LÂM BÍCH THỦY: Tuổi thơ của thi sĩ YẾN LAN

 

Ông nội tôi, họ Lâm, là nhà nho. Có 6 con; ba trai, ba gái. Dù trai hay gái đều mang tên các loài hoa: Cô Lê, cô Đào, bác Mận, cô Liễu, bác Mai và cậu út Lang tức cậu Bảy.

Cậu Bảy, ba tôi - nhà thơ Yến Lan được sinh ra hơi khác người: “Yến Lan là trường hơp không dễ gì lặp lại. Ông Đồ họ Lâm của vùng núi An Khê hẻo lánh ngậm sầu vì thi không đậu ở Trường Thi - Bình Định khi xưa đã quyết chí vượt bến sông Trường Thi sang làng Nhơn Hòa định cư cùng người vợ mới cưới. Ở đó, vào ngày 2 tháng 3 năm Đinh tỵ, khi con đò đưa người mẹ mang thai vừa cập bờ cát, bà đã trở dạ và sinh ra cậu con trai ngay trên bãi cát”. Bà đâu biết bà đã sinh ra một nhà thơ và nhà thơ ấy đã nổi tiếng bằng chính bài thơ làm về cái bến mà mẹ đã đẻ rơi mình. Bà mẹ đã sinh ra nhà thơ. Còn nhà thơ thì tự đặt tên cho cái bến nơi mình sinh ra là Bến My Lăng (Nguyễn Thụy Kha - báo Lao Động số 55/1996).

 

nhathoyen_lan_thoi_tre

Nhà thơ Yến Lan thời trẻ

 

Theo lời ba tôi kể:

“Tôi sinh ra và lớn lên tại thị trấn Bình Định, cạnh thành Bình Định một thời nguy nga tráng lệ, giờ đã hoang phế đổ nát. Gia đình tôi rất nghèo. Cha tôi từng ôm mộng khoa cử thi hương mấy lần không đỗ, ông nản chí bỏ luôn chuyện đèn sách, về lấy vợ. Mẹ tôi là thợ may nổi tiếng trong vùng. Ngày còn sống, nhờ vào bàn tay của bà mà gia đình tôi có cuộc sống tạm đủ.

Lúc tôi lên 6 tuổi, mẹ ốm nặng rồi qua đời, gia sản không còn gì, nhà lâm vào cảnh túng quẫn; cha thi cử không đỗ đạt đâm nản, bỏ con cái nheo nhóc. Không còn mẹ, các chị phải làm lụng vất vả để nuôi em.

- Chị Hai Lê, ham cờ bạc, sống bần hàn; có đứa con gái không nuôi nổi, đem gán cho người Ê-đê ở Gia-lai. Chị bị cái mụn nhọt ở đùi, không tiền mua thuốc trị, bị nhiễm trùng rồi mất. Con gái chị, nghe nói những năm 60 (thế kỷ XX) có xuống thị trấn tìm cậu, nhưng lúc đó, tôi đã ở Hà Nội! Không biết giờ này cháu lang bạt nơi đâu, còn sống hay đã chết, chồng con thế nào? Tôi thật sự muốn biết lắm. Tâm trí tôi lúc nào cũng bị ám ảnh về mẹ con chị. Nhiều lúc nghĩ lại, tôi tự trách mình về cái chết của chị. Lúc đó, tôi giận chị vì thói cờ bạc, nói mãi mà chị không nghe, nên bỏ mặc; chứ cái nhọt ấy, chỉ vài viên kháng sinh là khỏi thôi!

- Chị Tư Đào làm nghề quấn thuốc lá kiếm tiền nuôi tôi. Đây là người chị luôn khiến lòng tôi nặng trĩu. Ngày chị về nhà chồng, buồn quá, tôi làm bài thơ Chị đi lấy chồng:

Khế chua chị nấu lá mòng tơi

Em ước được ăn đến trọn đời

Tang mẹ mãn rồi bà mối giục

Chị đi bát đũa cũng mồ côi

- Chị Năm Liễu của tôi vừa đẹp gái lại hát hay. Chị lấy ca hát làm nghề kiếm sống. Thời đó, xã hội khinh phụ nữ làm nghề ca hát, cho là “xướng ca vô loài”. Sau bao năm rong ruổi từ nơi này đến nơi khác, khách xem ít dần, chị bỏ quê sang Lào lập nghiệp. Thương chị, tôi viết:

Rời xứ sở lênh đênh theo đàn phách

Bốn lăm năm uống ngược nước Trường sơn

Câu vọng cổ khàn dần theo bước đường lưu lạc

Giờ chống gậy nhìn con cháu múa "Lâm vong"

- Anh Sáu Mai, tính tình hiền lành, an phận thủ thường. Anh làm kế toán cho một ông chủ ở Qui Nhơn, tuy thông minh, nhưng tính tình nhút nhát, nhẫn nhục và trung thành nên đời lận đận.

- Còn tôi, con út, ngay từ nhỏ đã biết tích lũy kiến thức học được. Tôi chăm học và học giỏi, được nhà trường khen thưởng luôn. Lần nọ, trao phần thưởng cho tôi, quan đầu tỉnh muốn xem mặt cậu học trò chăm ngoan mà không tài nào gặp được. Thay vì đến lĩnh thưởng, tôi chạy ra bờ sông Côn, nằm lẫn trong đám cỏ tranh, khóc tất tưởi, vì không có bộ áo quần tử tế mặc để trình diện quan”.

Bài thơ “Tuổi thơ” về hưu mới viết, nhưng dấu ấn  cơ cực của thời thơ ấu hằn sâu trong tâm trí ba tôi được tái hiện lại rõ nét:

Tuổi thơ một đời cây thị

Chiều lung linh theo tiếng chuông chùa    

Một lòng giếng nửa làng đến múc

Không thấy mặt mình chỉ nước nhấp nhô    

Mẹ chết sớm, chị đi phu

Quần áo rách túm bằng dây chuối

Cơ, rô, bích, chuồn nằm đêm cha nuối

Muốn nuôi con cha lại bám đời con

Trong những đêm dài canh bạc tưởng trống trơn

Láng giềng giàu cấm làm bạn lứa

Nhiều hôm no tuổi, no hờn

Ở đây đọng một nỗi buồn lưu ly

Biết đi đâu? Biết mong gì?

Tuổi thơ ơi! tuổi thơ

Ta có em hay không có bao giờ?

Có khi em là hình mà ta là bóng

Bóng ở ngoài đời, hình thì trong mộng

Sau mỗi canh gà hình bóng phải rời xa"

Mẹ cậu Lang mất chưa lâu thì cha lấy vợ lẻ. Người phụ nữ này mê dáng nho nhã của cha cậu từ lâu nên nhân lúc mẹ cậu ốm nặng, bà sớm chiều lân la chăm sóc, hầu như thay mẹ chia sẻ cô đơn, phiền muộn cho cha, khiến ông không thể chối từ. Rồi, khi mẹ cậu đi xa, mặc nhiên bà thành kế mẫu của cậu.

Có kế mẫu tưởng sẽ vơi đi khó khăn và khổ hạnh, song cơ cực vẫn hoàn cơ cực, bởi “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng”. Đời cậu vốn dĩ mỏng manh như sợi chỉ, giờ thêm dì ghẻ khắc nghiệt làm tâm trí cậu bấn thêm. Cậu thương cha, sợ lúc trái gió trở trời không có người thân bên cạnh, cậu đành chấp nhận sống với dì ghẻ. Bao khó khăn, cay nghiệt dồn lên đôi vai trẻ thơ của cậu, vì các anh chị không chịu được tính đố kỵ, cố chấp của dì phải đi lập nghiệp xa.

Nhờ vốn chữ Hán cha dạy, cậu kê cái bàn nhỏ trước hiên chùa, hàng ngày viết đơn, thư từ thuê kiếm tiền tự mua sắm áo quần, sách vở và bỏ ống tre để dành. Ở chùa, cậu ảnh hưởng đạo lý nhà Phật. Không phải trẻ nào cũng có được nhận thức như cậu. Cậu biết thiện, ác chỉ cách nhau có một ý niệm; nên cậu biết phải trái và ân cần, tử tế với mọi người.

Hồi học lớp nhì, thầy hiệu trưởng thấy cậu ăn nói lưu loát, biết làm thơ nên giao cho cậu viết một vở kịch để các thầy diễn, lấy tiền giúp bà con bên kia sông vừa bị bảo lụt tàn phá. Hai ngày sau, cậu trình thầy vở kịch có nội dung “Bầu ơi thương lấy bí cùng”. Thầy vô cùng kinh ngạc: làm sao cậu học trò mới 13 tuổi đã viết vở kịch thơ lục bát dài hai màn trong hai ngày với nội dung rất tình người? Thầy vội đưa cho các thầy tập để diễn (theo lối hát bài chòi và lô tô). Bà con nô nức kéo nhau tới xem đông và thích lắm.

 

L.B.T

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com