LÊ MINH QUỐC: Nhật ký 11.11.2015



honi-huong-1-R-1967

 

Vừa rồi trên Tuổi Trẻ Online (07/11/2015 21:47), bạn đọc Đ.T cho biết đã căn cứ từ Tạp chí Chọn Lọc in 1965 “Xin tạm nêu ra vài từ” về tiếng lóng. Nếu chu đáo hơn phải cho biết cụ thể số báo, năm tháng phát hành số báo đó. Những từ đó một thời thịnh hành tại Sài Gòn, nay hầu như “tiệt chủng”. Thiết nghĩ, việc làm này rất đáng hoan nghênh. Ít nhiều cho biết lời ăn tiếng nói của một thời. Tiếng lóng không tồn tại mãi mãi, nó sẽ mất theo năm tháng. Cùng một sự việc, sự vật nhưng mỗi thời có cách diễn đạt khác nhau. Theo định nghĩa của Từ điển tiếng Việt do Viện Ngôn ngữ biên soạn (NXB KHXH 1986), tiếng lóng: “Cách nói một ngôn ngữ riêng trong một tầng lớp hoặc một nhóm người nào đó, nhằm chỉ để cho trong nội bộ hiểu được với nhau mà thôi”.

Bài viết Người Sài Gòn giờ không thấy xài mấy tiếng lóng này nữa của bạn Đ.T, có đoạn như sau:

“Dầu cù là: bản thân dầu cù là không thể là tiếng lóng, nhưng ở đây có nghĩa là “Đảng Cần Lao”. Từ này xuất hiện cuối thập niên 1950, đầu 1960. Đó là khoảng thời gian cầm quyền ở miền Nam của chánh quyền Ngô Đình Diệm. Giới viên chức thường hỏi nhau: “Ê, ông có bôi dầu cù là không?”, là có ý hỏi: “Ông có chân trong đảng Cần Lao không?”. Có “bôi dầu cù là” thì thế nào cũng được nâng đỡ về mọi mặt vì Đảng đó do chính quyền Diệm -Nhu lập ra.

Tây hạ thành: mỉa mai những cái gì cổ lổ, cũ kỹ quá xá. Chẳng hạn như có người mặc cái áo cũ mèm, người ta bảo: “Cái áo đó có từ hồi Tây hạ thành”, tức là có từ cả trăm năm, từ khi người Pháp đánh thành Hà Nội. Không chỉ nói về những món đồ, từ này còn nói về khái niệm phi vật thể, kiểu như ông nào đọc diễn văn dùng nhiều từ cổ quá lủng củng và có khi biền ngẫu thì bị gọi là dùng ngôn ngữ “Tây hạ thành”. Từ này na ná như từ hiện nay cũng còn một số người xài: thời Bảo Đại ở truồng.

Con cháu nhà Hán: Trong cuốn “Hán Sở tranh hùng” có chuyện vua Hán Cao Tổ vốn họ Lưu, sau này phá tan được nhà Tần lên làm vua lập nên nhà Hán. Vì vua nhà Hán họ Lưu nên người ta dùng chữ “con cháu nhà Hán”  để chỉ những người có tánh “lưu... manh” khó chơi.

Phỗng: Khi đánh bài tổ tôm, khi ta đánh ra hai quân bài giống nhau, người khác đánh ra một quân giống hệt, ta có quyền “phỗng”. Đáng lẽ quân bài đó người ngồi mé trên ta có thể ăn để ghép vào cỗ bài của họ nhưng ta có đôi sẵn trong tay, ta có quyền kéo quân bài đó về phía mình, đó là ”phỗng”. Người ở mé trên mình bị nâng mất quân bài đáng lẽ mình được, tức là bị phỗng tay trên. Từ này người gốc Bắc nói nhiều hơn.

Khổng tử viết: Thập niên 1950, 1960 cả nước mới thoát ra khỏi chế độ phong kiến chỉ năm mười năm, nền nho học đã tàn lụi trước đó xa hơn chút nhưng vẫn còn kha khá những người theo nho học, nệ cổ. Có anh đạo đức dù không tới nơi nhưng lúc nào cũng làm ra vẻ nhà nho đạo mạo nghiêm cẩn. “Khổng tử viết” tức là “Đức Khổng tử có nói”, trong các sách Tứ thư, ngũ kinh, các danh sĩ Trung Hoa xưa mỗi khi muốn dạy ai thường lấy câu này ra để dựa cho chắc ăn. Thế là khi dân Sài Gòn ngán các anh hủ nho nói trên khi họ muốn lên lớp ai thì gọi là “Khổng tử viết”, muốn chỉ cho thấy rằng anh đọc sách nho học như con vẹt, chẳng thèm suy nghĩ gì.

Hia: Có nghĩa là cắt xén. Ai có tóc dài, râu dài thì bị nhắc phải ...hia bớt đi, phải cắt ngắn đi. Hia còn có nghĩa là ném, vứt, lại có nghĩa là khuân vác. Ví dụ như: “túm cổ, hia ra ngoài!”, hay “hia vài bao vô đây!”. Không ai biết tại sao có từ này, nhưng giới lính tráng miền Nam trước đây dùng nhiều.

Nghe lại những từ lóng này, có thể hình dung những ngữ cảnh cụ thể mà bây giờ những người trẻ không thể hình dung ra được”.

Đọc xong bài viết của Đ.T, thích lắm nên bèn tìm kiếm một vài tư liệu khác bổ sung thêm, chẳng hạn, căn cứ từ Tạp chí Hồi Hương số Xuân Đinh Mùi (1967) ấn hành tại Sài Gòn. Do tạp chí này in typo, phổ biến nội bộ nên có lẽ chẳng mấy ai còn lưu giữ, có sự cộng tác của càng cây bút nổi tiếng như Huỳnh Phan Anh, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Nhã Ca,  Minh Đức Hoài Trinh, họa sĩ Thái Tuấn, Nguyễn Trung… Thập niên 1960 ấy, tác giả bài viết là TMQ ghi nhận “Tiếng lóng mới”. Ấy thế, nay đã cũ rồi, thậm chí cũng có từ đã “tiệt chủng”, có từ có ngắc ngoải như những từ mà Đ.T vừa nêu trên.

“Xin tạm nêu ra vài từ” bổ sung thêm về tiếng lóng:

Ác, ác ôn, ác liệt, ác địa: có nghĩa là hay, số dzách, đặc biệt khác đời, hách, le… “Tao vừa mới quen được một nàng đẹp ác”.

Bay bướm: Trạng từ hay tĩnh từ có nghĩa là hay ho, ngon lành, số dách, có tính cách tài hoa. “Hai tên kia nhảy nhót bay bướm một cây”.

Chưởng lực: Lấy trong các truyện kiếm hiệp Tàu có nghĩa là tài cán, khả năng. “Chưởng lực mày còn yếu quá, sức mấy mà cạnh tranh nổi với tớ”.

Một chưởng: Một cú, một đòn, một vố cũng lấy từ truyện kiếm hiệp. “Tớ vừa bị nàng cho một chưởng còn ê cả người”.

Đi một đường lả lướt: Làm một việc hết sức bay bướm. “Hôm qua mình cố đi một đường lả lướt với em, nhưng có một tên mất dạy nó đi đường lả lướt hơn”.

Lại có một sự: Thay vì nói có chuyện gì, việc gì. “Lại có một sự ăn nhậu tối nay”.

Láng: Tùm lum, lung tung, không có trật tự. “Bữa nay đi cắm trại tớ ăn láng hết”.

Quê một cục: Quê mùa, đần độn, cù lần. “Thằng ấy quê một cục”.

Tám, chín: Cái tên dùng để chỉ bất cứ ai, như cái tên Charlie của Mỹ. “Bỏ đi Tám/ Thôi mà, Tám/ Giỡn hoài, Chín”…

Teo: Đồng nghĩa với “lúa”, “Hắn hỏi mãi làm mình teo luôn”.

Như điên: Diễn tả sự tột bực, sự hăng say. “Sài Gòn dạo này các cô phóng xe như điên”.

Ông bạn dân chủ: Chỉ các ông bạn người Mỹ. “Các ông bạn dân chủ coi bộ hiểu mình hơn so với lúc trước”.

Quái xế, vồ xế, thổi nghẽo, mõi, thổi: Có nghĩa là ăn cắp xe. “Vừa mới để xe ở đây có năm phút mà mà ông tướng nào thổi mất rồi.

Nghèo mà ham: Không hội đủ diều kiện mà muốn cho cố. Chẳng hạn, thấy một thằng hết sức cù lần chạy theo một cô hết sức lả lướt, có thể nói: “Thằng ấy, nghèo mà ham”.

Còn lâu, còn khuya, tới Tết Ma-rốc, Tết Công-gô, Tây ăn trầu: Dùng để chỉ một sự việc khó bề xẩy ra. “Còn khuya cậu mới tán được cô đó/ Bao giờ anh lên chức? - Tết Ma-rốc”.

Chết lính: Dùng để chỉ một hành động có phương hại đến nhiều người, gây hậu quả không hay cho nhiều người. “Chị làm vậy chết lính rồi còn gì, trời!”.

Ngoài ra còn có thể kể thêm vài từ nay còn sử dụng như “chém, cứa” có nghĩa là tính quá mắc tiền: “Cái quán này chém ác”; “bịnh”: tương đương với dở, yếu, kém, bậy quá. “Có những tên không giúp hội bao nhiêu mà chỉ trích cái này, cái nọ, bịnh quá”; “chịu chơi”; “chơi chịu”; “gà chết, gà nuốt dây thun”; “mừng hết lớn”; “là cái chắc” v.v…

Tất nhiên,vẫn chưa đủ.

Tham khảo nhiều bạn bè, tạm thời liệt kê thêm: "sức mấy mà buồn”; "quá cỡ thợ mộc" (hết cỡ, vượt ra ngoài khuôn khổ), “mút mùa Lệ Thủy” (chỉ thời gian xa thăm thẳm), "xưa rồi Diễm" (chuyện đó cũ xì, cũ mốc rồi), "mát trời ông Địa" (chỉ trạng thái hài lòng, hả hê sung sướng), “hết xẩy” (chắc như bắp rang, không trật vào đâu nữa), “kênh xì bo" (nhìn đểu có ý gây sự), "luyện chưởng” (đọc truyện kiếm hiệp), “đi bốn vùng chiến thuật" (đi khắp nới khắp chốn, từ đồng bằng, hải đảo đến cao nguyên), “đi vùng 5" (đi về âm phủ); . "xi cà que” (người bị tật ở chân, hàng kém chất lượng), “nâng bi” (nịnh bợ),  “xôi cồ” (ngực to), “khô mực” (cà-vạt), “lặn” (đi trốn), “địa” (bị theo dõi), “con ghệ” (con gái), “cớm” (cảnh sát) “cớm chìm” (công an), Sơ-mi gỗ (quan tài), “vãng tuồng” (kết thúc). "tận cùng bằng số" (bắt chước theo cách báo tin kết  quả sổ số kiến thiết, qua đài phát thanh; có nghĩa mọi việc, việc đó đã xong xuôi, không còn có cơ hội làm lại)…

Còn gì nữa không ta? À, còn chứ! Chẳng hạn, “thanh minh thanh nga” (giải bày chuyện oan ức), "đổng" (đồng hồ), "lấy le" (phô trương, tỏ ra là người quan trọng), “lúa rồi” (toi rồi); 'làm tàng' là ỷ mình hơn người mặt nào đó thì coi thường người khác, “hầm bà lằng, búa xua, tá lả (lộn xộn), "xế" (xe), “xế điếc” (xe đạp), “xế độ” (xe máy lên đời), xế hộp (xe hơi), “bá chấy bò chét” (hết xẩy, tuyệt), chị em ta (gái mại dâm), “bề hội đồng” (hiếp dâm tập thể), “lết bánh” (xỉn quắc cần câu), “chơi líp ba ga” (chơi tới bến, “chơi xả láng sáng về sớm”), “chơi cho đáng mặt bầu cua cá cọp” (chơi đàng hoàng, chơi ra chơi, không ba que xỏ lá), “dân chơi Cầu Ba Cẳng” (dám làm mà không dám chịu)…

Chà, còn gì nữa không ta?

Chiều rồi, tiếng chuông chùa đối diện nhà đang ngân vang câu kinh tiếng kệ. Thôi thì, vừa lắng nghe vừa viết thêm đôi dòng nữa.

“Xệ” (quê quá xá là quê), “quê xệ/ quê một cục/ quê độ”, “mát dây diện” (hâm, khùng, tàn tàn, điên điên), “chó lửa” (súng lục), “leo cây” (chờ đợi theo lời hứa nhưng người đó xù luôn, không đến), “đô" (bự con), “35 dê” (chỉ  người có máu dê xồm), "cùi" (chuyện đó không thể xẩy ra/ “Cậu mà tán được hoa hậu X thì tớ cùi”, “mới cáo cạnh/ mới cáo xèng (mới 100%), “đổng” (đồng hồ đeo tay); "xí xọn/ xí xa xí xọn”, “xì trum” (ảnh hưởng từ truyện tranh Xì trum, động từ dùng đa nghĩa cho trong nhiều trường hợp/ “Em cho anh xì trum một cái nhá? - Khỉ, xì trum nè anh! Ở đó mà đòi hun với hít, còn lâu) v.v…

Trong văn chương, nhiều nhà văn cũng sử dụng tiếng lóng, điều này giúp cho nhà văn khắc họa rõ nét được tính cách nhân vật.

Tiêu biểu nhất có lẽ là tác phẩm Bỉ vỏ của nhà văn Nguyên Hồng. Ông viết vào năm 16 tuổi, lúc vừa mới được ra khỏi tù. Do có được một vốn sống phong phú và một kho ngôn ngữ dồi dào, nhà văn Nguyên Hồng đã thành công khi xây dựng những nhân vật dưới đáy xã hội. Thử một ví dụ: “Tối nay, các tay anh chị họp đủ mặt ở nhà Năm Sài Gòn. Người mặc quần lĩnh, áo nhiễu tây trắng cổ bẻ, chân xỏ xăng-đăn bốn quai, là Tư Lập Lơ, trùm chạy vỏ trong chợ sắt”. Tại sao phải là chạy vỏ mà không là chạy dọc? Vì hai cụm từ này để chỉ kẻ cắp kia mà! Hãy nghe nhà văn nói: “Chạy vỏ để chỉ chung những ăn cắp đường, ăn cắp chợ. Còn kẻ cắp trên tàu thủy, tàu hỏa hay ô tô là chạy dọc”. Thử trưởng tượng, chúng ta loại bỏ tiếng lóng của Năm Sài Gòn, đại loại như những câu thơ mà hắn đã than thở:

Anh đây công tử không vòm
Ngày mai kện rập, biết mòm vào đâu.

Hoặc:

Không vòm, không sộp, không te
Niễng mũn không có ai mê nỗi gì?

(vòm: nhà, kện rập: hết gạo, mòm (chính là mõm): ăn, niễng mũn: một chinh). Những tiếng lóng ấy thay thế bằng tiếng phổ trông thì rõ ràng tính cách Năm Sài Gòn bị mờ nhạt đi nhiều lắm.

Nghĩ rằng tiếng lóng, mỗi thời đại đều được thay đổi. Chẳng hạn, thời Bỉ vỏ trong xã hội có mật thám và đội xếp nên mới có tiếng lóng cớm chùng và cớm tẩy. Còn bây giờ thì giới giang hồ nói: “cớm mún quả tớm” nghĩa là “công an bắt quả tang”. Xin thử liệt kê một vài tiếng lóng thời vi tính: bẻ đê (giật đồng hồ), ăn đọp (ăn cắp súng), móc mắt (ăn cắp vặt), nàng áo đỏ (xe DD), công chúa ngủ (xe Dream), lò hấp (nơi tiêu thụ xe gian), thua nguội (bị bắt ngay sau khi gây án), gà móng đỏ (gái mại dâm) v.v… Rõ ràng ngôn ngữ này chỉ “lưu hành” trong một tầng lớp, một giới nào đó mà thôi.

Tuy nhiên, vẫn có những tiếng lóng “đàng hoàng” đi vào trong thơ - chủ yếu là thơ châm biếm, trào lộng. Thời buổi này, thường nghe nói đến “cò” - nhằm chỉ những người đứng ra làm trung gian của dịch vụ nào đó đặng hưởng huê hồng, chứ không phải là loại “chim có chân cao, cổ dài, mỏ nhọn…” như Từ điển tiếng Việt đã giải thích. Xin trích một bài thơ cò - dĩ nhiên nó ở tiếng lóng:

Con cò bay lả bay la
Bay từ bàn giấy bay ra vỉa hè
Thì thầm hù dọa rủ rê
Cửa trước “Khó lắm! Khó bề xong đâu”
Cò quen lối tắt, ngõ sau
Chịu chi bảo đảm làm mau lấy tiền
Đường dây uy tín ưu tiên
Cho cò chút cháo rồi yên tâm… chờ!
Vẽ vời rắc rối giấy tờ
Quấy bùn đục nước… cốc mò cò xơi
Bao giờ hết nạn cò mồi
Cửa sau, cửa ngách rối bời… khổ dân!
(Hoàng Duy, báo Thanh niên số 24-9-1997)

Hoặc cũng là bài thơ về con cò, nhưng ở đây đã thấy một loạt tiếng lóng khác xuất hiện:

Pháp luật tôi cũng xem thường
Có ô dù lớn, có xuồng bơi to
Ví dù có gió đắm đò
Thì xuồng cứu hộ vớt cho tôi nằm
Cò tôi đích thị cò quăm!
(Trúc Lâm - báo Lao Động số 3-11-1996)

Con cò ở đây không còn mang ý nghĩa của biểu tượng ẩn dụ trong ca dao. Gần đây chúng ta thường nghe đến từ “cơm bụi’ “giá bèo” - nhằm chỉ những quán cơm bình dân giá rẻ dành cho người lao động ở thành thị. Tiếng lóng ấy, có lẽ nhà thơ Nguyễn Duy là người đem vào thơ trước nhất:

Rủ nhau cơm bụi giá bèo
Yêu nhau theo mốt nhà nghèo… vô tư!

Nhà văn là người đi nhiều nơi, nhiều chốn, đi để quan sát và ghi chép lời ăn tiếng nói của nhân dân đặng làm phong phú vốn ngôn ngữ của mình. Nhà văn Tô Hoài là một trong những người rất chịu khó ghi chép những từ ngữ mà ông nhặt nhạnh được. Trong Sổ tay viết văn (NXB Tác phẩm mới -1997), ông ghi: “Nàng ấy ô-ten-lo quá! (cô ấy nước da đen quá!), Một tê (một triệu bạc) một vé, một vên, một vét (một vạn bạc), thằng Mẽo (đế quốc Mỹ).

Chiều rồi. Tạm dừng ở đây.

L.M.Q

Chia sẻ liên kết này...

Add comment