Lương y, nhà giáo, nhà nghiên cứu Lê Hưng VKD
1/ Sân khấu trí tuệ:
Về phuơng diện y học "sân khấu" của trí tuệ gồm các định khu thuộc hai hợp phần bán cầu đại não (y học cổ truyền gọi là "phủ kỳ hằng"):
- hợp phần bán cầu não phải là thổ cư của "cái tin" (croyance)
- hợp phần bán cầu não trái là lãnh địa của "cái biết"(connaissance).
Bất kỳ mọi diễn biến tư duy nào cũng đều có sự can dự của niềm tin & hiểu biết (croyance avec connaissance) và chất luợng sự kiện vừa nêu đuợc định danh: TRÍ TUỆ (esprit).
Về phuơng diện triết học: khi trí tuệ nghiêng nhiều hơn về phần tin tuởng (tùy thuộc môi trường sống và trình độ nhận thức cá nhân), vuợt trội hơn phần hiểu biết đang có, mà hưng phấn dự cảm truớc một tiến trình sẽ đến ..... quá trình tư duy ảo biến này, gọi là TÂM LINH (prémonition). Theo sách "Nouveau petit Larousse illustré" - NXB Paris VI -1952, nguời Pháp định nghĩa thuật ngữ Tâm Linh như sau: "sensation précédant un fait et l' annocant” - cảm giác riêng như báo trước sự việc sẽ đến cho mình. Học giả Đào Duy Anh cũng giới thiệu: Tâm linh là cái trí tuệ tự có trong lòng nguời, là dự giác điều mặc giới về tuơng lai... (Hán - Việt từ điển - quyển hạ tr. 243, NXB Truờng Thi - Saigon 1957, và Pháp - Việt từ điển tr. 1362, NXB Minh Tân - 1952).
2- Phân loại hình thái tâm linh:
Trong thực tế cuộc sống đời thuờng, ngành tâm lý học đã phân lập 3 hình thái tâm linh (morphotypologie prémonitoire):
- tâm linh khoa học (prémonition scientifique)
- tâm linh tín nguỡng tôn giáo( prémonition religieuse)
- tâm linh thế tục (prémonition du culte)
* 2.1/ Tâm linh khoa học: khoa học kỹ thuật dựa trên thực nghiệm định luợng bền vững và lôgic toán học, giúp ta có đuợc "cái BIẾT khoa học" thuờng gọi là tri thức ! Còn khi ta tự thân trải nghiệm rồi trực giác những định tính dị thuờng (bất khả tri luận = chưa thể giải thích cụ thể) thì phân tâm học (psychanalyse) gọi là "cái tin siêu hình-croyance ferme et métaphysique" và đây chính là tâm linh khoa học! Năm xưa nhà khoa học ALBERT EINSTEIN đã dự cảm trước hai sản phẩm trí tuệ: thuyết tuơng đối hẹp bàn về vật chất vận động sinh ra năng luợng (1905) và thuyết tuơng đối rộng bàn về cân bằng vũ trụ (1915) .... nói chung thì tâm linh khoa học rất cần thiết cho mọi bộ môn khoa học! là cửa ngõ cho năng lực SÁNG TẠO!
* 2.2/ Tâm linh tín nguỡng tôn giáo: Trong triết học,"cái ta biết" là tri thức lý thuyết, "cái ta làm" là tri thức ứng dụng Riêng "cái ta tin" là tri thức giải thoát, mục đích hoàn thiện quá trình sống bản thân về nhân cách, đồng thời thôi thúc-động viên những ai "chưa đuợc tốt" sẽ trở thành nguời tốt ! Đây là tâm linh tôn giáo, là dòng chảy trí tuệ tinh mẫn giải phóng bản thân giảm thiểu khổ đau, huớng về điều thiện bằng cách phát huy 3 tâm thức "lòng trắc ẩn + thái độ khoan dung + kiên trì bền bỉ ", để tiến đến phát triển đuợc tình yêu thuơng nhân loại..... trong mỗi cá thể!
* 2.3/ Tâm linh thế tục: Cũng gọi là tâm linh theo phong tục - tập quán (prémonition des moeurs,des us& coutumes). Mọi hình thái tâm linh đều khởi nguồn từ trực giác (force d' intuition), nhưng khi "vốn liếng cái ta biết" không đầy đủ (tức là tri thức khoa học còn yếu kém, kiến thức nhân văn còn bấp bênh....) thì nguy cơ "cái ta tin" rất dễ sa lầy vào vùng trũng "mê tín-dị đoan" (mê tín = niềm tin mù quáng, dị đoan = tin tuởng điều lạ lùng, sách Hán - Việt từ điển của học giả Đào Duy Anh, tr. 206 & tr. 554).Tại nuớc ta, là xứ sở nông nghiệp truyền thống , tất cả sự việc - sự kiện phụ thuộc vào các biến động của khí hậu - khí tuợng phức hợp vùng châu Á nhiệt đới - gió mùa xảy ra hàng năm .... đã sản sinh ra rất nhiều lễ hội cầu xin "tha lực" (sức mạnh ở ngoài năng lực của con nguời nông nghiệp) giúp đỡ để an cư lạc nghiệp! lâu dần trở thành phong tục - tập quán mỗi vùng miền.... những tha lực ấy đuợc trí tuởng tuợng loài nguời nhân cách hóa là "thần linh"..... Một cám dỗ khó tránh là "tính vị kỷ" (bản năng sinh tồn của con người: dành ưu tiên cho lợi ích riêng mình truớc!) mà nhiều cá thể đã mưu cầu thái quá (lòng tham lam) trục lợi "thần linh" để làm giàu cho mình hoặc cho nhóm lợi ích của mình.... bất chấp qui luật phát triển của xã hội văn minh đuơng đại:
- vừa tôn trọng nhân cách tính;
- vừa tăng cuờng nhân đạo tính.
Mọi "biến tuớng" của tâm linh thế tục còn rải rác ở nơi này nơi kia...sẽ dần dần bị triệt tiêu, khi nhịp sống chung của cộng đồng đuợc nâng lên (xóa đói giảm nghèo,gíáo dục -y tế đầy đủ số luợng và chất luợng...). TÂM LINH luôn luôn là giá trị ĐẸP của biểu tuợng "thăng hoa tri thức huớng thiện" cho chúng ta khi còn sống!
LÊ HƯNG VKD
(Mùa lễ hội THANH MINH -2014)
Bừng cảm bát nhã tâm kinh
Hành thiền bát nhã ngộ chân như
Ngũ uẩn vô thuờng hẹp lối tu
Hành giả minh tâm và trực giải
Gíúp đời vuợt thoát chuyện sầu tư
***
Nguồn thiền duy thức huớng dung thông
Phật tánh muôn nơi vốn dặn lòng
Ảo ngã do tham - cầu - vọng - tuởng
Lẽ đời khi CÓ lúc là KHÔNG...
***
An trú sân thiền đọng - trữ TÂM
Xả buông danh lợi cõi thăng trầm
Như lai sự vật không thêm bớt
Kiến tánh người ơi: ẩn - lặng - thầm...
***
Lão - tử... hàm sâu nỗi xót xa
Lục căn - trần - thức.... choán hồn ta
Vô minh vô trí...vô sinh - diệt
Nguồn sáng huyền KHÔNG nó - vốn- là !
***
Tịnh độ nơi về... đuốc TUỆ cao
Xóa tan mê - vọng chốn lao xao
Chúng sanh vuợt khổ tìm an lạc
Hồi huớng bình yên mở lối vào!
***
Ba đời TRÍ-HUỆ vuợt ngăn - che
Đích thực bản nhiên rõ bến về
Chư Phật hiện tiền đang mỗi lúc!
Đỉnh thiền ưu việt xóa nguồn mê...
***
Chân tánh bờ xa bỗng hóa gần
Tiêu trừ ách nạn cứu nhân thân
Niệm trang mật ngữ lời siêu thực
Lấp lánh kỳ ngôn minh triết răn...
***
Từ- Bi - Hỉ - Xả, gốc hồn nhiên
Sắc - Tuớng vuợt qua rồi vuợt lên
Giác thức Tự Tri làm bến đậu
Ngộ KHÔNG vô luợng! Vĩnh tâm thiền...
Lê Hưng VKD
(Tiết Thanh Minh - 2014)
< Lùi | Tiếp theo > |
---|