Có những người, tôi chưa gặp mặt nhưng thỉnh thoảng vẩn điện thoại tán ngẫu, trong số đó có nhà thơ Cao Thoại Châu. Anh là nhà giáo. Nếu tôi đoán không nhầm, anh sinh năm Đinh Hợi, quê Nam Định và hơn tôi một con giáp. Năm 1963, anh đã có thơ in trên tạp chí Văn, đó là bài thơ Chỗ ngồi của thầy giáo thời chiến. Đến nay, anh có nhiều tác phẩm thơ, tạp văn xuất bản lai lai và cũng đều gửi tặng tôi qua đường bưu điện như Vách đá cheo leo, Vớt lá trên sông, Ngựa hồng, Rạng đông một ngày vô định, Bản thảo một đời....
Nhà thơ Cao Thoại Châu
Bạn văn quý nhất là vẫn có tác phẩm tặng cho nhau.
Sống để viết.
Và bài Một ít tiếng lóng Sài Gòn, anh vừa gửi đến cho trang web leminhquoc.vn. Tôi vui mừng giới thiệu cùng mọi người. Nhân đây cũng xin nói luôn, NXB Khoa học Xã hội năm 2001 có in quyển Tiếng lóng Việt Nam của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Khang: "Vì tiếng lóng nói chung và từ ngữ tiếng lóng nói riêng được coi là dạng ngôn ngữ "ký sinh" và "lâm thời: xuất hiện nhanh và mất đi cũng nhanh (bao gồm cả sự mất đi nghĩa là không được sử dụng nữa và mất đi khi chúng trút bỏ cái vỏ lóng để nhập vào ngôn ngữ chung" (tr. 7). Thế thì, từ đó ta có thể hiểu rằng, mỗi thời đại đều có một số tiếng lóng riêng. Và nó sẽ tự đào thải. Vì thế, tiếng lóng chỉ có "giá trị" nhất thời. Khi nghiên cứu tiếng lóng, người ta có thể hiểu được lời ăn tiếng nói của một thời, tất nhiên, tiếng nói ấy chỉ thông dụng trong một giới nhất định chứ không phổ biến chung cho mọi người.
Đọc bài của nhà thơ Cao Thoại Châu, ta sẽ thấy tiếng lóng của Sài Gòn trước 1975. Chúc mừng ông bạn già của tôi vẫn còn viết khỏe và câu văn còn hóm hỉnh lắm.
L.M.Q
IX.2012
Tiếng lóng vốn xuất hiện từ lâu và khá phổ biến, có sức lan tỏa rất nhanh vì là ngôn ngữ chợ búa, vỉa hè, nói ít hiểu liền bất cần ngữ pháp! Có lẽ chỉ các bậc tu hành mới không có (chứ không phải không dùng) tiếng lóng chuyên dùng. Thoạt kỳ thủy đó là tiếng của một giới nào đó (ăn chơi, mánh mung, lính tráng…), là con đẻ của một ngoại cảnh nào đó, không phải "tiếng lòng", tức không phải của nội tâm, càng không là ngôn ngữ của tư duy.
Định nghĩa thật khó, cách giản tiện nhất là… nói tiếng lóng.
Ở đâu cũng có tiếng lóng nhưng Sài Gòn là đất trẻ, nhiều dân tứ xứ là địa bàn quý hiếm cho tiếng lóng sinh sôi. Bắc Trung Nam, Tây Tầu Ấn, chỉ có Nga là chưa thấy… Thành phố đầu mối công thương nghiệp tạo thành lớp cư dân hoạt bát, nhiều sắc thái, nhiều người cá tính hơi "bốc", trọng nghĩa khí mang tính giang hồ, thích sống thoáng, khoát hoạt. Sài Gòn còn là đất cảng nên hơn nhiều nơi khác, sức “ma sát” ở đây rất mạnh, càng mạnh càng bén nhạy trở thành đắc địa của tiếng lóng…một thứ phương ngữ độc đáo của Sài Gòn. Số Dzách là ...Tầu, Năm bờ oan là Mỹ thay nhau có mặt tại Sài thành!
Dân ăn chơi không phải ai cũng sòng phẳng, nhiều kẻ hay tìm bạn bò mộng để bắt địa. Ông chủ quán cà phê La Pagode nếu giờ còn sống mà trí nhớ tốt liệu còn thắc mắc vì sao có mấy chàng sinh viên ngày nào cũng kéo đến kêu cà phê lát rồi bỏ đi, chỉ có một người ngồi lại… đọc sách cả tiếng đồng hồ? Không đâu, thưa ông chủ quán, ngồi làm va ly chờ bạn đi kiếm tiền đến… chuộc đó!
Nhớ hồi 1956-1957 gì đó, có cô ca sĩ nổi tiếng một lần đi chơi với bạn trai… tới Nhà Bè, hồi ấy còn rất hoang vắng. Hai người làm gì trong xe hơi chẳng biết nhưng bất ngờ bị tuần cảnh xét hỏi, bèn nói em với ảnh đi… ăn chè. Ối trời, tại Nhà Bè thuở đó mua cả chỉ vàng cũng không có thứ gọi là chè ấy. Thế là trong "từ điển" tiếng lóng, ăn chè ra đời, dùng làm gì thì cứ thử ắt biết.
Sang tới giới công chức, quân nhân thời xưa, không có lệ họp bình bầu kiểm điểm, anh nào từ phòng sếp ra mặt hơi bị không vui thì biết anh ta được mời lên uống trà, hoặc… uống cà phê đen! Nếu thấy anh ta mệt mỏi hãy thông cảm vì trong phòng sếp anh đã phải làm đèn cầy (đứng ngay đơ) cho sếp xát xà bông.
Tiếng lóng sinh ra rất nhanh từ một giới nào đó và đời tiếng lóng cũng ngắn. Khi lính Mỹ ào ạt sang miền Nam, chập choạng tối là những “cây than” (Mỹ đen) hay lảng vảng ở các khu vực bến xe hay những khu bình dân. Đám dắt mối, ăn xin, du thủ du thực chế ngay ra OK Salem, tức tiếng bồi cộng với ngôn ngữ hình thể, nói bằng miệng thì ít mà bằng tay thì nhiều làm ngôn ngữ tiếp thị món gà móng đỏ. Ngày nay việc dùng cái bao cao su được tuyên truyền rộng rãi trên pa nô, báo đài và còn có cả việc các thanh niên đi phát nó trong các cộng đồng. cái vật này thời trước ở Sài Gòn thường chỉ được hiểu rộng rãi là phương tiện ngừa bệnh của dân ăn chơi,họ gọi là áo mưa, chắc là lấy từ chữ capote của tiếng Pháp. Đang khi ấy, một vị tân đại sứ tại Sài Gòn có tên là… Cabot Lodge, thế là trong từ điển tiếng lóng của chốn ăn chơi có ngay “Ông đại sứ” mà ngay cả những “má” ít học nhất cũng sẵn sàng cung cấp mỗi khi khách có yêu cầu!
Ra chợ Bến Thành, những chú lính Yankee đụng ngay đám ăn xin lóc nhóc, một chữ Việt bẻ đôi cũng không biết nhưng tiếng Anh bồi, phương tiện hành nghề thì đám này xài nhanh như gió, kiểu "nô bà ba, nô mà ma, ghi vờ mi, oăn đồ la”, có nghĩa là "không cha không mẹ, cho tôi một đồng!". Tuy loại ngôn ngữ này không hề có trong bất cứ thứ từ điển nào nhưng “than” nghe là hiểu, không chết liền!
Thời Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng thống, tiếng lóng tông tông dành riêng cho ông ta, người đứng đầu Phủ đầu rồng. Trụ sở hạ viện trở thành Chuồng cu trên mặt báo. Ông Chủ tịch viện này độc chiếm tiếng lóng Hồi dương liệt lão, do ông quá hom hem nhưng là gia nô nên được cho suốt ngày cầm cái búa. Không nhớ do đâu mà một bà dân biểu nhiều "điển tích" chết cái tên dân biểu nín tè đều do báo chí đặt ra.
Còn Quế tướng công là… đặc sản dành cho viên Tư lệnh Sư đoàn 2 ở Quảng Ngãi, chuyên sai lính mở cuộc hành quân… tìm quế cho tướng, sau Quế tướng công hiếp dâm một bé gái 12 tuổi, con thuộc cấp nhưng tông tông bỏ qua chắc cũng là cùng hội cùng thuyền chớ đâu xa!
Đất nước thống nhất, người Sài Gòn làm quen - dĩ nhiên rất nhanh, với những xế điếc (xe đạp), xế nổ ( xe máy), đánh quả (phi vụ làm ăn), con phe (dân mánh), một vé (100 đô), bôi trơn (đút lót)... trong đó bôi trơn có tuổi thọ như ông Bành Tổ!
Ngày nay, có hai thứ không phải ngôn ngữ nhưng rất… biểu cảm: Cục gạch cắm miếng giấy (chỗ bán xăng lẻ) và cái phong bì, không biết có nên cho chúng vào từ điển tiếng lóng thông dụng hay không?Có một tiếng không biết có nên cho vào từ điển tiếng lóng hay không, chỉ biết hàng năm cứ đến mùa thi là nó xuất hiện trên các báo: Chọi, nghe rất bạo lực sứt đầu bể trán nhưng lại hiền khô là... thi tuyển vào đại học!
Tiếng lóng sinh nhanh mà già cỗi cũng nhanh cứ như hoa phù dung sớm nở tối tàn. Hoàn cảnh sống khác đi lập tức tiếng lóng bèn đi trước đón đầu thật nhanh cứ như hình với bóng. “Chân dài” không chỉ là cặp giò có số đo hơi bị nhiều, mà là đối tác của đại gia trong quan hệ bên tiền bên sắc. Biết chết liền là cách nói đa dạng trong mọi lãnh vực, phủ định cũng được mà khẳng định cũng không sao. "Em đẹp không?, Đẹp chết liền (phủ định, chọc), Không chết liền (khẳng định, nịnh) đều không gây mất lòng cũng không gây cho người đẹp yên tâm là mình đẹp, bởi nó mang tính cách đùa bỡn, sao cũng được! ”Bài này hay không?”, Hay chết liền; Món này ngon chứ?, Ngon chết liền…
Nhắc đến tiếng lóng mà quên nhà văn quá cố Nguyên Hồng là một sự thất lễ. Trước năm 1945 (gọi cho sang trọng là thời tiền chiến), cụ đã lên đời loại tiếng vỉa hè này, đưa nó vào văn chương hẳn hoi. Tiểu thuyết "Bỉ vỏ" - nội cái nhan đề đã là một tiếng lóng (chỉ người đàn bà móc túi) - của cụ đọc thật bá chấy (hết xẩy, khỏi chê)
Lần đầu tiên người đọc được nghe tiếng của giới giang hồ đất cảng Hải Phòng: Mõi (móc túi); kỳ bẽo (cờ bạc); sò quỷnh (người nhà quê); đông địa (nhiều tiền) v.v... Một dân móc túi thuộc loại trinh sát theo dõi một người nhà quê có vẻ có tiền, khi thấy ông ta vào quán cơm bụi, đã báo cho đàn anh biết một cách gần như công khai: Sò quỷnh đông địa tranh vòm (lão nhà quê có nhiều tiền đã vào quán)!
Trong khi chưa tìm ra ai khác nhà văn Nguyên Hồng, xin cứ tôn xưng cụ là… vua tiếng lóng, vì nhân vật của cụ nói được nguyên một câu bằng tiếng lóng, còn đám hậu sinh trong một câu chỉ đệm được vài từ là cùng.
C.T.C
< Lùi | Tiếp theo > |
---|