Thuở ấy, nhà chú CHẾ LAN VIÊN nằm phía tay phải, sát chân tường cửa Đông thành Bình Định; nay thuộc khu vực Nhà trẻ thị xã An Nhơn. Thành cửa Đông không to như bây giờ; trên có cái lầu nho nhỏ, để vừa chiếc bàn và hai ghế đẩu. Ba tôi - nhà thơ Yến Lan, ở tại chùa Ông, cách thành chừng 300m. Ban ngày, ông đến, rồi cùng chú Chế leo lên lầu tâm sự, đọc sách, làm thơ. Chú Chế gọi nơi đây là “Lầu tư tưởng”, hay “Lầu thơ”. Bởi vậy ba tôi mới có thơ rằng:
Lầu cửa Đông có nghe em tâm sự
Em đi trong tình sử của lầu thơ…
Nhà thơ CHẾ LAN VIÊN
Chiều chiều, hai anh em bá vai, rủ nhau vào sân vận động đá banh. Sân vận động nằm sát bên một míếu thờ. Vào một chiều, các chàng trai đang đá banh ngon trớn, thình lình một cơn mưa ập đến. Ai ở gần thì về luôn. Còn ba và chú chạy ù vào trú mưa ở cái lều cạnh miếu. Trong lều, hai người đứng cách nhau một sải tay, mà có gì đó khiến họ không dám hé ra một lời. Mặt ai cũng tím tái. Họ cứ im lặng nhìn nhau cho đến lúc giọt mưa thưa dần. Ba tôi hất đầu ra hiệu, chú Chế hiểu ý, rồi cả hai cùng lúc lao nhanh ra khỏi lều, chạy như điên về nhà chú Chế.
Vào nhà, ba tôi hỏi: “Lúc nãy Hoan có thấy gì?”. Chú Chế trả lời bằng câu hỏi ngược lại “Thế còn Lang?” Rồi, cả hai nói là đã nhìn thấy một cô gái cùng chạy theo ở giữa hai người từ trong sân ra lều. Cô ta mặc đồ trắng màu như khói, tóc dài xỏa ngang lưng, không nhìn rõ mặt. Một lát thì tan biến đâu mất. Chú Chế lại hỏi ba: “Anh có nhận ra người cô ta tỏa ra một luồng khí lạnh làm tôi ớn cả sống lưng”. Có thể trong sinh hoạt, ba và chú Chế đã gặp những chuyện tương tự như vậy, nên thơ hai người thường thấp thoáng bóng ma quái. Điều này, nhà văn Võ Văn Trực cũng đã có nhận xét: “Thơ của họ thường bảng lảng những gì tao nhã, huyền bí và có phần ma quái” (Từ Bến My Lăng - Phát họa chân dung Yến Lan - báo Văn Nghệ số 7/ 6/1991).
Trả lời phỏng vấn trên tờ Tuổi Trẻ Sống Đẹp, ba tôi trải lòng: “Trong đời tôi, hai người để lại nhiều kỷ niệm đẹp nhất là Chế Lan Viên và Quách Tấn. Chúng tôi đã từng xem nhau như anh em ruột thịt, thề không bao giờ phụ nhau. Tôi học trên Chế ba lớp, lớn hơn bốn tuổi. Hệt như có duyên số, hai đứa tôi gặp nhau, chơi thân nhau. Có cuốn sách hay, bài thơ nào hay chúng tôi đều đọc cho nhau nghe. Hồi tôi sống nương nhờ tại chùa Ông Bình Định, một hôm thấy một người đàn ông đi xe hàng đỗ gần đó, đang cầm cuốn “Hồn bướm mơ tiên” của Khải Hưng. Tôi nài nỉ mãi ông mới chịu cho mượn. Tôi chạy một mạch vào Thành, gõ cửa nhà Chế bảo: “Hoan ơi! Tao có cuốn sách này hay lắm”. Thế rồi hai đứa thức đọc suốt tới gần sáng, kịp trả sách đúng hẹn vào 4h 30’ sáng. Trong lòng hoan hỉ vô cùng!
Lúc học ở Bình Định, tôi và Chế Lan Viên rất mê báo Phong hóa. Hai đứa bàn nhau làm báo. Bọn tôi mua thạch xoa về, khắc chữ lên rồi in ra giấy, bắt chước kiểu cách của báo Phong Hóa. Mỗi lần in 15 bản, bán cho bạn bè trong lớp. Tiền lời kiếm được dùng mua thạch xoa, tiếp tục in. Được một thời gian bọn tôi bị hiệu trưởng bắt phạt quì rồi cấm luôn “tờ báo”.
Chiều chiều, tôi và Chế thường bá vai nhau lên cửa Đông Thành Bình Định ngắm cảnh, bàn chuyện văn chương thi phú. Hai đứa đều trăn trở với dân Chàm, tháp Chàm, nên bàn nhau viết “cái gì đó”. Thời gian này, Chế cho ra đời tập “Điêu tàn” nổi tiếng. Còn tôi tập “Giếng loạn” gồm 28 bài thơ, viết về kiếp đời của các Chiêm nương, tiếc thay chưa kịp công bố thì bị mất!”.
Sau những biến động của lịch sử, mãi tới tháng 3.1955 ba má tôi và gia đình chú Chế mới gặp nhau tại 51 Trần Hưng Đạo - Hà Nội. Ngày mới rời quê hương, xứ sở ra Bắc với hai bàn tay trắng, chỉ mang theo tình cảm quê hương, và niềm tin; tất cả ai từ Nam tập kết ra đều cam chịu cuộc sống thiếu thốn mà tình đời, tình người ấm áp ngọt ngào, thi vị.
Hồi còn trong Nam, nhà tôi lúc nào cũng có các chú làm công tác văn hóa, văn nghệ đến bàn công việc hoặc đọc thơ mình cho bạn góp ý, hay kể chuyện về thời thế. Một lần, tôi nghe ba kể: Vào năm 1935 - 1936 chú Chế ra trường Quốc học Huế thi vấn đáp môn văn. Câu trả lời của chú làm cho Ban giám khảo vô cùng sửng sốt; bởi sự hiểu biết quá sắc sảo so với tuổi đời của cậu bé 16-17 tuổi: "- Em cho biết bài Tỳ Bà Hành “Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách” có những đặc điểm gì tạo giá trị cho bài thơ”. Không cần nghĩ ngợi lâu, chú vanh vách trả lời: "- Đặc điểm trong bài thì nhiều. Nhưng chỉ mới câu mở đầu đã cho thấy điểm đặc sắc của nghệ thuật: Hai tiếng trắc “Bến - Khách” ở đầu và cuối câu gợi lên hai bờ sông cao và dốc. Còn năm chữ toàn bình ở giữa là những làn sóng nhẹ trên mặt sông”. Năm 1938, chú đã xuất bản tập “Điêu tàn”. Ở tập thơ đầu đời các chú bảo - nó thể hiện rõ nỗi đau sâu kín trong tâm hồn của một cậu bé mới 18 tuổi, do đồng cảm với nỗi đau mất nước của một dân tộc đang dần đến chỗ diệt vong… Chú trở thành thần đồng về thơ thời đó.
Những năm tháng đầu, tập kết ra ở tại Hà Nội, tôi chưa gặp chú lần nào. Một chủ nhật nọ, Phan Lai Triều đến lấy cây đàn Mandoline đã cho tôi mượn bập bênh cho vui mấy ngày hè. Trong cuộc trò chuyện, tôi buộc miệng hỏi Triều: “Tớ nghe mọi người ca ngợi về tình bạn của ba tớ và ba cậu, vậy mà chẳng thấy ba cậu đến nhà tớ chơi như các chú khác bao giờ!”. Chắc Triều về méc lại cha. Ngay chủ nhật liền sau, chú và cô Thường tản bộ đến. Bước vào cửa, chú kịp chào ba má tôi, rồi đưa mắt tìm kiếm trong hai cô gái sàng sàng, cùng “chào chú ạ”. Chú đưa mắt nhìn vào tôi, vào Thủy, hỏi: “Trong hai, đứa nào là Bích Thủy”. Tú chỉ vào tôi nói: “Chú ơi, là chị này ạ”. Ba tôi nghe mấy chú cháu nói với nhau thì ngơ ngác; hết nhìn chú, lại nhìn tôi như muốn có lời giải thích. Song tôi chỉ cười mỉm, không tỏ vẻ ngạc nhiên chút nào, vì biết đó là chú Chế Lan Viên - ba của Phan Lai Triều, đã bị tôi lục vấn trước đó.
Tình cảm mà ba tôi đối với bạn nói chung, với các thành viên trong tứ linh nói riêng giống như cá với nước. Ngày chú Chế ra đi (19/6/1989) chưa kịp nguôi ngoai thì đến bác Quách Tấn (21.12.1992). Đó là sự mất mát quá lớn đối với ba tôi. Má tôi kể: “Nghe tin anh Tấn mất, không gian nhà tôi im ắng hẳn. Lúc sau tôi chợt nghe tiếng sụt sùi, rồi mỗi lúc một to dần. Biết là anh đang xúc động. Tôi chạnh lòng so sánh, ít có người khóc bạn như anh Yến Lan nhà tôi đã khóc về sự ra đi của Chế Lan Viên và anh Quách Tấn”.
Trong cuộc sống, ai đó, có lúc không đúng với ông, ông không bao giờ để bụng, bởi đạo lý nhà chùa đã dạy ông “lấy ân báo oán, oán ấy tiêu tan, lấy oán báo ân, oán nọ chất chồng”. Ở nơi đó, ông đã nghiệm ra thiện, ác, lòng tin; ông tôn trọng cái tình, cái nghĩa, sống giản dị, biết mình, biết ta, vui cái vui của bạn hữu:
Tuổi sáu mươi hai có cửa nhà
Có vườn nắng gió, ngõ sương hoa
Theo thơ, đời mãi làm thân khách
Làm chủ, giờ thêm bạn với thơ
(Mừng bạn có nhà)
Khi chú Chế bệnh nặng, thư nào gửi tôi, ông cũng hỏi:“Con đi thăm chú Chế chưa?” và dặn: “Nếu chưa đi, nhớ đi thăm chú ngay, có nguy kịch báo cho ba biết sớm”. Buổi sáng tháng 3 năm 1989, tôi đến nhà ở Tân Thái Sơn để thăm chú. Về nhà, tôi viết thư thế này:
“Ba ơi, buồn lắm!. Cô Thường đưa con vào phòng chú nằm. Không thể tin được, trước mắt con là nhà thơ béo tốt Chế Lan Viên của ngày hai vợ chồng đến thăm nhà ta ở 37 Hàng Quạt! Bây giờ chỉ có da bọc xương thôi! Cô Thường bảo chú chỉ còn 31 ký (trước 60 ký). Con không kìm nén được xúc động, òa lên khóc to: “Ôi! sao thế này chú ơi!” tiếng khóc của con chỉ cô Thường cảm nhận được, còn chú Chế hình như không hiểu gì cả. Chú nhìn hai đứa con, ngơ ngác với đôi mắt vô hồn. Con có cảm giác như chú không biết mình là ai và khách là ai. Ký ức về tuổi thơ và tình bạn với Yến Lan không chút sót lại trong chú nữa rồi ba ạ! Cô Thường hỏi: “Anh biết ai đây không?”. Thấy vẻ mặt ngô nghê của chú, cô tiếp lời: “Con gái anh Yến Lan đến thăm anh đấy” thấy chú gật gật cái đầu một cách vô thức! Chú không nhận ra ai đang tiếp chuyện. Con nhắc chú nhớ lại: “Chú còn nhớ Yến Lan là ai không? Ba bảo cháu đến thăm chú đó”. Chú có vẻ không hiểu con nói gì, ngơ ngác như nai con lạc mẹ! Con nắm đôi bàn tay gầy guộc của chú mà lòng tan nát!. Có lẽ tên Yến Lan, Hàn Mặc Tử, Quách Tấn, hay Bích Khê đâu còn gợi cho chú điều gì nữa ba!...”.
Nhưng, một điều chắc chắn rằng, trong chú chỉ còn có cô Thường, và rất quan trọng đối với chú. Chú âu yếm bảo cô: “Em ơi! đưa anh tờ giấy và bút để anh viết báo cáo cho hai anh”. Chú gọi vợ chồng con là hai anh nhà báo. Cô Thường đưa chú tờ giấy A4 và cây bút bi màu đen. Chú lóng ngóng một hồi, loay hoay mãi trên tờ giấy một lát như đang suy nghĩ các việc cần báo cáo, và tự nhiên ngửa đầu nhìn trần nhà cười, rồi cuối xuống viết mấy chữ gì đó; gấp lại đưa cho con và nói: “Đây, báo cáo các anh”. Con nhìn vào mấy chữ lí nhí, nguệch ngoạc ở giữa tờ giấy, đọc ra là “Văn thơ cách mạng” cất vào túi. Được một lúc, chú đòi lại: “Anh đưa lại để tôi báo cáo thêm vài ý”. Con trả chú. Chú lại hí hoáy viết, rồi đưa lại cho con. Con lật mặt sau đọc, vẫn dòng chữ nguệch ngoạc, liền nhau như sợi chỉ quăn queo, vẫn là “Văn thơ cách mạng”. Thế rồi chú nhìn con, vui vẻ nói: “Tôi báo cáo thêm cho các đồng chí rồi đó nhé!”
Trong hồi ký “Yến Lan, nhớ mãi về anh”, má tôi thuật lại cảnh ba tôi đọc thư tôi: “Thấy anh lặng đi khi xem xong thư của cháu Thủy, vẻ mặt buồn rười rượi, tôi hỏi: “Con Thủy nó viết gì mà anh có vẻ lo lắng thế? Anh không trả lời, chìa thư cho tôi tự đọc. Xem thư tâm trạng tôi rất khó tả! Nỗi buồn của anh truyền sang tôi. Sau đó anh đã chia sẻ với anh Tấn Dung:“Đọc thư cháu Thủy viết qua cuộc đi thăm Chế Lan Viên, tôi không cầm được nước mắt, bà vợ tôi lẳng lặng bỏ đi nằm, cả nhà như chìm trong cõi hoang lạnh, vì cảm thấy sắp mất một cái gì vừa thân thiết , vừa thiêng liêng khó thể bù đắp!…”
Cái gì đến nó sẽ đến. Ngày chú Chế mất; Hội Văn Nghệ Nghĩa Bình báo cho ba tôi: “Nhà thơ Chế mất rồi! (19 tháng 6 năm 1989)”. Má bảo rằng, ba tôi nghe xong thì choáng váng như bị chứng rối loạn tiền đình. HVHNT Nghĩa Bình, bố trí để 4 người đại diện vào Sài Gòn dự lễ tang, trong đó có ba tôi. Ông mặc áo quần chỉnh tề, ngồi nhà đợi xe lên đón đi. Trớ trêu thay, đợi mãi, đến cuối ngày, Hội báo lên hoãn chuyến đi vì có trục trặc gì đó… Tưởng còn được gặp lại cậu em, dù chỉ là nhìn qua lăng kính. Nào ngờ! khi nghe hoãn, má tôi nói, ông khóc như một đứa trẻ: “Chế ơi! giờ thì không kịp nữa rồi! Sống có nhau, giờ cuối cũng không được gặp”. Má tôi nói là ông bực lắm, trách HVHNT Nghĩa Bình, việc như thế mà không báo trước để ông tự lo. Ông khóc bạn:
“ Tàn tro”
Lệ gói vào khăn thể tưới mồ
Nhường phần hương khói quyện tàn tro
Nghĩ thương hờn tủi nghìn trang giấy
Còn đợi tay thần gởi ý thơ
L.B.T
< Lùi | Tiếp theo > |
---|