Bài 3: VŨ ĐÌNH LONG - Dấu ấn mở đầu kịch nói Việt Nam
Ông Vũ Đình Long
Nếu so với loại hình nghệ thuật cổ truyền như tuồng, chèo thì kịch nói “sinh sau đẻ muộn”. Từ những năm cuối thế kỷ XIX, đã có một vài đoàn kịch từ Pháp sang nước ta biểu diễn. Một khi tiếp cận cái mới, điều đó sẽ tạo ra sự kích thích cho các nhà hoạt động nghệ thuật người Việt. Tại Sài Gòn, từ những năm 1918, đã có người Việt viết kịch nhưng vẫn còn xen lẫn vài điệu hát cải lương, ca kịch truyền thống - trong khi đó với kịch thì yếu tố đó rất phụ, chủ yếu đài từ phải dùng lời nói/ đối thoại.
Tại Hà Nội, ngày 25.4.1920, diễn vở Người bệnh tưởng của Molière do Nguyễn Văn Vĩnh dịch sang tiếng Việt. Báo chí đã đánh giá cao sự kiện này và “mong rằng sân khấu Việt Nam sẽ diễn những vở hài kịch theo lối thái Tây để bổ ích cho nhân tâm, phong tục nước nhà” (Thực Nghiệp dân báo - số tháng 7.1920).
Sân khấu kịch nói Việt Nam, từ thuở bình minh đang dò dẫm những bước đi đầu tiên trên đường hình thành. Thế nhưng, phải đợi đến ngày 22.10.1921, công chúng mới thật sự tin tưởng vào loại hình nghệ thuật này.
Lúc bấy giờ, nhà viết kịch Vũ Đình Long là một trong những người đã thắc mắc: “Tại sao người mình ăn mặc quần áo Pháp thế kỷ XVII diễn kịch Pháp cho người mình xem?”. Trả lời câu hỏi ấy, chính là động lực thúc đẩy họ: “Mạnh dạn sáng tác những vở kịch nói Việt Nam, nói về đời sống của Việt Nam do người Việt Nam biểu diễn cho người Việt Nam xem”. Và vấn đề đặt ra ở đây, họ cần viết đề tài gì “để bổ ích cho nhân tâm, phong tục nước nhà”?
Khi văn minh phương Tây du nhập vào Việt Nam, trong đó có cái nhìn mới khi bàn về các hiện tượng, sự vật phải liogic, khoa học, chứng thực rõ ràng thì không ít vấn đề cũ đã tồn tại cần được xem xét lại. Chẳng hạn đồng bóng quàng xiên, thoái hóa trở thành nơi buôn thần bán thánh thì phải đả phá, phê phán, chứ không thể cứ mê muội, nhắm mắt tin theo. Đó là một trong những đề tài mới mẻ mà thể loại kịch đã chạm đến.
Tại Nhà hát lớn Hà Nội ngày 22.10.1921, Bắc Kỳ Công thương Đồng nghiệp Ái hữu đã tổ chức công diễn vở kịch Chén thuốc độc của Vũ Đình Long (1896-1960). “Hí kịch lối mới, ba hồi, chia làm 36 xen” đã bàn về vấn đề đó, thông qua gia đình trung lưu thành thị của thầy thông Thu. Họ mê đồng bóng cùng thói chơi bời, cờ bạc, cô đầu con hát, đàn địch hát xướng… nên tan cửa nát nhà. Các tình huống trong kịch đã tạo ra sự xung đột giữa dục vọng và lương tri, giữa tệ lậu xã hội với hạnh phúc gia đình.
Từ chất liệu có thật trong đời sống, lần đầu tiên Vũ Đình Long đem lên sân khấu và đã tạo ra tiếng cười phê phán. Hơn nữa, điều mới mẻ là các diễn viên đã nói bằng đài từ của đời thường như đang diễn ra, chứ không “cách điệu” qua các làn điệu du dương, trầm bổng theo quy tắc nghiêm ngặt của lối diễn truyền thống. Hãy xem hồi thứ nhất, xen 4, lúc mẹ thầy thông Phu đi cầu hồn.
“Mẹ đồng quan: Kìa cô hồn đã lại, sao chậm chạp thế?
Cô hồn: Lạy mẹ! Lạy bà lớn! Lạy cô!
Cụ thông: Không dám, cô ngồi chơi. Mời cô xơi chén nước.
Cô hồn: Xin rước mẹ, rước cụ lớn xơi nước.
Cụ thông: Mời cô. Quýt lấy dĩa trầu cau hương hoa.
Quýt: Dạ!
Cụ thông: Đặt quẻ bao nhiêu cô?
Cô hồn: Bẩm, một tiền bốn mươi đồng ạ! Hay đâu thưởng đấy!
Cụ thông: Được, nhưng mà hễ không hay thì tôi lấy tiền lại đấy!
Cô hồn: Vâng, bẩm tên tín chủ là gì? Tên vong là gì? Bao nhiêu tuổi? Chôn ở đâu?”.
Bên cạnh đó, ngoài cấu trúc chặt chẽ tuân theo quy tắc của nghệ thuật kịch, tạo ra kịch tính, xung đột; bài trí sân khấu còn phải đa dạng phù hợp với tình huống kịch, diễn viên phải “có nghề” từ hành động cử chỉ đến lời nói. Chén thuốc độc đã đạt đến điều đó. Sự thành công vang dội này cũng là điều khiến nhiều nhà soạn kịch đương thời hướng theo. Và họ tiếp tục cách tân, thay đổi để kịch ngày một hoàn thiện hơn.
Với kịch nói, thật ra, từ xa xưa trong tuồng đồ, chèo cổ với các nói bông lơn, bông phèn của vai hề, chủ quán, thầy bói, lính lác đã có yếu tố “thoại kịch” - tức các nhân vật đối thoại bằng câu nói bình dân thông thường, chứ không là câu văn biền ngẫu, tuân theo số chữ, làn điệu nhất định.
Tuy nhiên, thời đại thế nào thì văn nghệ thế ấy. Sự cọ sát, va chạm của hai nền văn hóa Đông - Tây đã nẩy sinh ra một thế hệ trí thức mới, lớp công chúng mới. Họ sẵn sàng tiếp thu cái mới, đòi hỏi người nghệ sĩ phải cải tiến, nâng cao di sản cũ để phù hợp thời đại mới. Thật vậy, một khi ý thức hệ tư sản ra đời đã dẫn đến thay đổi về tâm lý, nếp sống trong một lớp người mới, những Tứ thư, Ngũ Kinh, “Khổng viết”… không còn là “khuôn vàng thước ngọc”. Họ đòi hỏi nội dung văn nghệ, trong đó có kịch nói phải đáp ứng thị hiếu mới, mỹ cảm mới, cảm xúc mới. Từ đó, “Về mặt sân khấu, đứng trước những đòi hỏi mới của xã hội, các loại hình ca kịch cổ truyền của dân tộc cũng ít nhiều có chuyển biến” (Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam - Phan Kế Hoành, Huỳnh Lý - NXB Văn Hóa- 1978).
Có thể nói, ý thức sáng tạo về kịch của Vũ Đình Long cùng với thế hệ đương thời đã đi sâu vào ba hướng chính: bảo vệ đạo đức truyền thống, phê phán hiện thực xã hội và thoát ly phong kiến. Từ Chén thuốc độc, thể loại kịch đã tiến rất nhanh về số lượng lẫn chất lượng và bài trí sân khấu. Đó là tín hiệu đáng mừng cho con đường phát triển của kịch nói Việt Nam - mà Vũ Đình Long là người tiên phong “khai sơn phá thạch”.
Trong Nhà văn hiện đại, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan ghi nhận: “Vũ Đình Long “là nhà soạn kịch lối mới trước nhất ở nước ta”; và “vở kịch Chén thuốc độc là cái mốc đầu tiên trên con đường hài kịch Việt Nam lối mới”. Trong chuyên đề Lướt qua một thế kỷ, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã ghi nhận Chén thuốc độc là: “Vở kịch đã đi vào văn học sử và sân khấu Việt Nam với tư cách một sự mở đầu cho kịch nói dân tộc”.
Lê Minh Quốc
(nguồn: Báo Phụ Nữ TP.HCM ngày 17.8.201)
< Lùi | Tiếp theo > |
---|