nhiều thơ ca ngợi nhan sắc. Nghệ sĩ Kim Cương có kể lại rằng, những câu thơ:

- “Làm thơ tiếp tục yêu em

Ồ Kim Cương ạ êm đềm vô song

Kể từ lịch kiếp long đong

Anh điêu tàn tới thong dong bây giờ

Đó là một trong vô số thơ Bùi Giáng đã làm cho tôi. Quả thực chưa một người nào yêu tôi và thủy chung với mối tình của mình đến thế. Cách đây bốn mươi năm, tôi được giới thiệu với một người là giáo sư ở Đức về (?): Bùi Giáng. Ông thẳng thắng đặt vấn đề muốn tiến tới hôn nhân. Tôi từ chối. Bùi Giáng nói xin cho một người cháu thay thế ông. Ông khoe cháu ông thông minh và học giỏi, hỏi tôi có bằng lòng chờ đợi cháu ông học xong không? Tôi nói phải cho tôi gặp mặt rồi mới quyết định ưng hay không. Sau đó, ông mang tới… một cậu bé 8 tuổi! Trong cái điên của ông tôi cũng học được nhiều chuyện”.

Vậy đó, trong cơn hôn mê bất tận Bùi Giáng đã yêu:

Niềm vui bất tận cứ tuôn

Xuân xanh bát ngát mười phương phập phồng

Và cho dù không được ai yêu lại, nhưng các giai nhân ấy đều kính phục và ngưỡng mộ tài năng của ông.

Nay, để khách quan hơn, không phải là người Quảng Nam đánh giá về Bùi Giáng theo cảm tính, ta hãy lấy sự nhận định, tạm gọi “chính thống” khi mà tên tuổi của ông đã được đưa vào Từ điển văn học bộ mới (NXB Thế giới - 2004):

“Thơ Bùi Giáng, ngay từ thuở đầu đã rong chơi lãng mạn, tinh nghịch, nhẹ nhàng, hóm hỉnh, luôn luôn là những lời vấn đáp lẩn thẩn về ý nghĩa cuộc đời, về lẽ sinh tồn, về những chuyện phù du, dâu bể, ẩn khuất khía cạnh dục tình khép mở Xuân Hương. Bùi Giáng tái dụng lục bát trong bối cảnh mới của thời đại hiện sinh. Nguồn thơ của ông “phát tiết” trong khoảng thời gian ngắn, chỉ hai năm 1962 - 63 có tới 6 tập thơ Mưa nguồn, Lá hoa cồn, Ngàn thu rớt hột, Hoa trên ngàn, Bài ca quần đảo, Sa mạc trường ca. Từ 1964 trở đi, ngoài dịch thuật, Bùi Giáng hầu như chỉ viết tiểu luận, tạp văn... loại sách tuy bàn về tư tưởng nhưng có xen lẫn thơ, thơ của Bùi Giáng và của những người khác. Huyền thoại Bùi Giáng hạ bút thành thơ, thập niên 60, được xác định như một hiện tượng văn học độc đáo, cần thơ là viết ngay tại chỗ. Những hình tượng như “phố thị”, “cố quận”, “đười ươi” được Bùi Giáng phát triển thành những thực thể lang thang, mù khơi trong cõi thơ hiện sinh, đoạn trường và định mệnh. Bản chất đa mang nỗi hiện sinh hoang tưởng, như một “đạo khờ” gắn bó với “đoạn trường tái tân thanh” (chữ của Bùi Giáng), tiếp nhận Nguyễn Du như một tri mệnh văn học. Bùi Giáng tái dựng lục bát thời mới. Thân phận dâu bể của con người, nỗi hoài nghi về số kiếp, ta từ đâu lại? Ta là ai? Những trầm luân biến đổi làm sao đo, đếm, đặt tên được? Đến bản thân ta, ta còn chẳng biết nữa là?... Tính chất “bất khả tri” trong triết lý Đông phương và triết học hiện sinh gặp nhau trong thơ Bùi Giáng: Nếu trường phái hiện sinh vô thần (Sartre) bác bỏ tính chất định mệnh, thì ở Bùi Giáng định mệnh (Kiều) và hiện sinh giao hưởng với nhau thành một cấu trúc tư tưởng mới, tạo nên những vần thơ đậm dấu Đạm Tiên, hắt ra những hình ảnh siêu thực.

Từ Nguyễn Du, Bùi Giáng tạo nên một môtíp định mệnh hiện đại, có sắc màu siêu thực qua tính cách tạo hình, có chất hoang mang của con người bất khả tri về mình, về người khác, trong cuộc sinh tồn hiện hữu. Bi kịch của Bùi Giáng là ông lặp lại chính mình, ngay cả trong thơ, cho nên những hình ảnh đẹp, những tư tưởng tân kỳ, nhiều khi được sử dụng nhiều lần trở nên sáo và vô nghĩa. Dù sao chăng nữa, Bùi Giáng đã tạo được một mẫu ngông thời đại, sáng tạo một kiểu say xưa, chán đời của thế kỷ XX, khác với Nguyễn Khuyến trong thế kỷ XIX hoặc Tản Đà đầu thế kỷ XX” (T. Khuê - SĐD, từ trang 163).

Sau khi Bùi Giáng mất, người ta còn phát hiện thuở sinh thời ông có vẽ khá nhiều tranh; các di cảo của thơ của ông vẫn tiếp tục in lai rai. Khi người ta không còn trên cõi trần nữa, nhưng tác phẩm của họ vẫn đồng hành cùng thế hệ đương thời thì trong ý nghĩa tích cực nhất của đời sống này họ vẫn sống. Sống là để lại giá trị tinh thần của mình sau khi đã trở về cát bụi. Như thế, họ đã vượt qua được quy luật khắc nghiệt nhất của cái chết. Bùi Giáng là một trong nhiều, rất nhiều con người như thế. Tập thơ đầu tay Mưa nguồn in năm 1962, mãi sau ba mươi năm được tái bản, Bùi Giáng phóng bút:

Xa nhau mấy chục năm tròn

Tưởng rằng đã chết mỏi mòn đâu đâu

Té ra xa cách bao lâu

Em còn như vẫn mộng đầu đầu tiên

 

L.M.Q

(nguồn: Ban Tổ chức cung cấp)


Nghe lại Đối thoại

 

SGTT.VN -  Thi sĩ Bùi Giáng tạ thế lúc 14 giờ ngày 7.10.1998 (nhằm ngày 17.8 Mậu Dần), hưởng thọ 73 tuổi. Cho đến nay, thi sĩ lạ lùng này vẫn còn gây nhiều tranh cãi quanh thân thế và tác phẩm. Không chỉ di cảo, nhiều tác phẩm của Bùi Giáng vẫn chưa được phát lộ đầy đủ với công chúng.

Năm 1965, năm văn nghệ sĩ, trí thức ở miền Nam viết năm lá thư bằng ngoại ngữ gửi năm trí thức nổi tiếng phương Tây là Martin Luther King, Jean Paul Sartre, André Malraux, René Char, Henry Miller để kêu gọi cho hoà bình ở Việt Nam. Bùi Giáng viết Lời phi lộ nổi tiếng bằng tiếng Pháp cho tập Đối thoại (Dialogue) này. Báo Sài Gòn Tiếp Thị xin trích đăng lại bản do Bùi Giáng tự dịch sang tiếng Việt do ông Bùi Hộ (bào huynh của Bùi Giáng) ấn hành tại Canada năm 2000, như một lời tưởng nhớ.

 

buigiang

Thi sĩ Bùi Giáng thuở đôi mươi. Ảnh: tư liệu gia đình


Một cuộc đối thoại bao giờ cũng phơi mở, dễ trở thành một cuộc độc thoại. Mà một cuộc độc thoại lại có thể tràn trề sức sản sinh, nếu là cuộc độc thoại trong – mờ, qua đó xuyên một “ánh đêm”. Bản chất của độc thoại là ở chỗ Hiện Tồn tự phân thân: hai vũ trụ soi mình trong một thế giới, một thế giới chia thành hai được ngăn cách bởi một hố thẳm. Và bản chất của hố thẳm là ở chỗ nó có thể vượt qua bằng một cuộc nhảy. Và bản chất của cuộc nhảy lại là sự chấp nhận rủi ro.

Nói khác đi, chấp nhận rủi ro là bản chất của chính cuộc sống vậy. Sống, tức là đánh liều. Mà đằng nào đã “một liều ba bảy cũng liều”, thì cớ sao không chọn cuộc liều trong – mờ?

Chọn lựa ư? Chúng ta là kẻ chọn lựa cuộc liều ư? Hay là cuộc liều đến với chúng ta trước và chính nó chọn chúng ta?

Thế nhưng cuộc liều trong – mờ là như thế nào? Người ta quả có thể nói đến “tính mờ mờ tỏ tỏ” của một cuộc liều ư? Có lẽ không, nếu là một cuộc liều chính trị hay quân sự. Có thể là có, nếu là cuộc liều ngôn từ, khi lên tiếng nói tức chấp nhận dấn thân, và tiếng nói lên là cuốn vào cơn lốc.

Đùng đùng gió giục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay
(Nguyễn Du)

Vút đi như tên bắn, cỗ xe mang trong mình mọi chứng tích huyền thoại – mà quỷ sứ hay thiên thần nào có ai hay… Hãy dõi theo. Ta thấy gì?
Trong bóng xe qua, cõi người ta bỗng hiện nguyên hình thành Thế Giới. Đó chính là cái “thế giới bản lai diện mục” vốn đã đặt dấu ấn mang tính cách bản chất lên sinh tồn của chúng ta.

Cái thế giới đã một lần lắc mình biến thành “cõi hồng trần” khá quyến rũ. Nhưng rồi cái thế giới bụi hồng này đã không ngừng trượt dốc, mang nguy cơ trở thành thế giới tro đen, tức là một “phi – thế giới” thuần tuý và đơn giản. Đó chính là mối hiểm nguy gay cấn nhất biến hiện hữu của cuộc nhân sinh trên Trái đất thành vô – hiện hữu trên cái hành tinh đang phiêu bồng.

Hỡi Phương Tây! Có phần lỗi nào của Người trong đó không? Chắc chắn là không? Dường như là một chuyện nào khác kia… Vậy là cái gì? Chúng ta hãy để ngỏ Vấn đề.

Ngôi nhà của hiện tồn không còn nữa. Kẻ chăn dắt hiện tồn, người lính gác của hư vô đã bỏ chúng ta. Ngôn từ của chúng ta thành ra ấp úng. Cái Nếp Gấp trong – mờ đã không được vén lên, thì sức mấy mà nói đến bản chất của đối thoại?

Chúng ta đã mất hết, và nỗi gụi gần bí ẩn của sự vô ngôn bất khả tư nghị cùng niềm thân thiết riêng tư của sự cách xa sẽ còn mãi trở trăn với tái xuất giang hồ trong tâm hồn cuộc liều của một Cuộc Cờ Lớn… chúng ta đã mất hết. Thử hỏi có còn lại gì để mất không? Trong nỗi vô vọng cực cùng khi sự phi lý đè nặng lên mình, chúng ta có gì để được?

“Đâu có hiểm nguy, đấy có giải thoát”.

Trong quay lộn của muôn vàn hiện hữu, Chân Lý của Hiện Tồn rúng động và đột ngột mở phơi: giữa một vùng sáng huyền diệu, đối mặt cùng nhân quần, Hồn Á vĩnh cửu bừng tỉnh trong tất cả vẻ rạng rỡ của mình.

Liệu chúng ta có thức nhận được hết mức trầm trọng của sự tình? Đâu là lời kêu gọi vô ngôn cộng hưởng từ đầu này tới cuối kia mặt địa cầu – lời gọi kêu đã hơn một lần khuấy động nơi sâu xa nhất của tâm hồn ta, để rồi câm nín?

Hỡi những người anh em phương xa! Chính là từ một vấn nạn như thế đã quyết trỗi các trang mỏng manh này – mà dám là định mệnh lắm – đánh liều thân kiếp nhỏ nhoi của chúng qua ngàn trùng sóng vỗ, để đến trước Các Bạn, mở ra…

Bùi Giáng

(nguồn: http://sgtt.vn/Van-hoa/183083/Nghe-lai-emDoi-thoaiem.html)


Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com