Đêm qua, dai dẳng, dùng dằng, dằng dai, dằng dặc, dầm dề, dúng dẳng, da diết kéo lê thê qua trước cửa nhà là mưa. Bèn đi ngủ sớm.
Thức dậy, một tin nhắn của đồng nghiệp Ngô Kinh Luân: “Lâu quá không gặp anh, sáng nay phở nghe anh”. Cứ như lời tỏ tình trai gái. Sực nhớ về thời mười sáu xuân xanh, có người con gái bước qua ngõ hỏi vọng vào: “Đi học chưa?”. Âm thanh ấy lướt thướt theo gió. Thuở ấy, vườn cây nhà ông ngoại run rẩy gió, sau mưa. Từng hạt mưa rụng dưới chân đi. Hoa ngâu thơm lạ lùng. Rụng vàng trên vai. Từng chấm li ti ấy mang theo hơi mưa. Nhẹ tênh. Buổi sáng sau mưa, tâm hồn nhẹ nhàng hơn. Ngủ đẫy giấc. Không mộng mị.
Đêm qua, dai dẳng, dùng dằng, dằng dai, dằng dặc, dầm dề, dúng dẳng, da diết kéo lê thê qua trước cửa nhà là mưa. Bèn đi ngủ sớm.
Thức dậy, một tin nhắn của đồng nghiệp Ngô Kinh Luân: “Lâu quá không gặp anh, sáng nay phở nghe anh”. Cứ như lời tỏ tình trai gái. Sực nhớ về thời mười sáu xuân xanh, có người con gái bước qua ngõ hỏi vọng vào: “Đi học chưa?”. Âm thanh ấy lướt thướt theo gió. Thuở ấy, vườn cây nhà ông ngoại run rẩy gió, sau mưa. Từng hạt mưa rụng dưới chân đi. Hoa ngâu thơm lạ lùng. Rụng vàng trên vai. Từng chấm li ti ấy mang theo hơi mưa. Nhẹ tênh. Buổi sáng sau mưa, tâm hồn nhẹ nhàng hơn. Ngủ đẫy giấc. Không mộng mị.
Sáng nay, bên tô phở nhớ lại hôm nọ Luân có gửi email. Nội dung như sau: “Ở tiệm phở ngon nhất phía Đông nước Mỹ, có treo 2 câu đối tài tình, nói về câu trả lời của một bà góa phụ chủ quán phở với một ông khách ỡm ờ (dùng toàn tiếng liên quan tới phở):
Nạc mỡ nữa làm gì, em nghĩ chín rồi, đừng nói với em câu tái giá!
Muối tiêu không đáng ngại, lão còn gân chán, thử vui cùng lão miếng gầu dai!
Có người không chịu, bảo rằng "cua" người đẹp mà lại xưng lão? Già, đã già khú đế. Ai thèm yêu? Bèn đề nghị đối như sau:
Cay chua chi lắm thế, tớ còn gân chán, xin đừng lỡm tớ chuyện Tiêu, Tương".
Chà, cũng vui. Từng nghe câu đối này lâu rồi, theo anh Phan Kim Thịnh - chủ bút tạp Văn Học thì đã lan truyền tại Sài Gòn từ thập niên 1950. Tuy nhiên, hai vế của hai đấng mày râu đối lại chưa "ép phê" lắm. Loạt từ “muối tiêu”, “cay chua”, "Tiêu, Tương" không gợi lên cái thèm về phở. Quái cho món phở. Chưa cần ăn, chỉ mới nghĩ trong đầu những từ “tái”, “nạm”, “gầu”, “chín”, “gân”, “sụn”, “thịt bắp”, "vè"… đã thấy thèm. Nếu thay các từ "gợi cảm" đó bằng tên gọi khác, chắc chắn sẽ hết ngon dù trước mặt vẫn tô phở của mỗi ngày.
Chữ Quốc ngữ, tự nó đã trở thành máu thịt thiêng liêng trong tâm trí, đời sống tình cảm của mỗi con dân nước Việt. Từng con chữ không chỉ có xác, mà còn có hồn - hồn của một dân tộc ẩn hiện trong đó. Mỗi con chữ không là cái vỏ của ngôn ngữ. Sực nhớ, mấy hôm kia đi ngang qua khu Miếu Nổi thấy có quán ăn, bảng hiệu ghi to đùng: "Quán bánh canh Bà Dạng". Đã "bà" còn "dạng"! Nghe phản cảm lắm. Ăn làm sao ngon? Lại quán ăn ở khu Đa Kao có tên: "Ba Mũi Tên". Thoáng đọc đã lạnh tóc gáy. Chẳng lẽ mình phải hứng lấy sự tàn khốc đó sao. Chẳng dại. Bèn đi luôn không ngoảnh đầu lại, chứ đừng nói bước vào quán.
Nghĩ thêm một chút chăng? Ta thấy rằng, dù chữ Quốc ngữ, tiếng Việt còn có những nhược điểm, khiếm khuyết này nọ nhưng đố ai có thể cải cách thành công. Đố đấy. Cải cách có hoàn thiện bằng trời đi nữa, chắ gì thiên hạ chấp nhận? Có lẽ, người đầu tiên đặt vấn đề này là học giả Nguyễn Văn Vĩnh (1882- 1936). Ông đã từng phát biểu một câu nổi tiếng: "Nước Nam ta mai sau hay dở là ở chữ Quốc ngữ" và từ năm 1927, ông khởi xướng cải cách chữ Quốc ngữ gây xôn xao dư luận một thời. Câu chuyện chưa dừng lại đó, về sau, đã có nhiều người có tham vọng này. Mà cũng chẳng đâu vào đâu. Với y, chỉ cần đọc văn bản viết "phở". Đã thèm. Đã nhớ. Đã mê tơi. Nếu viết theo kiểu cải cách "fở", khi nhìn thấy, chắc chắn cảm xúc trong lòng nguội lạnh, vắng tanh như chùa bà Đanh trong chiều ba mươi Tết.
Lúc đang ngồi ăn phở, rồi câu chuyện lan man đầu xuôi đuôi ngược rồi quay về với vài vụ việc gần đây. Vụ cha con “người rừng” Hồ Văn Thanh (82 tuổi) và Hồ Văn Loan (41 tuổi) ở thôn Trà Kem, xã Trà Xinh (Quảng Ngãi) vừa được đưa về với cộng đồng. Do chiến tranh năm 1972, sau khi ngôi nhà bị trúng bom làm ba người thân chết, ông Thanh hoảng loạn, lo sợ nên bỏ làng, ôm con trốn biệt vào rừng sâu, sống hoàn toàn cách biệt với cộng đồng.
Lúc vào rừng, sống biệt lập, họ tìm lửa như thế nào? Cũng theo nguồn tin báo chí, “cha con “người rừng” bóc lớp bột bám dính vào thân cây đủng đỉnh rồi phơi khô, sau đó lấy ra từng chút đặt lên hòn đá dùng búa đập mạnh, khói từ từ ngún lên thành lửa”. Kỳ diệu chưa? Khoái quá bèn tự hỏi, cây đủng đỉnh là cây gì? Tra trong Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS Đỗ Tất Lợi không tìm thấy. Có thể còn có tên gọi khác chăng? Tìm trên mạng, một blog nọ cho biết cây đủng đỉnh: "Tên gọi khác: Móc, đùng đình. Tên khoa học: Caryota mitis. Thuộc họ Cau". Chẳng rõ có đúng không?
Đang ăn, Luân phát biểu: “Em thấy việc đưa "người rừng" về là bất nhẫn, chắc gì họ đã sung sướng, đã vui sống? Đôi khi, ta cứ nghĩ phải làm thế này, phải thế kia làm thì người kia sẽ phơi phới yêu đời, sẽ vui khỏe trẻ trung, sẽ hồ hởi phấn khởi. Do nghĩ thế nên cứ làm thế. Dù lòng tốt nhưng chắc gì lòng tốt này lại giúp người kia hài lòng? Xa môi trường sống đã gắn bó hơn bốn mươi năm, làm sao họ có thể ngày một ngày hai “hội nhập” cùng con người của thế kỷ này? Như thế không bất nhẫn là gì?”.
Nghe có lý. Phở đang ngon bởi chín, tái, ngầu, nạm… nên gật gù tán thành. Trong đầu đang tâm toàn ý với phở nên lúc ấy, chỉ nghĩ về phở. Không nghĩ gì khác, ngoài phở. Đang nhớ đến câu thơ của Tú Mỡ và ngâm nga:
Trong các món ăn “quân tử vị”
Phở là quà đáng quí trên đời
Một vài xu, nào đắt đỏ mấy mươi
Mà đủ vị: ngọt, bùi, thơm, béo, bổ.
Nếu phở không có một “ma lực” hấp dẫn thuộc hạng thượng thừa cao thủ võ lâm trong nghệ thuật ẩm thực, sức mấy nó có sức sống trường tồn đến vậy? Nếu phở không ngon, làm sao ông Tú Mỡ có thể hạ bút viết những câu tuyệt cú mèo. Rồi khẳng định như đinh đóng cột:
Phở là đại bổ, tốt bằng mười thang thuốc Bắc
Quế, phụ sâm, nhung chưa chắc đã hơn gì
Phở bổ âm, dương, phế, thận, can, tì,
Bổ cả ngũ tạng, tứ chi, bát mạch.
Anh em lao động đồng tiền không rúc rích,
Coi phở là môn thuốc ích vô song.
Các bậc vương tôn thường chả phượng, nem công,
Chưa chén phở, vẫn còn chưa đủ món
Nghe y ư hử ngâm nga, chắc chắn Luân sẽ hào hứng đọc nối theo. Biết quá mà, đồng nghiệp y có trí nhớ cực tốt. Nhớ nhiều thơ. Đọc nhiều sách. Thỉnh thoảng, trà tam tửu tứ hai anh em vẫn luân phiên đọc thơ. Đọc cho nhau cùng nghe. Thế mới khoái. Khoái quá nên bèn hỏi: “Ông Tú Mỡ viết đúng quá, phải không Luân?”. Nào ngờ, hắn trả lời luôn một mạch: “Đúng quá đi chớ anh. Tội nghiệp cha con "người rừng". Thì cứ xem con chim bị nhốt vào trong lồng, có thóc gạo ngon, có nước sạch, có lồng sơn son thếp vàng nhưng chắc gì nó khoái bằng tự do ngoài trời?”. Quái! Đôi khi cuộc trò chuyện cũng có lúc tréo ngoe. "Ông hỏi gà, bà nói vịt". Bởi mỗi người đang đeo đuổi vấn đề khác nhau. Có những đôi tình nhân, dù hôn nhau say đắm, mắt nhìn vào mắt, nức nở gọi tên nhau nhưng ai dám chắc trong đầu họ đang nghĩ về nhau? Thế đấy.
Nghe câu trả lời tréo cẳng ngỗng, y bèn hỏi: “Vậy Luân có viết bài về cha con ông Hồ Văn Thanh không?”. Đáp: “Em ước gì có thể thu xếp công việc ra đó chừng vài tháng, lân la, trò chuyện nghe “người rừng” kể lại cuộc sống của họ. Chỉ cần ghi chép trung thực là có thể góp phần lý giải về sự thích nghi bí ẩn lạ lùng của con người. Cuốn sách này ra đời, chắc chắn ngành giải trí và điện ảnh của Hoa Kỳ Hollywood sẽ mua bản quyền dựng thành phim ngay. Doanh thu sẽ vượt xa bộ phim Tarzan của nhà văn Edgar Rice Burroughs. Lúc đó, giàu to”.
Đừng tưởng là đùa. Viễn vông.
Mà rất thật.
Thật bởi tư duy của nhà báo, bao giờ cũng nghĩ đến đề tài hấp dẫn phục vụ bạn đọc. Nhà báo Tam Lang viết Tôi kéo xe năm 1932, in thành sách năm 1935 đã trở thành một sự kiện của nền báo chí nước nhà: “Là tập phóng sự ra đời sớm nhất được viết bằng ngòi bút tả chân sắc sảo linh hoạt, Tôi kéo xe có ý nghĩa mở đầu cho thể loại phóng sự trong văn xuôi Việt Nam hiện đại” (xem Tổng tập văn học Việt Nam tập 29A). Tam Lang kể: “Ông Bùi Xuân Học, chủ nhiệm Ngọ báo một hôm vỗ vai tôi mà bảo: “Anh có ngòi bút viết văn tả chân khéo, bây giờ đang là mùa các bạn đồng nghiệp của anh đi khắp bốn phương điều tra, phỏng vấn: Albert Londres sang Thượng Hải, Maurice Dekobra đi Hoa Kỳ, Geo London tới miền cương giới Tô Nga, Louis Charles Royer đến Leningrad Xô Viết... mà anh thì chỉ lúi húi ở xó nhà với ba bài văn sầu cảm, sao không ném bút đi xem người ta cho sáng thêm con mắt, có hơn không?”. Ấy là ông chủ báo muốn có những bài hấp dẫn phục vụ bạn đọc đó thôi. “Sáng thêm con mắt” của Tam Lang là ông mượn bộ quần áo nâu, thuê xe kéo và bước vào những ngày "ngựa người người ngựa”.
Nếu nhà báo nào cũng ý thức tích cực về nghề, chúng ta sẽ có tập sách hay về "người rừng". Cứ tin là thế. Đã chơi với nhau, phải động viên, khuyến khích nhau và nhất là tin tài năng của bạn để cùng nhau hào hứng làm tốt công việc của mỗi người. Chơi với người bạn đàng hoàng, làm việc tốt, có uy tín vẫn “làm sang” thêm cho mình.
Nghề báo có "làm sang" không? Cái này còn tùy thuộc vào quan niệm của từng người. Không tranh luận lôi thôi. Nghề viết báo có đào tạo được không? Cái này còn tùy thuộc vào quan niệm của từng người. Không tranh luận lôi thôi. Chỉ biết rằng, đọc đâu đó còn nhớ tác giả Tôi kéo xe kể lại, ông được “đào tạo” như thế này: Hồi mới chân ướt chân ráo vào nghề, khi nộp cái tin “xe cán chó, chó cán xe”, ông chủ báo đọc qua, bảo: “Kéo cái tin này kéo thêm vài trăm chữ nữa thành cái bài”. Cũng có lúc, ông chủ báo ném trả, bảo: “Cắt cái bài này còn chừng trăm chữ, cái tin thôi”. Tam Lang học nghề theo cách đó.
Sau này, ròng rã gần 30 năm theo nghề mới biết, cách dạy này độc đáo. Đề tài hay, phải kéo dài ra mới thỏa mãn người đọc, bằng không cắt phéng đi các chi tiết rườm rà.
Thời đó, trước năm 1945 nước ta chưa có trường dạy nghề, nhưng có nhiều nhà báo cực giỏi. Kể danh sách các nhà báo này đến sáng mai vẫn chưa hết. Hiện nay, có quá nhiều trường lớp đào tạo nghề báo nhưng số lượng theo nghề lại quá ít. Lại có quá nhiều tòa báo to vật vã nhưng cái tên của nhà báo lại bé tẹo tèo teo. Những cái tên đó không đủ sức bảo chứng cho chất lượng của bài báo do họ viết ra. Nó khác với thời có những bài báo được ký dưới những cái tên cỡ Trần Tấn Quốc, Nam Đình, Thiếu Sơn, Thép Mới, Lưu Quý Kỳ… là bạn đọc tin cậy.
Sáng nay, vẫn mỗi sáng. Vẫn mỗi ngày. Vẫn thế.
L.M.Q
Ghi chú:
Nhân đây chép luôn bài thơ dí dỏm, "cực hay" về phở, không thua gì bài Phở đức tụng của nhà thơ Tú Mỡ. Nếu dọc xong mà muốn ăn phở thì đọc bài này: Ngẩu hứng... phở.
Xin mời.
Lịch sử phở
Báo Ngày Nay mấy chục năm về trước
Ở trang "Giòng nước ngược" mục thơ vui,
Đã có phen chàng Tú Mỡ rung đùi
Làm thơ tếu, hết lời ca tụng Phở:
Phở đức tụng, món quà ai cũng nhớ,
Phở thơm, ngon, béo, bổ, lại bình dân
Phở rẻ tiền, ăn sẽ chóng lên cân,
Phở, Phở, Phở, xa gần ai cũng thích!
Phở buổi sáng của Hà thành thanh lịch,
Theo Nguyễn Tuân, là vô địch món ăn ngon...
Hơn hẳn cao lương, chín, nạm, vè giòn,
Là quốc túy, là quốc hồn dân tộc
Dù đi xa, khắp biển, trời ngang, dọc
Vẫn nhớ hòai về món Phở quê hương.
Một chín năm tư, Phở lại lên đường
Vào miền Nam, vượt Trường sơn, Bến Hải
Theo gót di cư, hóa thành Phở tái
Chín, nạm, gầu, gân, sách, sụn, thêm rau
Húng quế, ngò gai, giá sống, tương tàu,
Đã đánh bạt thật mau môn hủ tiếu.
Riêng ở Sài Gòn, có rất nhiều bảng hiệu
Nào "Phở Hòa", "Công Lý", "Phở Tương-Lai"
"Trần Cao Vân", cùng "Bảy Chín", "Tàu Bay"
Rồi "Mụ Béo" đến "La-Cay", "Tầu Thủy".
Tô Xe lửa đầy, ăn no bí tỉ,
Khiến Vũ Bằng cũng tuý lúy, say sưa,
Viết Miếng ngon Hà Nội thật nên thơ,
Và Phở gà được tôn thờ số một...
Tháng Tư, Bảy lăm, người người hoảng hốt,
Rời bỏ Sài Gòn, mong dzọt thật xa,
Sống kiếp lưu vong, bốn biển không nhà,
Hương vị cũ, sao mà tìm lại được?
Cho tới khi định cư vào các nước
Thong dong rồi lại ao ước Phở xưa,
Vì muốn ăn nên ai cũng nấu bừa
Cũng bánh, thịt mà sao chưa đạt lắm?
Ít lâu sau, kéo về miền nắng ấm
Tại quận Cam, người Việt mấy trăm ngàn
Theo nhu cầu, việc buôn bán mở mang,
Nên lại có biết bao hàng Phở mới
Nhưng hầu hết dùng tên xưa để gọi
Lại "Phở Hòa", "Công Lý", "Phở Tương Lai",
"Trần Cao Vân" cùng "Bảy Chín", "Tầu Bay"
Thêm "Nguyễn Huệ" với "Hiền Vương", "Tầu Thủy"
Khác Sài Gòn, vì giờ trên đất Mỹ
Phở đã thành một kỹ nghệ hẳn hoi,
"Bảy Chín", "Phở Hòa", chi nhánh khắp nơi
Cùng bảng hiệu, nhưng nhiều người khai thác
Khách hàng Việt, Nhật, Anh, Tàu, Mỹ, Pháp,
Ăn một lần rồi nhớ mãi, ăn luôn,
Phở Việt Nam ngon, bổ, sẽ trường tồn
Giành địa vị độc tôn vùng tỵ nạn...
Ở Tàu trước, Phở là ngưu nhục phấn,
Sang Việt-nam vẫn nấu với bò, gà
Nhưng nhờ tài chế biến của dân ta
Phở sẽ hóa thành "Tinh hoa" đất Việt!
Nhà giáo Bùi Văn Bảo
(1917 - 1998),
< Lùi | Tiếp theo > |
---|