Kinh kỳ là tên gọi của Thăng Long, nay thủ đô Hà Nội. Phố Hiến nay thuộc Hưng Yên - một tỉnh ở đồng bằng Bắc bộ, nằm bên tả ngạn sông Hồng. Năm 1968, Hưng Yên hợp nhất với tỉnh Hải Dương thành Hải Hưng; từ năm 1996 lại tách ra thành tỉnh riêng, có bảy đơn vị hành chính là thị xã Hưng Yên và các huyện Tiên Lữ, Kim Động, Phù Cừ, Ân Thi, Châu Giang, Mỹ Văn. Hưng Yên là hậu thân của Phố Hiến. Tại sao lại có tên Phố Hiến? Nhà nghiên cứu Lê Văn Lan giải thích:
“Những tên gọi khác của nơi này là: chợ Hiến (Hiến thị), dinh Hiến (Hiến doanh) hoặc có khi còn ghép lại chợ dinh Hiến (Hiến doanh thị). Dễ dàng nhận ra chúng đều có chung một từ gốc: Hiến. Chùa Thiên Ứng của Phố Hiến có một tấm bia lập năm Vĩnh Tộ thứ bảy (1625) giải thích: “Đó là nơi đặt trị sở Hiến Nam án sát của một thừa tuyên. Hiến Nam thị lại là một đô hội như Trường An (kinh đô) nhỏ của bốn phương” (1). Nhà giáo, nhà nghiên cứu Đinh Xuân Vịnh cũng cho biết: “Sở dĩ gọi là Phố Hiến vì phố này ở gần lỵ sở Ty Hiến sát đời Lê” (2).
Sau khi đọc những tài liệu trên, chúng tôi còn muốn trích dẫn thêm một đoạn ngắn do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn để thấy sự lý giải trên là chính xác: “Cung cũ Hiến Nam xưa nằm ở địa phận xã Nhân Dục, huyện Kim Động, là sở lỵ trấn Sơn Nam đời Lê, phàm những người nước ngoài đến buôn bán thì tụ tập ở đây, gọi là Vạn Lai Triều, phong vật phồn thịnh, nhà ngói như bát úp. Đại đô hội Bắc kỳ chỉ có Thăng Long và đây mà thôi, cho nên mới có câu “Nhất kinh kỳ, nhì Phố Hiến”. Nay thì không được như trước nữa” (3).
Thử hỏi, Hiến sát sứ ty giữ nhiệm vụ quan trọng như thế nào, mà người dân lấy tên của cơ quan ấy gọi chung cho cả một vùng đất rộng lớn?
Trong Lịch triều hiến chương loại chí, nhà bác học Phan Huy Chú cho biết đây là một trong ba cơ quan quản lý cấp trấn thời Lê, mãi đến năm 1473 triều đình mới định rõ chức vụ của Hiến ty gồm 32 điều, đại khái là chịu trách nhiệm tâu bày, khảo sát năng lực làm việc của các quan trong trấn, kiểm tra các vụ kiện tụng, tuần hành xem xét đời sống và sản xuất trong địa phận mình quản lý - từ đó báo cáo, đề xuất về triều đình. Khi chọn người giữ chức vụ này, dù chức phó cũng phải người đã đậu tiến sĩ “biết kỷ cương phép nước, quen việc, không sợ cường hào”, bởi đây là “chức uy nghiêm ở một địa phương cho nên xem là quan trọng”.
Hiểu được điều này, ta thấy cách giải thích về tên gọi của Phố Hiến như trên là hợp lý. Rõ ràng, nó là tên gọi tắt của một cơ quan quyền lực.
Cuối thế kỷ XVI, qua thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, Phố Hiến đã trở thành một thương cảng sầm uất của Đàng Ngoài, sánh ngang với thương cảng Hội An ở Đàng Trong. Sở dĩ như thế vì Phố Hiến nằm ở tả ngạn sông Hồng, chỉ cách kinh thành Thăng Long khoảng 60 km về phía Nam, thuận lợi cho việc giao thương của các doanh nhân từ xa đến và chúa Trịnh còn cho phép họ được cư trú tại đây. Bên cạnh đó, chính vì làm tốt “công tác cán bộ” nên Phố Hiến có thuận lợi hơn nữa trong việc phát triển. Ta không thể không nhắc đến vai trò của quan trấn thủ có công mở mang Phố Hiến là Tước quận công Lê Đình Kiên (1623-1704). Trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục chính biên, cho biết ngài: “làm việc liêm khiết công bằng, dập tắt được mối trộm cướp, làm cho nhân dân yên ổn, nên được cất nhắc giữ chức này”.
Chỉ mấy dòng đánh giá như thế, nay đọc ta thấy bình thường, chứ hiểu được bối cảnh xã hội dương thời thì đó là nỗ lực lớn của một ông quan trị dân. Bởi lẽ, đọc lại bộ Lịch triều tạp kỷ - nguồn sử liệu trong khoảng hơn 100 năm cuối đời Lê, ta thấy dân tình trong những năm tháng đó vô cùng ngột ngạt. Mặc dầu triều đình liên tục ban hành những chính sách yên dân, nhưng các quan lại cấp dưới lại không thực hiện mà còn lợi dụng quyền lực nhũng nhiễu, ức hiếp dân đen. Vì thế các cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra không ngoài mục đích đòi quyền sống của những con người thấp cổ bé miệng. Chỉ khi nào, làm tốt “công tác cán bộ”, quan lại liêm khiết, tự nguyện làm đày tớ của dân, yêu thương dân như con thì may ra xã hội mới có thể ổn định, phát triển kinh tế.
Phố Hiến đã có thời gian được cai trị bởi những ông quan như thế. Đó là một trong những điều kiện thuận lợi cho vùng đất này. Trong lúc đó, các thương nhân từ phương xa cũng đã bắt đầu tìm đến nước ta. Với người châu Âu trong những năm đầu của thế kỷ XVI, họ đã đến nước Nam ta với hai mục đích: tìm nơi giao dịch buôn bán và truyền bá đạo Thiên Chúa giáo. Từ năm 1523, người Bồ Đào Nha đến nước ta trước nhất, sau đó thuyền bè của thương nhân nhiều nước khác cũng dần dần tìm đến. Nhìn lại lịch sử nước nhà trong giai đoạn này, ta thấy các thế lực phong kiến Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài đều đang tiến hành những cuộc chiến tranh khốc liệt. Do đó, cả chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong đều muốn kết thân với họ để qua đó, nhờ… mua vũ khí!
Thế nhưng để đạt đến mối quan hệ thương mại “bánh ít đi, bánh quy lại” thì phải mất gần một trăm năm sau! Năm 1637 được ghi nhận là cột mốc quan trọng đánh dấu giai đoạn làm ăn sôi động nhất của phố Hiến:
“Tàu Kegrol do Hartsing cầm đầu chở hàng hóa đến Đàng Ngoài tặng chúa Trịnh Tráng hai khẩu súng đại bác; Trịnh Tráng tiếp kiến cho phép mở thương quán ở Phố Hiến (Hưng Yên - Hải Hưng).
“Có thể qua cuộc tiếp kiến với Hartsing, Trịnh Tráng cho rằng người Hà Lan không liên hệ với chúa Nguyễn Phúc Lan (ở Đàng Trong) nên sau đó, vua Lê Thần Tông gửi thư cho Công ty Đông Ấn Hà Lan ở Batavia nhờ người Hà Lan giúp đỡ để chống lại Nguyễn Phúc Lan.
“Tàu Kegrol trở lại Đàng Trong, được Nguyễn Phúc Lan ủy nhiệm mang thư và phẩm vật cho toàn quyền Batavia. Trong thư, Nguyễn Phúc Lan ngỏ ý vui lòng nếu được người Hà Lan đến buôn bán ở Đàng Trong. Thư có đoạn viết: “Tôi thiết tha mong mọi người đến buôn bán ở bến cảng nước tôi”.
“Đậu Hà Lan bắt đầu trồng ở Phố Hiến” (4).
Đoạn sử liệu ngắn ngủi cho biết Hà Lan đã “bắt ca hay tay”; hay nói cách khác cả Đàng Trong và Đàng Ngoài đều muốn tạo quan hệ với Hà Lan. Nhưng trước khi họ đến thì tại Phố Hiến đã có thương nhân Trung Quốc, Nhật. Những địa danh ở đây như phố Bắc Hòa (thượng và hạ) đối diện với Nam Hòa là chứng tích ba cộng đồng người Hoa - Nhật - Việt cùng sinh sống. Câu hát xưa còn ghi lại đại danh Bắc Hòa:
Bến Nể Độ gió mây buồm thắm
Phố Bắc Hòa nguyệt ngắm rem thưa
Thú đô hội trong ngoài chẳng thiếu
Vạn Lai Triều là tiểu kinh đô
Sau khi Công ty Đông Ấn của Hà Lan đặt thương điếm ở Phố Hiến, thương nhân của nhiều nước khác cũng đã tìm đến, mở rộng hơn nữa quan hệ buôn bán. Lực lượng kinh doanh hùng hậu này là nhân tố kích thích cho Phố Hiến phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ XVII. Bài phú của danh sĩ Lê Cừ đã vẽ lên cảnh đô hội nhộn nhịp:
Miền Phủ Khoái bậc nhì danh thắng
Cảnh Hiến Nam đệ nhất phong quang
Thanh kỳ nửa bức
Nhân trí một bầu
Dưới nọ thôn Hoa có phố
Trên kia làng Xích có chùa
Kể đến thanh quang là nơi trội nhất
Dễ đem phong cảnh mấy đâu so
Dân cư ở Phố Hiến đã quần tụ khoảng 2.000 nóc nhà và hình thành tới 20 phường làm ăn buôn bán sầm uất. (Một tài liệu gần đây nhất công bố có đến 23 phường, chứ không phải như các khảo sát thực địa trước đây). Nhà bác học Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục ghi nhận: “Thuyền buôn trấn Sơn Nam và trao đổi hàng hóa với các phố cảng vùng Thuận - Quảng có nhiều mặt hàng bán chạy đến nỗi thu gần hết số lượng tiền đồng đúc từ Phú Xuân, gây nên nạn khan hiếm tiền đồng”. Hàng hóa buôn bán ở đây chủ yếu là hàng dệt bằng tơ lụa, tơ tằm, bạc, đồng, hương liệu, đồ gốm sứ, đồ sơn, quế, nhãn, thiếc, lưu huỳnh v.v... kể cả hàng nhập khẩu đủ loại từ xa xỉ phẩm cho vua chúa đến vũ khí, vật liệu chế thuốc súng, đồng, bạc, vàng, thuốc bắc, đồ sứ Trung Quốc... Có thể ghi nhận, Phố Hiến đóng vai trò quan trọng không chỉ là nơi chuyển các mặt hàng phong phú lên Thăng Long để tỏa đi các nơi, mà nó còn tập hợp hàng hóa của mọi miền đất nước.
Nhưng đến thế kỷ XVIII, Phố Hiến đã dần dần không còn là nơi “bốn phương hội tụ” nữa. Tại sao?
Có nhiều cách giải thích. Có thể lý do địa lý, vì sông Hồng ngày càng lùi xa, Phố Hiến nhường dần vị trí thương cảng cho Hải Phòng. Có thể vì chính sách cấm truyền bá đạo Thiên Chúa của triều đình. Nếu thế kỷ trước, các linh mục giáo, giáo sĩ tìm đến thì họ được vua Lê chúa Trịnh trọng vọng, tạo điều kiện giảng đạo thì tình thế nay đã khác. Không ít tàu buôn đến nước ta nói là giao thương, nhưng thực chất là họ bí mật hoạt động tôn giáo. Trước chính sách cấm đạo gắt gao như thế, họ phải bỏ đi nơi “làm ăn” khác.
Có thể là vì lý do chính trị. Chẳng hạn, năm 1717, chúa Trịnh Cương đã ra lệnh xem xét lại các mặt hàng xuất khẩu như cấm mua bán đồng đỏ. Thậm chí, nếu phát hiện khách buôn nào, dù là người nước ngoài, tàng trữ mặt hàng này thì đều bị tịch thu nộp về triều đình. Có thể chúa Trịnh sợ khách buôn đem bán lại Đàng Trong để đúc vũ khí. Và người nước ngoài đến buôn bán không còn được hưởng như quy chế “thoáng” như trước nữa...
Đọc lại Lịch triều tạp kỷ ta biết, nếu trước đây họ được lập thương điếm ngay tại kinh thành Thăng Long thì nay cũng đã khác. Chỉ những ai cư trú đã lâu ở phố Mao Điền (Hải Hưng), phố Bắc Cạn (Thái Nguyên), phố Kỳ Lừa (Lạng Sơn), phố Vạn Ninh (An Quảng), phố Mục Mã (Cao Bằng) mới được ở đây. Còn khách buôn đến từ đường biển chỉ cư trú ở Vạn Triều; đến đường bộ thì cư trú ở dinh Điêu Điêu. Chứ không được phép cư trú ở những nơi khác. Còn những người đã cư trú ở các phố phường và các thôn xã thuộc kinh đô mà đã có vợ con, nhà cửa và nghề nghiệp thì cho phép nhập tịch, nhưng phải chịu tạp dịch như mọi người dân khác và phải tuân theo phong tục nước ta, nếu không thì trục xuất!
Những quy định chặt chẽ nhằm quản lý sự hiện diện của người nước ngoài đã làm lực lượng thương nhân không hài lòng. Biết thế nào được, vì không ít người tiếng là thương nhân nhưng họ lại dò thám bí mật, cung cấp thông tin, những điều mắt thấy tai nghe ở Đàng Ngoài cho chúa Nguyễn ở Đàng Trong; hoặc họ vừa buôn bán vũ khí cho cả hai lực lượng đang chống đối nhau!
Chúng tôi suy luận như thế không phải là không có cơ sở, nếu ta biết, trong thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, không ít lần chúa Nguyễn đã bí mật gửi người ra Đàng Ngoài để dò xét, thám thính tình hình để phục vụ cho công cuộc chiến tranh. Chẳng hạn, năm 1717, những tên Bình, Quý - người Phúc Kiến (Trung Quốc) sau một thời gian dài buôn bán ở đất Bắc đã vào đến Phú Xuân báo cáo lại chúa Nguyễn Phúc Chu tình hình ngoài đó. Chúng trình bày những điều gì đã dò thám? Theo chúng, thứ nhất, chúa Trịnh Cương biết sử dụng hiền tài, đích thân duyệt thủy, bộ binh; quân đội có phép tắc, kỹ luật; thứ hai, bốn trấn lớn ở đông, tây, nam, bắc và Thanh Hoa đều có kho quân nhu; đồn và doanh trại ở Nghệ An có độ 7,8 ngàn người thuộc quyền chỉ huy của 18 quận công; đề đốc thậm chí chúng còn báo cáo cả số lượng chiến thuyền, binh lương... Qua báo cáo này, chúa Nguyễn biết “trung triều” đang mạnh nên chưa dám cử binh ra đánh Đàng Ngoài!
Có thể vì lý do an ninh. Những cuộc khởi nghĩa nông dân liên tục nổ ra, phản kháng lại chính sách cai trị hà khắc của triều đinh vua Lê chúa Trịnh.
Theo nhà sử học Phan Huy Lê: “Sự tàn lụi của Phố Hiến có nhiều nguyên nhân phức tạp”. Đó là do sự đổi dòng sông Hồng, sự bồi đắp bên bờ tả ngạn làm cho các bến cảng Phố Hiến mất vai trò, mà nay, Phố Hiến cách bờ sông đến khoảng 2 km; do thiên tai lũ lụt, những cuộc khởi nghĩa nông dân triền miên cho đến cuối thế kỷ XVIII... Và ông cũng đã nêu lên “một nguyên nhân quan trọng tác động nhanh đến sự suy tàn nhanh chóng của Phố Hiến cũng như nhiều đô thị cổ Việt Nam. Đó là những thay đổi đang diễn ra trong hệ thống thương mại Á Đông. Kinh tế Nhật Bản phát triển mạnh trong thế kỷ XVIII-XIX với nhiều công trường thủ công và đô thị lớn, trở thành nơi xuất khẩu vàng bạc và hàng tơ lụa. Nhà Thanh sau khi chiếm được Đài Loan năm 1683, cũng bỏ chế độ đóng cửa và hàng dệt, đồ sứ nổi tiếng của Trung Quốc được xuất khẩu sang nhiều nước. Các nước tư bản phương Tây đi vào đường công nghiệp hóa với nền sản xuất ngày càng tăng tiến. Trong tình hình mới đó, các hàng tơ lụa, gốm sứ cùng với nền kinh tế chậm tiến của Việt Nam không còn sức hấp dẫn đối với thương thuyền nước ngoài và cũng không thể cạnh tranh với các nước. Quan hệ quốc tế đã chuyển sang thời kỳ xâm nhập và xâm lược của các nước tư bản phương Tây đối với các nước phương Đông. Tác dụng của của hệ thống thương mại Á Đông đối với Phố Hiến cũng như các thương cảng của Việt Nam không còn nữa” (5).
Người Việt có câu “Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Điều này hoàn toàn đúng với câu “Nhất kinh kỳ, nhì phố Hiến”. Dù đã lùi xa vào dĩ vãng, nhưng địa danh Phố Hiến vẫn còn nguyên vẹn, gợi nhớ lại thời vàng son của một trung tâm thương mại. Một quần thể kiến trúc cổ gồm 60 di tích lịch sử, 100 bia ký và nhiều đền chùa làm khách viễn du không khỏi bùi ngùi, ngỡ ngàng tưởng như đang thả hồn vào một miền cổ tích nhiều huyền thoại quyến rũ. Ngày nay, về Phố Hiến (thị xã Hưng Yên) và các các vùng ven sông Hồng như Tiên Lữ, Phủ Cừ... thì ta không thể không nhớ đến hương vị của nhãn lồng nổi tiếng, cùi dày, vỏ mỏng, hạt nhỏ, ăn ngọt mát như chè đường, đã có thời được chọn để tiến vua. Gọi nhãn lồng có lẽ vì cây nhãn rất nhiều quả, người ta phải làm lồng bảo vệ cho chùm quả để chim chóc không ăn được chăng?
Hiện nay, ở Phố Hiến hiện còn cây nhãn tổ, dù chỉ còn lại một nhánh, nhưng vẫn cho quả trĩu cành. Ngày 10.10.1992 Trung ương Hội Làm vườn VN đã ký quyết định số 232 công nhận đây là cây nhãn này được trồng từ thế kỷ XVII. Nếu đúng như vậy, nếu cây nhãn biết nói tiếng người thì chắc hẳn nó sẽ kể cho ta nghe biết bao chuyện kỳ thú...
L.M.Q
(nguồn: Tạp chí Kiến thức ngày nay - số 1039 ngày 20.6.2019)
(1) Đô thị cổ Việt Nam - Nhiều tác giả, Viện Sử học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội XB năm 1989, tr.195-196).
(2) Sổ tay địa danh Việt Nam - NXB Lao Động - 1996 - tr.407).
(3) Đại Nam nhất thống chí - bản dịch Viện Sử học - NXB Thuận Hóa - 1992. tr.301.
(4) Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam - Viện Sử học - NXB Khoa học xã hội - 1987.
(5) Phố Hiến những vấn đề khoa học đang đặt ra - Tạp chí Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật số 5 (113) 1993, tr.35.
< Lùi | Tiếp theo > |
---|