Thời gian trôi nhanh như dòng nước xiết, cuốn hết bốn mùa vào quá khứ. Thoáng đó mà đã mười mấy lần xuân qua. Mỗi mùa thu, tôi và các em từ hai đầu đất nước rong ruổi về quê để làm mân cơm tưởng nhớ cha - người thi sĩ của Bến My Lăng - Yến Lan đã qua đời vào ngày 15.8.1998 âm lịch. Trong không khí thiêng liêng của đất trời, tôi như nhìn thấy bóng dáng người cha thân yêu đang tựa lưng trên chiếc ghế gỗ ở góc trái nhà, mắt hướng về khu chợ đầy mùi cần lao, để cảm nhận quá khứ và hiện tại của thị trấn mà ông gắn bó cả một đời.
Ảnh của nhà văn Mang Viên Long. Nhà thơ Yến Lan ngồi bên phải, nhìn ra chợ
Bồi hồi nhớ lại ngày giỗ thứ 10 ( ngày 15.8.2008 âm lịch), hôm đó má tôi khoe: “Con biết không, ngày giỗ ba, anh em ở Hội VHNT Quy Nhơn tổ chức đêm thơ Yến Lan. Đầu giờ chiều, cơ quan lên đón gia đình ta xuống dự. Hôm ấy, má thấy người đến dự đông lắm con à!”. Niềm tự hào về người chồng thi sĩ dường như lộ hết trên khuôn mặt già nua tuổi 90 của bà. Thời gian qua, người yêu thơ Yến Lan, bạn đồng niên, vong niên của cha tôi, ai cũng chạnh lòng về ông - người đã làm rạng danh cho quê hương mình với Bến My Lăng huyền ảo và bốn bài thơ mang tên Bình Định. Nhưng quê hương dường như lãng quên ông chăng? Trong đêm Festival Bình Định, đêm thơ hoành tráng dành cho thi nhân của quê nhưng người yêu thơ chỉ nghe toàn thơ của hai thi sĩ… gốc Thanh Hóa và Quảng Trị! Nhiều người dự hôm ấy bức xúc: “Chúng ta thật vô tình và không công bằng với Yến Lan”.
Lần giỗ thứ 12 của ba tôi - công dân số 3 của Tứ Hữu Bàn Thành, một nhóm thơ làm nên niềm tự hào cho miền đất võ Bình định - một nhà văn trẻ bùi ngùi, nói: “Gia đình hãy làm cái gì đó cho nhà thơ Yến Lan, đừng để ông thiệt thòi mãi như vậy!”. Anh giáo viên dạy văn ở Đập Đá, bộc bạch như có lỗi: “Từ lâu, hầu như chúng ta lãng quên Yến Lan! Thế là có lỗi với cụ. Việc khơi dậy một nhà thơ như Yến Lan, sớm muộn gì cũng phải làm. Giờ tuy mưộn còn hơn không!” . Tôi nhớ nhà thơ Chế Lan Viên có lần đã viết: “Có nhiều lý do. Nhưng thơ là cái đẹp lặng im, đi lầm lũi trong im lặng. Nếu không ai nhắc đến, chỉ ra, gọi tên, tán dương thì nó bị vùi lấp đi, đầu là trong im lặng mà sau là sự lãng quên”.
Vâng! Viết về ba tôi đã đến lúc rồi.
Trước hết từ trong gia đình không nhưng là ai? Từng khuôn mặt các em, kể cả tôi hiện ra: Tú Thủy, Huy Ánh, Hưng Đạo, Bạch Đàn; chẳng đứa nào để tâm đến việc này, ngay cả Lâm Huy Nhuận - nhà báo, nhà thơ và là phóng viên của Đài Tiếng nói Việt Nam chẳng thấy nó nói gì tới! Tôi ư? vừa dốt văn, vừa ít gần gũi với cha, vì ở thời nhỏ học bán trú. Đầu óc tôi lộn xộn, rối như tơ vò, nghĩ không ra. Nhưng hôm ấy, tôi có hứa hảo với anh Mang Viên Long là sẽ cố gắng viết bài gởi vào blog của anh. Và cò cưa chờ cơ hội… Rồi, một hôm, nhà văn Mang Viên Long điện thoại, giục: “Em bảo về nhà viết bài gửi, sao để anh chờ hoài vậy?”. Và, như hiểu cái khó của tôi, anh động viên: “Em viết đi, viết một cách tự nhiên, có gì không thông, anh giúp”. Lại nữa, nhà văn Nguyễn Hòa trên mạng Văn chương Việt cũng nhắn nhủ: “Em cố gắng viết, đừng ngại, nhà thơ Yến Lan phải được đặt đúng vị trí mà lẽ ra từ lâu ông đã được; các anh luôn bên em…”.
Rồi một ngày, bỗng “Phòng Lưu niệm Yến Lan” do má tôi và nhà văn Mang Viên Long lập nên lại gợi mở trong tôi. Nhìn mấy tủ tài liệu, sự ngạc nhiên về mẹ tôi càng tăng. Ngày thường, bà chỉ làm nội trợ, sao bà có được ý thức thu thập, gìn giữ và bảo tồn những kỷ vật của chồng để lại một cách cẩn trọng và phong phú đến vậy? Tôi bắt đầu từ các xấp báo, thư từ, rồi đến những bài viết về cha. Lần giở từng tờ báo, tôi dán mắt vào bài: “Yến Lan, một nhà thơ lớn của văn học Việt Nam và của tỉnh Bình Định”, có đoạn: “Đi vào cõi bất tử, nhà thơ Yến Lan đã để lại cho dân tộc, cho kho tàng thơ việt Nam nhiều bài thơ độc đáo, đặc sắc từ ý đến lời. Anh đã được đặt ngang hàng với các nhà thơ lớn như Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận…Trong thời Pháp thuộc anh là bạn của Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, Bích Khê, Chế Lan Viên, anh có đăng nhiều thơ trên các tập san và các báo trong thời điểm lúc bấy giờ. Trong kháng chiến chống Pháp anh sáng tác được nhiều thơ. Thơ anh đã đến với nhân dân và phục vụ cách mang đúng lúc. Tập kết ra Bắc anh lại càng sáng tác nhiều thơ và đã xuất bản nhiều tập thơ phục vụ kịp thời những biến động của sự phát triển lịch sử cách mạng ở Miền Bắc. Ngày 14.4.1991 anh được Hội đồng Nhà nhước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất …” (tạp chí Văn nghệ Bình Định số 91 - Trà Văn Tri).
Bài viết của ông Trà Văn Tri đã mở lối cho tôi nhiều điều như:
1/ Tiểu sử nhà thơ - phải nêu rõ những đặc điểm về tiểu sử có liên quan mật thiết đến những khía cạnh về mặt nội dung tư tưởng toàn bộ các tác phẩm của nhà thơ.
2/ Những tư tưởng, quan điểm, chính kiến, lòng nhân đạo của nhà thơ. Đặt điểm về nội dung tư tưởng ấy đạt đến đâu, như thế nào. Nó kế thừa những gì của quá khứ và sáng tạo sự mới mẻ. Ý nghĩa các tư tưởng này đối với thời đại như thế nào trong thực tiễn đấu tranh xã hội, khám phá thiên nhiên và nhất là trong thực tiễn sáng tác của nhà thơ lúc còn sống và khi qua đời.
3/ Những đặc điểm về nghệ thuật nhà thơ đã sử dụng để chuyển tải những nội dung tư tưởng những tác phẩm của nhà thơ. Mỗi nhà thơ lớn đều có một bài thơ tiêu biểu hoặc hình ảnh biểu tượng. Ví dụ: Nguyễn Bính có tập thơ Lỡ bước sang ngang và hình ảnh "bướm trắng"; Hàn Mặc Tử với Thơ điên và hình ảnh "trăng" v.v... thì Yến Lan phải là bài Bến My Lăng, Bình Định 1935.
Hai hôm sau, chị em tôi tạm biệt mẹ, bay vào Sài Gòn để kịp làm mâm cơm theo dương lịch 5.10.2010. Ngồi chờ ở sân bay Phù Cát, tôi đọc tờ báo Bình Định, có bài Năm tháng còn trên mấy đốt tay của Lê Hoài Lương, có đoạn: “Một lần cùng người bạn đến thăm nhà thơ Yến Lan lúc ông nằm trên giường bệnh mấy tháng trước khi qua đời, ông nói: “Cái đáng sợ nhất của tuổi già là sự tỉnh táo!”. Câu nói không hẳn là sự chiêm nghiệm của ông khiến tôi lạnh người. Người già thường sợ sự cô đơn, hoặc sợ lú lẫn làm phiền con cháu, với ông, một thi sĩ, sự tỉnh táo của tuổi già còn đáng sợ hơn. Cũng lần này, hỏi thăm ông về mấy năm tháng buồn vì tai nạn nghề cầm bút, ông im lặng nói lảng sang chuyện khác. Ôi cái sự tình của ông, sao nghĩ tới thấy buồn thương".
"Trong nhóm thơ Bình Định, ông là linh Lân. Lân, vận vào ông sao đúng thế. Sách xưa mô tả lân là linh thú, mình giống nai, đuôi giống trâu, móng như ngựa, lưng có lông ngũ sắc, bụng thì vàng, một sừng. Đặc biệt đây là con thú nhân đức, không ăn các sinh vật, đi cỏ không nát! Ông hiền lành đức độ một đời, văn nhân thi hữu nhiều lứa tuổi khác nhau đều chung nhận xét này. Linh lân lành hiền và từng chói sáng trên thi đàn với “Nhóm thơ Bình Định” và “Trường thơ loạn” ít nhất tới giờ mọi người vẫn ngưỡng mộ với Bến My Lăng và Bình Định 1935. Riêng Bến My Lăng cái bến thơ đẹp lộng lẫy và kỳ ảo không thể thiếu trong danh mục những bài thơ hay nhất nước Việt Nam thế kỷ XX”.
Ông đã về với cái bến trăng huyền ảo của ông cách đây đúng 10 năm. Lạ lùng thay lại nhằm đúng vào đêm trăng đẹp nhất trong năm: Trung thu. Ông lặng lẽ về với trăng trong niềm hân hoan lớn của trẻ nhỏ tùng cắc múa lân, ông - con linh - thú - lân lành hiền đi không làm đau cỏ”!
Đọc bài viết này, chị em tôi xúc động theo từng con chữ. Tâm tư tôi lại xáo trộn, và tôi nhận ra trách nhiệm của người chị cả: Trách nhiệm quá lớn đối với một người chưa từng cầm bút để viết về một nhà thơ, mà nhà thơ đó là một trong bốn nhà thơ nổi tiếng của Tứ linh đất võ. Suy nghĩ về cha tôi cứ thôi thúc mãi, rồi tôi ghi vào hai mảnh giấy:
1/ Con đừng viết, vì không đủ trình độ
2/ Con cứ viết, có khó khăn gì ta sẽ giúp.
Tôi bỏ 2 mẩu giấy vào đĩa thờ thần Thổ Địa, thần tài, thắp nhang, khấn; bốc một; trúng mẫu số 2. Rồi, Không hiểu tại sao, những ký ức về tuổi thơ, tình yêu, nhân cách sống của người cha thi sĩ của tôi ào ạt xô vào tâm trí tôi như bão tố.
Và tối đó, tôi chiêm bao, thấy ba đứng trước mặt, tay trái cầm tờ giấy khổ A4, tay phải huơ huơ lên trang giấy. Sáng hôm sau, tôi kể lại cho cô bạn nhà bên, cô ấy bảo: "Chắc cụ muốn chị viết cái gì đó”.
Vậy là rõ. Tôi là người được cha tôi giao trọng trách cầm bút.
L.B.T
< Lùi | Tiếp theo > |
---|