“Yên Bái - Đây là cái từ nhắc nhở ta rằng không thể bịt miệng một dân tộc mà người ta không thể khuất phục bằng lưỡi kiếm của đao phủ…”. Dưới ánh đèn điện mờ tại khu học xá của sinh viên Việt Nam tại Toulouse, nhiều sinh viên đã chuyền tay nhau bài thơ của nhà thơ cộng sản Louis Aragon. Sự kiện khởi nghĩa Yên Bái đã vọng sang đến nước Pháp. Thực dân Pháp điên cuồng ra lệnh xử tử những thủ lĩnh anh hùng Nguyễn Thái Học, Ký Con… Lập tức, Đảng Cộng sản Pháp hô hào quần chúng phản đối.
Trần Văn Giàu trong hồ sơ mật thám Pháp lúc bị tù ở Côn Đảo năm 1935, số tù 568
Từ Toulouse, sinh viên Trần Văn Giàu cùng nhiều người khác được cử lên Paris tham gia cuộc biểu tình ngay trước dinh Tổng thống Pháp. Sau sự kiện chấn động này, tháng 6.1930 sinh viên Trần Văn Giàu cùng 18 người khác bị trục xuất về nước. Có thể ghi nhận đây là bước đường tham gia cách mạng đầu tiên của một chàng trai mới hai mười xuân xanh, về sau sẽ trở thành một lãnh tụ chính tri, một nhà sử học, một nhà giáo lừng danh của nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam.
Năm 1928, trước ngày lên tàu thủy Cap Saint Jacques sang Pháp, cha mẹ ông Giàu buộc con mình phải làm đám hỏi. Sở sĩ phải như thế, vì ông bà sợ con trai mình sang kinh thành hoa lệ sẽ “phải lòng” một bà đầm nào đó. Người se duyên kết tóc cùng ông Giàu là cô Đỗ Thị Đạo. Từ đây người phụ nữ rất mực thủy chung này chung sống với ông Giàu cho đến lúc cuối đời, dù cả hai không có con nhưng họ lại có rất nhiều con, đó là các lớp sinh viên học sinh mà ông Giàu đã đào tạo họ nên người.
Đêm ấy, dưới ánh trăng sáng ngời tại xã An Lục Long, huyện Châu Thành, Tân An (nay Long An), cầm lấy tay người bạn đời, ông Giàu không nói gì chỉ lặng lẽ trao tập thơ Lục Vân Tiên như một lời thề nguyền trăm năm chung sống đến răng long bạc tóc. Lật trang sách đến câu: “Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình”, cô Đạo ứa nước mắt và biết rằng lời thề nguyền này sẽ mãi mãi đi trọn hai cuộc đời đã hòa chung thành một và chính họ sẽ cùng gánh vác những bão táp, sóng gió của thời cuộc sẽ ập đến.
Trở về nước sau sau vụ biểu tình, bấy giờ Trần Văn Giàu đã là đảng viên Đảng Cộng Pháp, ông xin đi dạy tại trường tư thục trung học Huỳnh Công Pháp (Q.1, Sài Gòn) do ông Hoàng Minh Giám làm hiệu trưởng. Ngày tháng lặng lẽ này không thể dung nạp một tâm hồn đang có nhiều khát vọng dữ dội. Năm 1931, ông Giàu ngỏ ý với Xứ ủy Nam kỳ là ông Ung Văn Khiêm cho mình được sang Nga du học. Được sự đồng ý của tổ chức, ông bí mật xuất dương. Sang đến Pháp, ông Nguyễn Văn Tạo - ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp giúp đưa sang Nga. Tại đây, ông Giàu theo học trường Đại học Phương Đông và tốt nghiệp xuất sắc với luận án Vấn đề ruộng đất ở Đông Dương. Có thể nói tư duy nghiên cứu với một tinh thần khoa học nghiêm túc ở ông Giàu đã lóe sáng ở thời điểm này. Nói như thế, vì không một ai có thể ngờ rằng, trong suốt cuộc đời từng vào nếm cơm tù Khám Lớn đến đại ngục trần gian Côn Đảo, nhưng ông Giàu đã để lại một tài sản văn hóa rất đồ sộ.
Đầu năm 1933, ông Giàu bí mật trở về Sài Gòn trên chiếc tàu Félix Roussel. Với một người tầm thường khác, có thể chọn lấy một công việc bình yên để êm ấm dưới mái gia đình, nhưng ông Giàu lại không. Ông bắt liên lạc được với Xứ ủy Nam kỳ qua ông Trương Văn Bang, chồng của bà Nguyễn Thị Một để tiếp tục dấn thân. Cuối năm đó, ông Giàu bị bắt tại Bà Hom (Bình Trị Đông) nhưng do không đủ chứng cứ, chúng chỉ kết án 5 năm tù treo. Tất nhiên, những hoạt động sôi nổi của ông như thực hiện tờ báo Cờ đỏ, tủ sách Cộng sản tùng thư đã bị thực dân Pháp theo dõi ráo riết. Tháng 4.1935, ông lại bị bắt, kết án 5 năm tù và đày đi Côn Đảo.
Thời điểm này, Mặt trận Bình dân lên nắm quyền tại Pháp, nhờ vậy, một số tù chính trị tại Đông Dương được ân xá trước thời hạn, nhưng ông Giàu lại không. Mãi đến tháng 5.1940, mãn hạn tù, ông Giàu mới được về đất liền. Lúc ấy, ông nghĩ rằng, sẽ tranh thủ thời gian về Long An thăm vợ, nhưng không, chỉ 9 ngày sau ông lại bị bắt. Lần này, chúng đưa ông giam tại Tà Lài. Song sắt nhà tù dù có kiên cố đến đâu cũng không thể giam cầm được khí phách của một người cộng sản chân chính. Chính ông Giàu đã cùng đồng chí cốt tử của mình là Tô Ký, Dương Quang Đông… đã tổ chức vượt ngục.
Có một điều ít ai ngờ là ngay lúc đào thoát, ông Giàu còn viết lá thư gửi cho chúa ngục: “Chúng tôi ra đi vì mục đích giải phóng dân tộc chúng tôi, giành lại độc lập dân tộc tự do cho dất nước chúng tôi…”. Trong thư ông còn so sánh việc làm của mình cũng tựa như bất kỳ một người Pháp yêu nước nào cũng phải làm như thế khi chống lại sự chiếm đóng của Hitler. Hành động rõ ràng, minh bạch này ít nhiều phản ánh đúng tâm thế “Lục Vân Tiên” ở ông Giàu - người con ưu tú của Nam bộ.
Về đến Sài Gòn trong thời điểm tình hình chính trị đang có nhiều biến động dữ dội, tháng 10.1943, ông Giàu được cử làm Bí thư Xứ ủy Nam kỳ. Khi Nhật lật Pháp, để thu hút các lực lượng chính trị, chúng hà hơi tiếp sức cho ra đời các tổ chức thân Nhật và kêu gọi mọi người cùng hợp tác với chúng. Vào cuối tháng 3.1945, Iđa - Quyền Tổng trưởng Thanh niên - thể thao Đông Dương đã tìm gặp bác sĩ Phạm Ngọc Thạch. Y ngỏ ý mời ông đứng ra thành lập tổ chức dành cho thanh niên Sài Gòn, tùy ông đặt tên gọi, cũng như nêu lên tôn chỉ mục đích và nội dung hoạt động.
Nhận được tin này ông Giàu cùng Xứ ủy Nam kỳ chủ trương “tương kế tựu kế”: giao Phạm Ngọc Thạch cùng trí thức và sinh viên yêu nước đứng ra tổ chức thanh niên một cách công khai, hợp pháp nhằm thu hút đông đảo lực lượng quần chúng đứng về phía cách mạng. Thanh niên Tiền phong ra đời là một sáng kiến táo bạo về chủ trương của ông Giàu, chính lực lượng này sẽ góp phần quyết định giành chính quyền thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8.1945 của Trung ương.
Lịch sử không bao giờ còn lặp lại một sự kiện hết sức lạ lùng: Ngày 2.9.1945, nhân dân cả nước tề tựu lắng nghe Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh phát ra từ hà Nội, nhưng lúc ấy tại Sài Gòn đã đúng giờ như không ai nghe được (về sau mới biết là đài Hà Nội bị phá, không phát sóng được). Ngay lập tức, anh em Xứ ủy và Ủy ban Hành chánh đã cử ông Giàu - với cương vị Chủ tịch Uûy ban Hành chánh lâm thời Nam bộ - bước lên lễ đài tuyên bố độc lập. Bản “tuyên ngôn” ứng khẩu của ông đã được các nhà báo tốc ký và ngày hôm sau đăng trên báo chí Sài Gòn. Sự kiện này đã được nhà báo kỳ cựu Trần Tấn Quốc ghi rõ trong tập sách Saigon septembre 45 và Hội thảo của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam sau này cũng đã xác nhận.
Thời điểm này, Pháp quay lại tái chiếm Nam bộ, ông Giàu được lệnh ra chiến khu Việt Bắc. Trong hồi ký của mình, ông Giàu cho biết tâm trạng của mình lúc ấy: “Nay lại xa nhà nữa, biết chừng nào mới sum họp được? Chưa hết chiến tranh thì làm sao có sự sum họp mong đợi? Mà chiến tranh còn kéo dài tới bao lâu? Ai biết? Bổn phận làm trai, làm dân tôi làm được; giỏi dở tùy đồng bào và lịch sử phán cho, không gì phải suy tư cho lắm, ít nhất cho tới nay. Còn bổn phận làm con, làm chồng thì tôi hoàn toàn không làm được gì (Xưa & nay số tháng 11.2010). Ra Bắc, ông được cử làm Tồng Giám đốc Nha Thông tin, ít lâu sau do nguyện vọng của mình, ông được chuyển sang làm công tác giáo dục. Ông Giàu nhớ lại: “Vậy là từ năm 1951, tôi thực sự là Nhà giáo, đánh dấu bước ngoặt thứ ba của đời tôi: lần này từ một cán bộ chính trị chuyển hẳn sang làm thầy giáo thật sự, làm Giáo sư đại học”.
Để thực hiện Thư mục Trần Văn Giàu, năm 1996 Trung tâm nghiên cứu Việt Nam - Đông Nam Á (Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam) đã thống kê, phân loại tác phẩm của GS Trần Văn Giàu thành 5 mục: Lịch sử; Văn học; Triết học tư tưởng; Văn hóa xã hội; và các tác phẩm về văn hóa, lịch sử. Chỉ cần nhìn bảng thống kê 20 trang “gạch đầu dòng” liệt kê tác phẩm thì hẳn mọi người đã choáng ngợp trước sức lao động bền bĩ của một bộ óc uyên thâm, siêu việt. Chính bộ óc thông tuệ của thời đại này là GS Vũ Khiêu đã phải thốt lên kinh ngạc: “Chỉ nói riêng về hoạt động sáng tạo của một trí thức Việt Nam trong lãnh vực khoa học và xã hội và nhân văn, rất ít người có thể so sánh được với GS Trần Văn Giàu”; và “Người ta thường nói về hiện tượng văn, triết, sử bất phân trong di sản trí tuệ Việt Nam và ở nhiều nước phương Đông. Người ta thấy rõ điều này qua các tác phẩm của GS Trần Văn Giàu. Các tác phẩm về sử học của GS đều có sự hấp dẫn của văn và chiều sâu của triết. Ở GS trong văn có triết và trong triết có văn. Cả hai đều được lý giải vững vàng, gắn liền với sự chứng minh của sử học”.
Không ai khác, chính GS Trần Văn Giàu là người đã viết những bộ sách mẫu mực như Chống xăm lăng, Lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam, Lịch sử cận đại Việt Nam, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám… Những công trình này đã được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh. Trong sự nghiệp trồng người, ông cũng là người đào tạo nhiều nhà sử học, nhiều nhà giáo Việt Nam tầm cỡ như Trần Quốc Vượng, Phan Huy Lê, Bùi Khánh Thế, Bùi Hữu Khánh… Về cuối đời, bằng tài sản riêng của mình, Giải thưởng Trần văn Giàu được thành lập như một lời kêu gọi trí thức Việt Nam hãy cống hiến nhiều hơn nữa cho nền học thuật của nước nhà.
Vĩnh biệt nhà cách mạng lão thành Trần Văn Giàu là chúng ta tự hào về một Con Người từng sống trong xích xiềng nô lệ đã đem nhiệt huyết của mình để viết lên những trang sử mới của một nhà nước độc lập. Không chỉ là nhân chứng mà ông Giàu còn là người tạo dựng nên một khoảnh khắc của lịch sử.
Sinh thời lúc GS Trần Văn Giàu thượng thọ 85 xuân, nhà thơ Viễn Phương đã chúc mừng:
Sóng gầm biển lớn trai thành ngọc
Sấm động non cao gỗ hóa trầm
Xin mượn hai câu thơ này như một nén nhang kính viếng bậc hiền nhân của thời đại chúng ta đang sống.
LÊ MINH QUỐC
(nguồn: http://phunuonline.com.vn/giai-tri//song-dong-non-cao-go-hoa-tram-nbsp-/a2069.html)
< Lùi | Tiếp theo > |
---|