THỂ LOẠI KHÁC Tạp bút LÊ MINH QUỐC: Phím đàm về tính cách Quảng

LÊ MINH QUỐC: Phím đàm về tính cách Quảng

Vừa rồi, không chỉ mạng xã hội mà cả trên báo chí “nổ” ra cuộc tranh luận bất phân thắng bại khi bàn về nguồn gốc tiếng Quảng Nam. Đại khái, có thuyết cho rằng, chính là từ giọng người xứ Nghệ, vậy, trong công cuộc Nam tiến đi vào phương Nam từ chủ trương các vua chúa thời xửa thời xưa đâu phải chỉ Quảng Nam mới có người Nghệ đặt chân đến? Có thuyết cho rằng, do ảnh hưởng lời ăn tiếng nói của người Chăm, thế nhưng đâu phải chỉ Quảng Nam mới có người Chăm?
Khó có thể “chốt hạ” một cách rành mạch, dứt khoát khiến cho ai nấy cũng đều “tâm phục khẩu phục”. Dù thế, không sao cả, bởi sự tranh luận này nếu không vì ăn thua/ hơn thua mà xuất phát từ tấm lòng yêu dấu quê cha đất tổ thì rất đáng hoan nghênh và dành cho chúng ta nhiều suy ngẫm. Suy ngẫm ở chỗ, tại sao cư dân nơi khác không có tranh luận tương tự, mà chỉ có thể là… dân Quảng Nam.
Nếu vấn đề trên còn “lửng lơ con cá vàng”, thiết tưởng cá tính con người xứ Quảng hầu như đã đến sự đồng thuận với “thương hiệu” gói gọn trong một từ hết sức… gay cấn: Cãi. Nói tếu táo là “vô cãi bất thành người Quảng”. Nghe cũng hợp lý, xin đừng ai bắt bẽ làm chi. Thế nên trong phiếm luận này, tôi nhìn cá tính này từ một hai nhân vật nổi tiếng sinh ra tại xứ Quảng, âu cũng là một cách khéo léo trình bày vấn đề này.
Một trong những nghệ sĩ Tuồng nổi tiếng nhất của Việt Nam là Nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Nho Túy (1897-1977), người làng Phu Hanh, thị xã Điện Bàn. Thuở nhỏ, ông Túy đi giữ trâu, nhưng mải mê hát tuồng nên trâu ăn lúa của người ta. Tất nhiên bị bắt đền, nhưng chủ ruộng vốn cũng là dân thích cười, tinh nghịch nên độ lượng bảo: “Mi phải hát câu mô la (mắng) con trâu ni. Nếu hát hay thì tau tha tội”. Không một chút ngần ngừ, ông Túy cầm lấy thanh tre, xuống bộ chỉ vào con trâu, cất lên điệu lối:
Phản tặc kia tội mày khôn thứ
Gươm thiêng này trừ khử loài gian
Vừa dứt câu, ai nấy vỗ tay ầm ĩ hoan nghênh. Qua trường hợp này, ta thấy một trong tính cách người Quảng là họ rất đỗi tự tin với khả năng/ tài năng của mình, nếu cần sẽ làm ngay, chứ không uốn éo… e lệ. Từ chuyện này, ta nhớ đến trường hợp võ tướng Ông Ích Khiêm, thời trai trẻ. Ngày đó, con đường làng Phong Lệ (Đà Nẵng) bỗng rợp cờ xí. Ai nấy đều khép nép đứng dậy khi đoàn của quan đi qua. Quan ngồi chễm chệ trên võng đòn cong phủ điều, trên đầu che bốn lọng xanh. Lúc ấy, trong quán nước dưới bóng đa rợp mát có một thiếu niên đang ngồi bình thản, xem như không có chuyện gì phải chú ý cả. Đã thế hai chân của chàng lại còn xỏ vào trong một chiếc giày rách. Khi nhìn thấy hình ảnh ngạo mạn ấy, quan ngứa mắt lắm, sai lính bắt hỏi. Chàng thưa là học trò, nghe vậy quan cũng nguôi giận. Nhưng nghiêm mặt bảo: “Ừ, học trò thì thử đối lại câu đối của quan, nếu không thì bị đánh đòn”. Vừa dứt lời, quan đọc luôn:
Cắc cớ thay, hai chân xỏ một giày.
Không một phút lúng túng, chàng đối lại:
Sung sướng mấy, trêm đầu che bốn lọng.
Nghe vậy, quan phì cười, thưởng cho mấy lạng bạc và khuyên nên cố gắng đèn sách.
Với Nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Nho Túy, về sau, ông Túy đi theo cách mạng và có nhiều đóng góp cho nghệ thuật tuồng. Ông đóng nhiều vai hay đến nỗi nhân dân xưng tụng là “con rồng sống”, nhất là “để đời” vai ông lão nông dân trong vở tuồng Chị Ngộ.  Hiện nay, ít ai biết nhà soạn tuồng Tống Phước Phổ (Giải thưởng Hồ Chí Minh) là cháu gọi “vua Tuồng” Quảng Nam Nguyễn Hiển Dĩnh bằng cậu. Với mối quan hệ này, ông Phổ được cậu dẫn ra kinh xin làm một viên chức ở Bộ Lễ, nhưng sau đó ông bỏ về quê chuyên sống về nghề Tuồng. Tại sao? Ông Phổ tâm sự qua bài thơ:
Theo cụ Tuần ra dự Tứ tuần,
Sung vào Bộ Lễ tạm giam chân.
Trước còn cho phép ngồi trò chuyện,
Nay phải vòng tay đứng “bẩm”, “vâng”.
Mấy cụ ra vào nhìn xói óc,
Bao người lui tới phải khom lưng.
Quan trường chẳng thạo nghề luồn cúi,
Cuốn gói cam đành phận thứ dân.
Bài thơ này đã phần nào khái quát cá tính người Quảng đấy chứ? Riêng ông Nguyễn Hiển Dĩnh, chính cụ Huỳnh Thúc Kháng cho biết là còn nhớ được dăm câu thơ mà ông Dĩnh vịnh... cái bùng binh. Người Quảng còn gọi “cái lùng binh” - là con heo làm bằng đất sét, rỗng ruột, phía trên chỉ chừa một kẽ miệng hình chữ “nhất”, chỉ vừa bỏ lọt đồng xu đặng để đành. Nay ta gọi “bỏ ống”, “bỏ heo”, đại khái thế. Bài thơ này, như sau:
Chẳng biết chi chi, chỉ biết tiền,
Bùng binh là hiệu thế gian truyền.
Lỗ mồm choét loét đành câm mãi,
Cái bụng chì ỳ chịu đút nghiêng.
Là vịnh cái lùng binh hay về người? Trong dân gian có câu: “Ở đời có bốn cái ngu/ Làm mai, lãnh nợ, nuôi cu, cầm chầu”. Muốn cầm chầu phải là người có “vai vế”; hoặc phải là người am hiểu về tuồng. Trong vở diễn nọ tại Quảng Nam,  có người cầm chầu cứ nện trống ầm ầm, lắp cả lời hát, trong nghề gọi là trống chầu “tắc khẩu” (bịt miệng người diễn) bỗng có hai tên hề bước ra. Tên A buột miệng: “Mi ơi! Trời sắp mưa”. Tên B làm bộ nhìn trời, nói: “Trời quang mây tạnh, gió mát trăng thanh, cây im gió lặng, răng mà mưa được?”. Tên A cười khì, làm ra vẻ lắng tai nghe: “Mi không nghe tỏ, sấm nổ đùng đùng, đánh trúng miệng mày, miệng tau, chết điếng”. Khán giả cười rần, nhưng người cầm chầu vẫn chưa “ngộ” ra, thế là hai tên hề tiếp tục hát bịa và múa Lý con quạ:
Tổ cha con quạ trên đầu
Lâu lâu mổ tấm da trâu cái đùng
Nghe thế, tay “cầm chầu” mắc cỡ, bỏ trống mà lủi mất. Ôi, mấy anh hề trong tuồng diễn Quảng Nam “hơn người” cũng “lý sự” lắm. Ta hãy quan sát mẩu đối thoại này để thấy cái máu lý sự của người Quảng… cắc cớ đến cỡ nào. Lần nọ, trên sân khấu có hai anh hề bước ra. Anh A bảo anh B:
- Nề mi! Trong sách thánh hiền có câu: “Tại gia tùng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tùng tử” nghĩa là như thế nào?
Anh B giải thích:
- Đây là nói về phụ nữ, khi còn nhỏ phải ở với cha, khi có chồng phải theo chồng, chồng chết thì phải ở với con trai mình.
Giải thích như thế là đúng rồi, nhưng không ngờ anh A gân cổ lên cãi:
- Sai bét! Khi còn nhỏ ở với cha, vậy là mẹ cô ấy chết rồi à? Chồng chết ở với con trai, vậy con gái mình không hiếu thảo, không ở với nó được à? Sao khinh đàn bà như rứa hỉ? Theo tau, câu ấy là nói về người đàn ông... có chức tước. “Tại gia tùng phụ” nghĩa là ở nhà thì theo vợ, “xuất giá tòng phu” nghĩa là khi đi xa có… phu giá và nằm trên cáng có phu khiêng, vậy là phải theo hai người phu khiêng ấy; còn “phu tử tùng tử” nghĩa là khi băng rừng lội suối nếu chẳng may hai người phu kia xẩy chân vấp ngã rồi “ngủm củ tỏi” thì quan cũng văng ra khỏi cáng vỡ đầu mà chết theo.
Nghe đoạn diễu hài trên ai cũng cười, nhất là khán giả nữ, vì ai cũng biết rằng có chữ “phụ” là cha thì cũng có chữ “phụ” là vợ; có chữ “phu” là chồng thì cũng có chữ “phu” là người lao động chân tay; có chữ “tử” là con thì cũng có chữ “tử” là chết.
Mấy câu chuyện này, cho thấy rõ nét nhất ở cá tính người Quảng là họ thích nhìn vấn đề bằng cách “lật ngược vấn” chứ không “ăn theo nói leo” người khác, mà cố tình tìm cách “bẻ” lại xem sao. Tư duy của tinh thần “phản biện” là đây chứ đâu?
LÊ MINH QUỐC

(nguồn: Ấn phẩm XUÂN 2025 của báo  Đà Nẵng)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com