Học giả Phan Khôi (1956)
Cứ mỗi lần nghe đến tên Phan Khôi thì trong đầu tôi lại hiện về một quá khứ không lấy gì làm vui cho lắm; hình ảnh một ông già; người cao cao, gầy yếu, nước da men mét, râu tóc bạc phơ rõ dần trong đầu tôi. Ấn tượng về cụ in đậm trong lòng tôi hơn ½ thế kỷ. Nhưng bấy giờ, tôi còn nhỏ, độ 12-13 tuổi, đang học lớp 4 tại Trường Học sinh Miền Nam, ở Hải Phòng. Cái tuổi chưa hiểu gì lắm về thế thái nhân sinh.
Người ta kể lại sự việc khi cụ Phan Khôi mất, lúc bấy giờ cả Hội nhà văn có hàng trăm người ít ai đến thắp cho cụ một nén nhang, chỉ có ba tôi - nhà thơ Yến Lan - là “người bạn thơ độc nhất đi sau linh cữu cụ Phan Khôi đến nơi an nghỉ cuối cùng ở vào giai đoạn đấu tranh gay gắt của cuộc cách mạng văn học vào năm 1959”.
Nói lại chuyện này giờ đây dễ dàng và bình thường nhưng lúc bấy giờ, khi tất cả mọi người xung quanh đều lo sợ liên lụy đến người bị xem liên quan đến Nhân văn giai phẩm thì giữ được cái tình cái nghĩa không dễ chút nào. Mỗi lần nhắc đến chuyện này, tôi lại thấy xót xa nơi con tim mình. Hình ảnh ba tôi đi sau linh cữu cụ Khôi ngày ấy chắc những người đã có tuổi vẫn còn nhớ. Thế tại sao cái đều rất bình thường ấy lại gây xôn xao trong dư luận tại Hà Nội một thời như vậy?
Ngược dòng thời gian về lại những năm của thập niên 50, thế kỷ trước. Năm 1956, gia đình tôi chuyển từ 51 Trần Hưng Đạo về 73 Phố Thuốc Bắc. Cùng chuyển về đây còn có các bác, cô, chú trong cơ quan của Hội Nhà Văn. Nhà 73 phố Thuốc Bắc có chiều dài khoảng 50 m, chiều ngang 5 m. Suốt chiều dài người ta chừa 1 m để làm lối đi chung, rồi ngăn bằng ván làm cho mỗi gia đình một gian để ở. Tầng dưới nhà có 7 gia đình, trên gác chỉ có 3. Những căn hộ ở trên gác thì rộng rãi, biệt lập, có cầu thang riêng, không chung đụng với người xung quanh - dành cho các gia đình cán bộ Hành chính. Toàn bộ các hộ đều dùng chung nhà tắm, nhà bếp, nhà vệ sinh đều nằm ở cuối nhà. Vì vậy, hàng ngày dù muốn hay không mọi người đều gặp nhau, khi thì nấu ăn, khi tắm giặt v.v…
Gia đình tôi ở phía dưới, giữa 6 gia đình khác; kề vách là gia đình cụ Khôi. Phía ngoài cụ là chân cầu thang của hộ bà Cán, đến bể nước công cộng. Căn dành cho gia đình cụ Khôi là một cái buồng khép kín, rộng chừng 9m vuông, bằng 3/4 gian nhà tôi. Có thể đây là nơi thờ cúng của chủ trước. Giữa nhà tôi và nhà cụ là một cửa sổ nhỏ, to bằng bàn cờ tướng. Tôi thường ngồi bên bể nước công cộng, cạnh cửa sổ nhà cụ để giặt giũ.
Ban đầu mới dọn về, tôi thấy ba và các chú nhà thơ hay vào phòng cụ Khôi uống trà, bàn chuyện thời sự, bình luận những bài thơ, những từ ngữ của bài thơ trên Báo. Bọn trẻ chúng tôi chạy vô chạy ra nhà cụ để chơi với các anh các chị con cụ; mọi người đều thân thiện, cởi mở. Thế rồi, dần dần tôi thấy có một điều gì đó, lung lắm. Các cô, các chú không xởi lởi như trước nữa. Trong cư xử mọi người tỏ ra dè dặt, dò xét. Nhà cụ Khôi cứ vắng dần bóng người lớn, không còn trẻ chạy ra vô nhà cụ nữa! Không khí trong ngôi nhà nặng nề, xét nét, và xa lạ. Thấy khác thường, tôi hỏi má: “Má ơi tại sao các bác, các chú không chơi với cụ Khôi nữa?” Vẻ lo lắng bà kề sát tai tôi, nói nhỏ như sợ người khác nghe được: “Ông Khôi bị coi là người cầm đầu nhóm Nhân văn giai phẩm. Con cũng đừng vào nhà cụ nữa, người ta đang theo dõi ba mình đó.”
Thật sự lúc bấy giờ tôi không hiểu Nhân văn giai phẩm là tội gì, nặng đến mức nào mà ai cũng sợ bị dính líu đến cụ Khôi như thế?! Tuy không nói ra nhưng ai cũng muốn chứng minh rằng mình không hề có quan hệ thân mật với cụ Khôi nữa. Họ tránh nhà cụ như thể nhà có dịch hạch lây lang. Với những điều nghe và thấy, tôi không biết sẽ đối xử với mấy anh chị con cụ như thế nào, không lẽ hai nhà liền nhau chung một cửa sổ, lại cùng là học sinh miền Nam; dạo nọ chơi đùa với nhau giờ lại tỏ ra chẳng hề quen biết sao mà đành đoạn! Nhưng, dường như nhà cụ hiểu được nỗi lo sợ của má tôi nên tế nhị lấy báo dán kín cửa sổ lại...
Lâu lâu tôi cũng có thấy cụ ngang qua; vẫn dáng người cao, gầy, nhưng yếu hơn trong bộ đồ Tây màu vàng nhạt. Tóc cụ rụng nhiều, còn lơ thơ vài cộng, bạc trắng, ẩn sau chiếc mũ phớt màu nâu. Trên tay cụ giờ có thêm chiếc ba-toong; nhưng bây giờ, gặp ai cụ cũng làm ngơ, mắt hướng thẳng phía trước như chưa hề biết họ! Như trước đây, tôi vẫn ngồi giặt bên bể nước, cạnh cửa sổ nhà cụ. Tôi liếc nhìn cụ qua cửa sổ. Cụ ngồi trên chiếc giường đơn, trầm ngâm, mặt buồn buồn, mắt nhìn đâu đâu vào khoảng không gian. Tôi thầm thương cụ quá chừng mà không dám thổ lộ. Càng thương hơn khi nghe cụ ngâm bằng giọng Quảng Nam:
Làm sao cũng chẳng làm sao
Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi
Làm chi cũng chẳng làm chi
Dẫu có điều gì cũng chẳng làm sao
Rồi, cái gì đến nó đã đến! Vào một ngày cuối đông năm 1959, cụ Khôi lặng lẽ ra đi!
Má tôi kể: “Nhà tập thể, linh cữu không được quàn lâu, chỉ một hôm phải đưa đi an táng. Tôi không được chứng kiến những gì xảy ra trong đám tang sáng hôm ấy, vì đang học tận Hải Phòng. Nhưng điều tôi nghe được thật thảm, thật buồn, thương cho cụ ra đi trong sự tuyệt vọng: Chở linh cữu cụ là một chiếc xe thổ mộ có 2 con ngựa kéo che 2 bên mắt, khoảng 6 hoặc 7 người kể cả người đánh xe ngựa và ba tôi - người bạn thơ độc nhất trong hàng trăm bạn thơ khác. Giải thích nỗi lo lắng của vợ con, ba tôi nói: “Đó là vì đạo lý của người Việt Nam - Nghĩa tử là nghĩa tận”.
Suốt những năm tháng sau này, tôi luôn muốn biết về cuộc đời của cụ. Một hôm, vào năm 2004 tôi đọc trên Tạp chí Xưa & nay với bài viết về cụ Phan Khôi của tác giả Vương Trí Nhàn. Bài báo đã khẳng định cụ Phan Khôi có góp công trong kháng chiến và trong lịch sử phát triển văn học Việt Nam bằng những tác phẩm như Tình già .., ông còn nghiên cứu làm phong phú thêm cho ngôn ngữ dân tộc Việt Nam v.v…
Đọc bài báo, tôi thật sự mừng cho cụ Khôi biết nhường nào. Mừng vì người ta đã hiểu cụ.
L.B.T
Cùng một chủ đề:
< Lùi | Tiếp theo > |
---|