VŨ ĐÌNH HÒE và báo THANH NGHỊ - MỘT SỐ BÀI TIÊU BIỂU

Mục lục
VŨ ĐÌNH HÒE và báo THANH NGHỊ
1. TỔ CHỨC CỦA TỜ BÁO THANH NGHỊ
TOÀ SOẠN VÀ TRỊ SỰ
HÌNH THỨC
VÀI NÉT VỀ CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO VÀ CÁC TÁC GIẢ TIÊU BIỂU CỦA TỜ BÁO
NỘI DUNG
QUẢNG CÁO
MỘT SỐ BÀI TIÊU BIỂU
Tất cả các trang

 

IX. MỘT SỐ BÀI TIÊU BIỂU.

ĐINH -TIÊN - HOÀNG

 Tiểu ca kịch ba cảnh của VŨ TẤN KHIÊN.
Các vai trò:
Đinh Bộ Lĩnh 11 tuổi
Chú Đinh Bộ Lĩnh ĐINH TIÊN HOÀNG
Tiểu ca kịch 3 cảnh của VŨ TẤN KHIÊN


Các  vai trò:

Đinh Bộ Lĩnh 11 tuổi.
Chú Đinh Bộ Lĩnh 30 tuổi, hai đứa trẻ chăn trâu từ 9 mười tuổi đến 20 tuổi.

CẢNH THỨ NHẤT:

Trên cánh đồng cỏ cò cây cối, đường đi, gò đống.Một bọn trẻ chăn trâu, mười đứa đóng khố điển, khăn đầu dìu đỏ 10, đứa khố và khăn màu xanh. Đinh Bộ Lĩnh mặc cũng thế, nhưng màu vàng, đeo râu.Mỗi đứa cầm một bông lau dài.
Mở màn từ trong vọng ra những tiếng reo hò:
“a la đe… de !”
Aâm nhạc: Lốc bốc soảng… soảng, bọn quân cờ lau ra, có trật tự xếp hàng, một người khố xanh lại một người khố đỏ đi vòng quanh sân khấu. Đinh Bộ Lĩnh đi đầu, điệu bộ một ông tướng
Aâm nhạc: một bài Marche!
Cả bọn theo nhịp  đàn hát bài “Tiến lên” (xem trang tám).
Đi xong hai vòng, đứng dàn thành một hàng, quay mặt ra khán giả.
Đinh Bộ Lĩnh hô to:- bờ quân xanh ! một tiếng trống, một tiếng chiêng.
Quân Xanh: Dạ (một tiếng chiêng).
Đ.B.L-lùi lại ba bước… lùi (tùng  bi li)
Quân xanh lên ba bước.
Đ B L – Bớ ba quân   !  bí li !)
Tất cả : Dạ (bí li)
Đ B L-dồn sang hai bên… dồn (tùng ! bí li ! )
Quân xanh dồn  sang bên trái.
Quân đỏ dồn sang bên phải.
Đ B L : Bớ  hai quân ( tùng ! … bí li !)
Tất cả :Dạ (bí li)
Đ B L- xếp hàng đi … xếp ( tùng bí li ! ) bên quân xanh cứ cách một người lại một người bước lên ba bước, bên quân đó cứ cách một người lại một người lùi xuống ba bước.
Đ B L: -B ớ  hai quân ! ( tùng ! bí li !)
T. C : D ạ ( bí li)
Đ B L: Dàn trận…Dàn ! ( tùng bili )
Quân xanh và quân đỏ quay mặt vào nhau. Đ B L- Tiến  !… Lùi ! … Tiến !… Lùi… cả bọn  tiến một bước lại lùi một bước, reo hò phất ngọn lau.
Aâm nhạc : trống đổ rồn “lốc bốc soảng” một chầu thật ầm ĩ.
Bỗng im bặt. Bọn trẻ đứng sững như tượng gỗ.


CẢNH II: ÔNG CHÚ.

Ông chú lom khom rình bọn trẻ, rồi chạy sở ra. Chiêng trống im bặt. Một giây im bặt. Rồi ông chú hầm hầm chỉ vào Đinh Bộ Lĩnh thét:
Oâng Chú: - À ! thằng ranh, thằng Lĩnh màu đầu tẾu quân này láo thật!
Cả bọn trẻ vừa cờ lau, chạy toán loạn, vài chú núp sau gò đống, ló đầu ra rồi lại tụt xuống.
Oâng chú đuổi Lĩnh, vừa đuổi vừa mắng.
Oâng Chú:- đồ hư ! quen thân rong chơi ! ( bài hát đăng ở trang 8)
Lĩnh bứt râu đi, chạy vòng quanh sân khấu, ông chú n ảy lại vồ. Lĩnh ngồi sụp xuống, ông chú ngã sóng soài ( vừa hết bài hát) Lĩnh chạy mất ! (trong khi đuổi nhau trống đánh ngũ liên).
Màn buông nhanh.


CẢNH III: BỜ SÔNG


Bỏ  phông đường đi, cho màn sảm xuống làm nước, trước mặt một cái bục đá dài làm bờ sông.
Màn lên : đinh bộ Lĩnh chạy sổ ra. Oâng chú chạy theo sau. Chạy một vòng sân khấu (trống  đáng ngũ liên).
Chú- Sông kia rồi! Mày chạy đi đằng giời.
Lĩnh nhảy lên một mô đá trên bờ sông, trông trước trông sau. Oâng chú chạy lại.
Chú: Mày có giỏi, nhảy xuống sông đi ông xem nào. Uøm ! ( trống, chiêng đổ một hồi mạnh thật nhanh) Lĩnh đã nhảy xuống sông tức khắc sấm chớp ầm ầm, đèn tắt hết rồi bật lên một ít ở trong, ánh sáng lờ mờ. Aâm nhạc nổi giậy. Rồng hiện lên, đội lên lưng đinh Bộ Lĩnh. Chiếu projecteur đỏ vào đầu Lĩnh và đầu rồng.
Cùng một lúc một thứ âm nhạc huyền ảo phảng phất ở trên không.
Ông chú sụp lạy.

Màn hạ từ từ.

BẠCH TUYẾT VỚI BẢY THẰNG LÙN

Sau bữa cơm tối, mợ đương pha nước, thì Quỳnh ở ngoài cửa chạy vào sán đến gần. Mợ vội lấy tay ngăn Quỳnh bảo:
-khéo con, nước sôi đây này !
Quỳnh nũng nịu đứng sát vào mợ:
-     Cho con uống nước mấy !
Mợ thấy quẩn tay khó chịu, cao tiếng nói :
-     Có ra đằng kia không ! mợ pha cho cậu đã rồi mợ cho uống.
Cô gái nhỏ sị mặt đứng ỳ ra đấy, mợ làm lành dịu dàng bảo:
-      Con ra cửa chơi cho mát,  chóng chốc cậu mợ cho con đi xem chiếu bóng.
Quỳnh thích chiếu bóng lắm từ khi cậu cho đi  xem mấy phim tranh hoạt động tô màu nên vui vẻ hỏi mợ:
-      Thật nhớ mợ nhớ !
Mợ trả lời liều “Ừ” vì thật ra lời hứa ấy chỉ là một câu nói để đuổi Quỳnh cho khỏi bận đế mợ. Đợi cho Quỳnh chạy ra cửa, câu vẫn để ý đến câu chuyện của hai mẹ con liền trách:
-      Mợ hay nói dối trẻ thế thì trách chi chúng hay nói dối. Thằng đức đã không thật hà lắm rồi, thằng Nghĩa và con Quỳnh nữa sẽ bắt chước theo anh chúng cũng chỉ vì mợ đã ngẫu nhiên dậy chúng nói dối mà không biết.
Mợ yên lặng không trả lời. Một lát sau, bưng nước lại cho chồng, mợ cười nói:
-    Không hiểu sao thằng Đức nói dối  tệ thế. Đành rằng thế mà cũng không chừa. Hôm nọ nó làm em bẽ cả mặt. Phải, mới chiều thứ tư vừa rồi, đã gần bẩy giờ mà nó chưa đi học về. Em đợi nóng cả ruột, nghĩ bụng sẽ đánh cho một trận để chừa cái tính mê chơi ấy. Chợt nó hốt hoảng ở đâu về, mặt đỏ bừng, mồ hôi nhễ nhại, hổn hển nói “Mẹ ơi… bà giáo ngã… gẫy chân mợ ạ !” em quên lãng cái ý định hỏi tội cậu cả, lẳng hết tai để nghe câu chuyện con kể: “ Tan học con em thằng Huấn về nhà mượn sách. Vừa đến cửa con nghe thấy “huỵch ” một cái và tiếng bác cả kêu thất thanh “thôi chết, bà ngã rồi !” Mọi người xúm quanh bà giáo nằm lặng dưới đất, vừa định ôm bà dậy thì bà kêu hét lên: “ối ! cái chân tôi” cứ trông thấy bào giáo mặt tái mét nằm trên giừơng  với cả nhà ồn ào thuốc men mà con sợ rùng mình”.
Nó nói thế ai chả tin được. Đến hôm  su gặp con dâu bà ta đi chợ, em nhanh mồm, vội vã hỏi:
-    Thế nào mợ, bà nhà đã đỡ chưa?
Mợ ta sửng sốt nói:
-    Bà con có sao đâu?
-    Sao bảo bà ngã đau chân?
-    Không, ai bảo bác thế?
Em không hỏi lảng ra:
-     Chiều hôm qua cháu đức có chơi  đàng nhà đó không ?
Mợ ta lắc đầu. Cậu tính thế nó nói có liều lĩnh không? Conh nhà dối trá như quỷ.
-     Dầu sao trước mặt các con mợ cũng không nên bảo chúng hay nói dối. Vì như thế chúng tin lời mợ và cón nói dối tiếp.
Đức Nghĩa đủng đỉnh vừa vào tới cửa buồng thì Quỳnh ở đâu chạy vụt tới bên cậu, kéo tờ nhật bào cậu đương cầm ở tay nói:
-     Cậu xem gì đấy? Cho Quỳnh xem với nào.
-     Cậu vuốt tóc Quỳnh đưa cho cô con gái yêu tờ báo, một mảnh phụ trương chiếu bóng. Quỳnh bỗng reo lên:
-    Ơ này cậu trông nàng tiên đẹp chửa… lại giữa những người gì mà lùn tịt, mặt mũi trông gớm chết thế này.
Đức lại gần em, nhìn vào tờ báo rồ ra vẻ thông thạo nói:
-nàng Bạch Tuyết và bẩy thằng lùn đây mà. Phim này hay lắm kia cậu !
cậu  cười hóm hỉnh bảo con
_ Hay thật a, con đã xem đâu mà biết.
-    Con xem rồi. Chiều thứ  năm lên chơi Bà, cậu Tri đưa con đi. Phim trạnh hoạt động tô màu đẹp tuyệt kia cậu ạ. Nhiều cảnh hích lắm, như lúc nàng Bạch Tuyết soi bóng trong nước và nghe âm vang của tiếng mình vọng lên, cảnh lạc vào rừng có bao muông thú hiền  lành và sinh sắn dẫn đến nhà  bẩy thằng lùn , cả lúc lũ giống vật làm việc hộ nàng để dọn  cho gọn gàng sạch sẽ gian nhà ở giữa rừng. Buồn cười nhất là chộ con rùa lẽo đẽo  theo nàng lên thang. Chưa đến nơi, nàng đã xuống rồi lại lật đật bò xuống. Cảnh gì ghẻ nàng ghen thì sợ lắm cậu ạ, rùng mình lên được, giá cô Quỳnh xem thì khóc thét lên đấy cón vẽ khéo thì “ thánh ” lắm, trong những quả táo, không kể chi nàng Bạch Tuyết đến con cũng muốn ăn…
Nghĩa nghe anh nói, cười bảo cậu:
-   Anh ấy nói dối  đấy cậu ạ, chứ ai đưa anh ấy đi xem. Có chiều hôm qua nghe thằng Bảo kể truyện lại thì có.
Đức cáu lắm ngảnh lại bảo em:
-    Mày biết đâu lúc cậu Tri đưa tao đi thì mày bài hay lắm chả tin con hát lại vài câu cho cậu nghe, con nhớ được thế thì tài lắm.
Đức đàng hắng rồi bắt một thứ giọng đọc bài mấy câu đầu bài ca của bảy thằng lùn lúc chúng ở mỏ về.
Cậu và Quỳnh cùng cười nhưng Nghĩa nhanh mồm nói:
-    Anh đức bịa đấy cậu ạ, thằng Bảo vừa dạy anh ấy hát ngoài kia xong.
-   Đức lườm em mắng:
-    Láu nào, tao hát ôn lại với nó chư1
Cậu nghiêm nét mặt nói:
_ Nghĩa không được bảo là anh nói dối, và nói xấu người khác là không tốt đâu con ạ.
Quay sang đức cậu vồn vã hỏi:
-    Con đi xem thấy sao không nói chuyện cho cậu mợ biết? Aø có lẽ… họ còn chiếu đến tứ hai. May quá tôi nay cậu định đưa các con đi xem mà không biết xem phim gì. Chắc phim này hay đấy, em đức đã bảo, tì chúng ta đi xem đi mợ ạ. Mợ mặc áo cho Quỳnh cho Nghĩa đi, còn Đức xem rồi ở nhà trông nhà cho cậu mợ, con nhé !
Đức lưỡng lự ấp úng nói:
-  Cậu…
Nghĩ thế nào Đức không dám nói hết câu, cúi gầm xuống dả vờ xem tờ báo, Quỳnh Nghĩa ồn ào tỏ sự vui mừng được đi xem, trong lúc cậu nhìn các con bảo thầm mợ:
-    Tôi giúp mợ khỏi mang tiếng là nói dối con đấy nhớ, và biết  đâu không chữa được cả cái bệnh nói dối của Đức. Chiều nay gặp tôi, cậu Trí vừa hẹn đến tối cùng đi xem Bạch tuyết…
-     Hai em đã theo mợ vào buồng thay quần áo, Đức vẫn ngồi không nhúc nhíc trên ghế. Cậu giả vờ dọn dẹp ghế nhưng vẫn để ý đến con và cảm thấy một sự hối tiếc đương rào rạt trong lòng đứa trẻ. Muốn gợi thêm lên, cậu cao tiếng nói vọng vào trong nhà:
-     Mau lên mợ, Quỳnh và Nghĩa đả mặc áo xong chưa? Hơn tám giờ rồi đấy, không đến sớm lại hết vé mất thôi !
Nghĩa chạy ra trước, Quỳnh hớn hở theo sau, tiếng giầy mợ đã vang ở buồng bên cạnh. Cậu vừa quay với ái áo ở mắc chợt nghe thấy một tiếng  nấc tiếp theo tiếng Quỳnh gọi:
-   Cậu ơi ! anh Đức khóc cậu ạ !
Mợ vừa tới nơi, cậu đến bên Đức, nhìn thẳng vào con,  mỉm cười ý tứ hỏi:
-    Đứa, sao con lại khóc ?
Đức, không nhịn được nữa bùng khóc nức nở:
-     Con … chưa… được xem…. Bạch Tuyết …và bẩy thằng lùn.
-      Vậy câu truyện lúc nãy không thật tí nào ư?
Đức cúi gầm mặt xuống không trả lời. Cậu dịu dàng bảo:
-     Cậu mợ tin  con lắm, sao con lỡ nói lừa cậu mợ? Cậu biết lắm chứ cà cậu rất không vui lòng khi biết Đức của cậu mợ lại thế được… sự đã qua rồi không kể làm gì  cậu vẫn tin ở Đức thật thà của cậu lắm .thôi vào mặc áo cùng đi với cậu mợ và hai em.
-    Cậu cười tiếp ngay:
-    Với cả cậu Trí nữa…
Đức lủi thủi vào trong nhà. Nỗi vui xướng lẫn lòng hối hận làm Đức có những cử chỉ ngượng ngập vô cùng và thèn thẹn khi nghe tiếng em Quỳnh ngây thơ cũng nói với cậu:
-      Con chưa được xem Bạch Tuyết và bẩy thằng lùn.

GIẢI TRÍ


HỘP THƯ.
Các em Băng-Hồ, Mộng –Hùng Vân –Sơn.
Anh Cao xin lỗi các em- đến thứ năm sau. Các em lại chơi toà báo nhé?
Em Phạm –thị Bồng (sai gon) – báo số 8 gửi cho em bị trả lại- Em đổi nhà đi đâu? Cho biết ngay để gửi báo chứ ?
Em Ma-mộc Lâm( phú thọ. Cho biết rõ địa chỉ để gửi sách thưởng.
Bạn Nguyễn Tâm ( Thanh Hoá) – Xin lỗi bạn, đễ chậm quá mơ1i giả nhời. Có bài xin cứ gửi.
Bạn Nguyễn –x- Lương( Ninh  Bình) cám ơn bạn, các bài sẽ đăng dần- có thể giúp thêm được phần nào, xin cứ viết- Hết sức hoan nghênh.
Oâ. Nguyễn Văn Cẩn ( P.P.T Hanoi)- có bài xin cứ gửi- Rất hoan nghênh !
Bạn Vân Quy ( Hai phong) 7 hay se đăng. Rất cám ơn.
Phan Trụ ( Hanoi) quỷ thuật khá lắm. Đã trả anh chủ nhiệm để chuyển giao, vì anh khôn giữ mục ấy.tuy vậy cũng rất ao  được dự một buổi diễn thử để được nếm kẹo  “trấu”.
Đ.V.T
Ngọc Trai ( Huế) cứ gửi. Viết một mặt giấy.
C.V
Mây vơ vẩn  ( Hanoi). Cám ơn. Tưởng tượng mạnh thế? Nếu đăng được thì lời yêu cầu cũng sẽ nghe được.
C.V
Thanh Nam ( Saigon). Tiếc rằng không chiều theo ý em được, tuy rất cảm động về sự thành thật. Cứ gửi về toà báo như đã gửi. Chuyện vui cười cần phải thật buồn cười.
C.V
Bạch y Lang ( Hanoi). Những bài của em rất có giá trị, mà tiếc thay không dùng được. Nếu có thể, viết theo lối dã sử như lài Lý trần Quán hay bài Nguyễn Biểu đăng trong số 2 và số  9. hay là viết theo lối phóng sự ngắn hoặc tường thuật. Cảm ơn về lời chúc. Đã phải sắm luôn hai cặp rồi, phòng khi cận thị nặng.
C.V.
Tập dịch đã em ạ. Mà dịch rất cẩn thận, rồi gửi anh Cai Vườn xem- Những câu hỏi khác, miễn giả nhời.
Oâ. Nguyễn Tâm ( Thanh hoá) “ đôi chim xẻ” không đăng được. Có bài khác xin cứ gửi. Muốn vào bộ biên tập, không khó gì hỉ cần viết hay.

 

TIẾNG BÍ MẬT

Ai sinh ra kiếp làm người.
Thông ta gánh vác việc đời được ư?
Để cho ta bị ngã ư?
Lên chùa lễ phật cùng sư bạn bầu.
Ngã rồi còn hỏi đến nhau.
Giúp đời che chở  quản đâu mỏng dầy
Sắc kia tô điểm cho đây,
. . . . . . . .. .
(là gì mà ghê thế?) RYNVAT.

Bài giải .
ĐỒNG XU BƯỚNG BỈNH.
Tại sao lại có thể bướng bỉnh đến thế được? Là vì:

1. Bàn tay bao giờ cũng  ương thành đồng xu dính xuống da – Vì thế co bàn tay bôi mỡ hoặc  rắc cát trước lên bàn tay- Kể thì cũng tinh đấy ! nhưng lối ấy “ lâu” quá!
Giữa bàn tay hơi chũng, nên khi chải, những lòng bàn chải chỉ lướt qua trên mặt đồng xu, tỉ như khi mình chải những nơi chỉ dính trên chiếc áo len – Vì thế nên có em bàn ấn bẹt hẳn cái bàn chải mà đầy phăng “ bác” ấy ra- Lối ấy thì quyết liệt thật đấy, nhưng sao gọi là chải được?
Còn một cách dản dị mà rất hiệu nghiệm sao các em không dùng, là chải rất thong thả từ cạng đồng xu vào mà chú ý hết sức để không ch o lòng bàn chải lướt trên mặt đồng xu. Chỉ có một em tìm được cách ấy: em đại Ngốc ( không, em không ngốc tí nào !) ở Sơn Tây. Em đại Ngốc Khuất- v- Ngung Sơn tây được thưởng ba tháng báo.
Em Mai Thế Thưởng ( Hanoi) được thưởng hai tháng báo.
Các em sau đây được phần thưởng khuyến khích:
Bùi Tá Ngữ ( Lục- Nam), Nguyễn Phúc Giác – Hải (Hanoi),
Hoàng –trí- Quảng (Hadong), Lê – đình – Ninh (Kiến An) Vũ Hồng Tuấn (cho biết địa chỉ)
T.B : các em hãy đợi có một trò chơi về đồng xu còn “ rắc rối” hơn nữa.

CON GẤU LEO GIÂY- ĐỒ CHƠI KIỂU THANH NGỌC.

Các bạn dán hình I,II,III, IV vào một miếng bìa dầy (carton), lấy kéo cắt theo hình vẽ, dán liền mặt trong hình I,II vào với nhau.
Trọc thủng lỗ 3,4 ở chận trước gấu, móc vào mỗi lỗ một chiếc vòng lám bằng dây thép như mẫu đã vẽ D và E. lấy một cái dây cao mắc vào vòng e rồi lấy Michelin gắn liền hai đầu lại. Dùng hai chiếc ghim gắn hai chân sau vào thân gấu ( kim số 1 gắn qua một lỗ ở thân dưới gấu và ở hai chân, kim số 2 xuyên qua lỗ hai, đầu nhọn kim đánh gập lại (  hìnhvẽ Ahi, mà nhớ mắc vòng cao su vào kim số 2) đoạn gọt lấy hai ông gỗ hình ống nứa to như mẫu vẽ, gắn vào  bên trong hai  chân gấu có đánh chứ không cho thật  chặt và đính hai chiếc ghim nữa vào chân trước gấu. Lấy dây gai to  và dai luồn vào vònh Di vào bên trong hai ghim thẳng và cái gỗ B, bên ngoài cái gỗ C ( hình vẽ II)
Cầm đầu dưới dây rựt… rựt con gấu của các bạn sẽ ngoan ngoãn leo lên tận đầu dây trên.

TRÒ CHƠI TRUNG THU.

Đèn kéo quân này khác đèn thường ở chỗ kéo quân đi bằng sức nước chảy, chứ không bằng sức nóng lửa.
CÁCH LÀM: Gọt củ khoai lang hay khoai tây cũng được, một khẩu bề giày 3 phân, bề tròn cho vừa khít bề miệng hông phonga (A) lấy cái lông ngỗng dùi qua miếng khoai A Lỗ lệch chiều như hình vẽ một. Đút mảnh khoai ấy vào thông phong chỗ đậu phình ra. Còn đầu kia cũng phải đ65y một cái nút ba82ng bấc hay bằng khoai. Nhưng phải thật chặt, cái nút này cũng có 4 lỗ như những nút kia, nhưng những nút này thông thẳng xuống chứ không lệch chiều và thêm một lỗ ở giữa nút nữa để xâu giây treo. Đầu dây buộc cái khuy ( K) để dây khỏi rời nút. Đầu dây kia buộc lên trần nhà, treo cho đèn gần chấm tới bàn. Trước khi treo phải chụp cái chao đèn vào, chung quanh treo những quân cắt bằng bia. Trên bàn, dưới giữa đèn, để cái chậu hứng nước.
Bây giờ chỉ còn đồ nước vào thông phong cho nước chảy qua nút trên xuống đầy thông phong nếu có ống cao, nước vào thông phong càng hay. Khi thông phong đầy nước ta hãy cho chảy ra các lỗ lệch chiều. Lúc đó đèn sẽ bắt đầu quay. Nếu muốn cho vui mắt hơn, ta cắm nến chung quanh chậu ( hình II).
PHAN-TRỤ.

ĐÈN TRẺ EM.


Làm một cái khung vuông bằng thép cứng luốn tám cuộn chỉ vào hai bề đối nhau làm bánh xe. Ơû mỗi góc tông ( cũng bằng thép uốn) một cột để luồn một cuộn chí khác có gián một mảnh giấy dày tròn( đường kích 4 mảnh bằng nhau ở trên làm bàn uay).
Mỗi đầu cột  là chỗ thắp nến: chỉ việc đốt đít nến cho rẻo rồi cắm sâu vào là được. Trên miếng giấy tròn ấy, đem dán cái vòng trẻ em nắm tay nhau chơi đùa dưới ánh trăng, ta đã vẽ ( theo hình đây) tô màu6 cắt, trổ lên một mảnh bìa.
Ơû giữa khung ta đặt một cái đế. Làm bằng hai miếng giấy giầy tròn gián ở trên, dưới ba cuộn chỉ. Trên cái đế, không quay được ấy đem dán cái vòng đám rước mang  năm chữ  T.RẺ. E.M.
Rồi buộc giây vào khung, thắp nến lên rồi a lê kéo xe đi rước cho 4 bọn trẻ em sung sương queya tròn tít quanh đám rước TRẺ EM.


NHẮN GỬI CHỊ HẰNG- NGA ĐÊM RẰM.

Chị Hằng ơi !
Trung thu là tết của em.
Mỗi năm một lượt, êm đềm vế qua.
Biết bao trông đợi, mong chờ
Cho đêm nay lại, để mà cười vui.
Em xin cậy chị đôi lời,
Vì em cầu khẩn, van trời đừng mưa.
Cho em tìm bạn gần xa,
Họp nhau lại trước sân nhà rước chơi.
Cho đàn em nhỏ cùng vui
Ngồi quanh bàn cỗ reo cười huyên thuyên.
Chị ơi ! đừng ở từng trên,
Hãy soi sáng để chúng em nô đùa.
Kẻo hoài phí cả tuổi thơ,
Mai đây ơn chị bao giờ em quên ?
Chị ơi ! đừng ở từng trên.
Hãy trông nghin vạn ngọn đèn như hoa,
Hãy nghe hồi trống vẳng đua
Và muôn giọng hát câu ca  lời thềm.
Mà soi sáng tỏ nửa lên,
rồi cùng vui với chúng em dưới này.
THÁI HOÀNG.
 

TRANG EM GÁI

(GÓI BÁNH KEM)
Lan và Minh là hai bạn rất thân. Lan lại ngoan ngoãn mẹ Minh yêu lắm. Một hôm Lan sang chơi với Minh. Gặp nhà Minh có giỗ, cỗ bàn linh đình bánh kẹo la liệt.
Bà Thái ( mẹ Minh) thấy Lan sang liền bảo minh gói cho Lan một cái bánh để Lan về chia lại cho em.
Minh sung sướng tìm một tờ báo, chọn toàn  bánh ( kem) gói cho bạn.
Lan hớn hở nhận gói bánh xin phép bà Thái về.
Tới nhà Lan lon ton tìm mẹ rồi  nhanh nhẩu đưa gói bánh ra- Các em Lan cũng chạy lại xem. Bà mẹ liếc trông tủm tỉm nói rằng:
Mẹ trông gói bánh không được ưng ý lắm, các con chớ vội ăn.
-                 Các con ngơ ngác…
Em sáu xưa nay mồm miệng luyến thắng nói : chị Lan, mẹ dặn không được nhân quà, nhận tiền ai cho kia mà !
-                 Sáu , con nói rất phải, nhưng đối với chỗ bà Tha1i chí thân, thới chị Lan nhận cũng được, không ngại
-                 Đến lượt Tám: Hay tại bánh làm bằng trứng không tươi?
-                 Không con ạ, nếu bánh mua ở thời con nghi, chứ đây là bánh bà Thái thân thử làm, bà Thái rất cẩn thận. Bánh làm bao giờ cũng rất tinh vi
Thằng em út từ nãy chĩ chăm chăm nhìn  bánh sốt ruột quá…
-                 à thôi phải rồi, các chị ăn nhiều cơm rồi, còn em hôm nay kém ăn, chắc mẹ để cho em chứ gì. Bà đốc nhìn con mỉm cười.
Để mẹ nói cho các con nghe nhé:
-mẹ chỉ phàn nàn một nỗi, là bánh ngon như thế này lại gói bằng giấy báo.
Lan nhí nhảnh cãi “ thưa mẹ, ai chẳng gói bằng giấy báo. Con thấy cái hiệu bánh kẹo người ta dùng giấy báo gói cả.
-                 vì người ta không hiểu con ạ ! giấy báo là thứ phải qua tay rất nhiều người:
người làm giấy , người soạn giấy, người mua giấy, người sắp giấy ra, người bán báo, người mua báo, người xem, người này xem xong lại đưa cho người khác xem. Aáy là chưa kể đứa trẻ đem bán rao suốt ngoài phố bao nhiêu bụi và vi trùng bám vào.
Các con một ngày dùng đến tay làm bao nhiêu việc. Người khác cũng thế, nên tay là cơ quan dễ bị nhiễm bẩn.
Ngần ấy tay cầm vào tờ báo thời đáng ghê sợ là bao nhiêu. Phàm các đồ ăn ta nên gói bằng giấy trắng – Giấy trắng tuy không hoàn toàn sạch, nhưng còn tốt hơn giấy báo. Ơû các nước, như nước Pháp thì nhất thiết không hàng nào dùng giấy báo cả. Bất cứ sách sở, vải vóc, hay đồ lặt vặt đều gói bằng giấy trắng hay giấy màu. Mà dùng giấy báo thì cũng chỉ để gói lần ngoài.
Lại nói đến các đồ đem biếu. Thì cách gói ta lại phải cẩn thận, hơn nữa, nếu gói bằng giấy thì thực bất- lịch –sự.
Ơû ta bây giờ khan giấy,đắt giấy, không gì bằng gói bằng lá chuối, lá môn rửa sạch.”.
Lan lém lỉnh ngắt lời mẹ  và chỉ vào tờ báo gói bánh nói !
Nhưng thưa mẹ, tờ báo này là số cổ động báo “THANH NGHỊ” chị Minh lấy ở ngăn kéo bác Thái ra, hãy còn y nguyên ở toà báo.


TRANG KHOA HỌC

TÀU BAY.

Một chiếc tàu bay có 3 phần ( xem hình I)
1.              thân để chứa người hay hàng hoá.
2.              Cánh để đỡ.
3.              Đuôi gồm có bánh lái và một cánh nhỏ.
A.            _ cánh là bộ phận quan hệ nhất vì nhờ có cánh mà máy bay mới bay lên được và mới đứng lơ lửng giữa trời.
Để mảnh bìa  B theo hình II mà kéo theo mũi tên các em sẽ nhận thấy hai điều.
Gió ghìm mảnh bìa lại.
Mảnh bìa lượn trên trời như có gì đẩy ở dưới. Máy bay lên được là nhờ sức đẩy ấy. Khi cánh quạt quay thì gió tạt mạnh về phía sau, đập vào gầm cánh nâng cánh lên.
Nếu các em thay miếng bìa B bằng một miếng ìa nhỏ hơn thì sẽ thấy:
-                 kéo nhẹ hơn trước, nghịa là gió ghìm lại ít hơn.
-                 Phải kéo nhanh hơn trước, miếng bìa mới lượn lên.
Vì thế nên bây giờ máy bay nhanh nên người ta không cần hai cánh to như hồi trước vì làm to vừa thừa vừa bị gió ghìm lại nhiều làm giảm tốc lực. Các máy bay thi và các máy bay khu – trục đều có một cánh nhỏ, nên bắt buộc bao giờ cũng phải bay nhanh cả lúc muốn hạ xuống đất cũng vậy.
Trong lúc thử theo hình số II ở trên các em đã thấy nếu miếng bìa để giốc nhiều như miếng bìa A trong hình II thì sẽ dễ lượn lên cao hơn. Vì thế nếu muốn máy bay lên cao người ta  cũng ngả cánh về phía sau như thế. Nhưng bây giờ máy bay bay nhanh hơn và còn nhào lộn  nên cánh phải gắn chắc vào thân. Người ta làm hai miếng hậu cánh, giống như  những cánh phụ có thể quay quanh bản lề (xem hình I) mà ngả xuống bay dựng lên.
Ngày trước cánh chỉ để nâng máy bay, bây giờ người ta dùng hết cách áp dụng phần trong cánh kẻo để không phí quá. Mới đầu họ dựng dầu, mỡ vào cánh để có thể bay xa không phải hạ xuống lấy, như thế hành trình sẽ rút ngắn, lợi thì giờ. Hiện giờ trên mấy kiểu máy bay to như mấy kiểu Junker (đức), Leversky và Boeing của (Mỹ) người ta đặt hẳng trong cánh những buồng để người ở  ( xem hình III)
Nhiều ngừoi đã có ý tưởng làm máy bay không có thân,  chỉ có cánh nhưng là giầy để chứa người và hàng hoá, gọi là cánh bay, nhưng nghe đâu hiện giờ Mỹ mới bắt đầu đem ý ấy ra thực hành.
Các em xem đấy thì biết bao giờ kỹ nghệ người ta cũng cố gắng không để bỏ một tí gì “ nhiều lợi mà tốn ít”.
Kỳ sau anh sẽ nói nốt về phần thân và đuôi máy bay.
ÂN BẰNG và TRIỆU CƠ.
NGÔ BÍCH SAN.

VUI CƯỜI.

THẾ LÀ AI?

Một chàng thanh niện bị giam vào nhà tù và không ai được phép vào thăm chàng nếu không phải làngười thân- thích của chàng. Có một lần, một ông lão già đến nhà tù, ngỏ ý muốn gặp mặt chàng thanh-niên. Tên gác cổng liền hỏi:
Ông có họ hàng gì với tên tù không? Người ngoài không được phép vào đâu.
Có tôi có họ.
Họ thế nào?
Thế này nhé: tôi không có anh  em chị em gì cả, mà bố tên tù là con trai của bố tôi.


Ồ mưa to thế này mà mày lại đứng đây không chạy đi?
Đàng trước cũng mưa, đằng sau cũng mưa, bên phải cũng mưa, bên trái cũng mưa mày bảo tao chặng đằng nào?


Tiên học lễ.

THẦY GIÁO: - Sao hôm qua anh không đi học?
Thưa thầy hôm qua con đi lể để Phủ- giầy với mẹ con.
THẦY GIÁO: thế anh hích đi lễ hơn đi học à?
Thưa thầy vì con nghĩ đến câu “ tiên học lễ hậu học văn ạ”.


Đánh đố
-                 tôi cược với anh 10 đồng, đố anh biết tôi đến thăm anh có việc gì?
-                 Dễ lắm. Hẳn là anh đến vay tiền tôi.
-                 Không phải
-                 không phải ! tôi chỉ đến hỏi thăm sức khoẻ anh thôi. Thế là anh thua cuộc rồi nhé. Đưa mười đồng ra đây.


Trọng bệnh

-                 nhiều thầy thuốc đã phải chịu, không chữa cho tôi nữa.
-                 Làm sao ? hay là họ cho rằng bệnh anh không thuốc nào chữa nổi?
-                 Nào phải thế, chỉ vì tôi không chịu tiền trả cho họ.

Ông hỏi cháu
-                 ngày sau cháu làm nghề gì?
-                 Cháu ngày sau đi bắn hươu nai về ăn. Nhưng bây giờ ông cho cháu một su đã.
-                 Để cháu là gì?
-                  Để cháu mua kẹo đạn, tập săn đi là vừa.

Lời trẻ

Một ông to nhờn mập mạp leo lên cân, nhưng chẳng may cái can6 hỏng, kim chỉ có 25 cân. Hai đứa trẻ đứng đấy thì thầm bảo nhau:
- có lẽ người ông ta rỗng mày ạ.

 

THỂ THAO


Chữa cháy.

Không kể những người đáng ghét thấy “cháy nhà hàng xóm mà bằng chân như vại”. Chúng ta nên phục những người có lòng dũng-cảm, thấy ai bị cơn hoạn nạn, liều mình cứu giúp, lòng can đảm của những người lính cứu hoả trong thành phố là những tấm gương sáng. Các em tập để rồi theo gương ấy mà đáng mặt làm trai chứ!
Chuông trống đổ hồi, còi rúc đinh tai, kịp đến nơi rồi, chúng ta cởi cỏ quần chùng, áo giài ra, mau lên.


I.               nghể đầu nhìn xem, khói bốc đen một góc trời kìa: các em dơ tai lên trời, thằng đầu đi hàng một, kiễng chân (một vòng sân).
II. tiếng người kêu inh ỏi, có đám cháy thật. Anh em chạy mau tới, (theo nhau chạy chậm rồi nhanh hai vòng).
III. bơm nước để tắt lửa. Các em đứng làm thành hai hàng, trông mắt nhau. Dạng chân , chắp tay ra đàng trước. Hàng thứ nhất, chắp tay giơ thẳng lên trời (hít mạnh vào). Hàng thứ hai chắp tay, thẳng chân, cúi xuống đấ, (thở ra). Lại đến hàng tứ nhất cúi xuống, hàng hai ngẩng lên hít vào. Làm đều nhau 10 lần.
IV. lửa cháy càng to, la vẫy thâm người để giúp. Các em đứng chụm chân, thẳng người, giơ thẳng tay lên đều, vẫy mạnh xuống. Tay phải rồi tay trái (14 lần).
V. lửa dịu dần, khá lắm, ta bò  vào trong nhà.  Hàng một, bò quanh sân (một vòng).
VI. ối chà ! coi khéo, bỏng chân lắm anh em ơi! các em đừng bỏ tay trên háng, co hai gối, nhảy cao (bảy lần).
VII. khiêng đồ đạc ra.  Hai em ngang sức bế nhau, đi từ đầu sân đến cuối sân, lại đổi lượt
VIII. kéo đổ nhà đi, kéo lửa bén ra nơi khác.  Vẫn hai em ngang sức, đứng dạng chân, nghiêng người, trông mặt nhau. Đưa chân phải ra đàng trước, để chạm nhau. Chân trái đàng sau. Tay phải cùng nắm tay nhau kéo mà kỳ đổ. Lại đổi chân trái, táy trái mà kéo.
Lửa tắt hẳn rồi. Ta cùng nhau về tắm gội (Các em đi hàng một, thong thả bước đều, hát bài : Anh - Hùng Xưa (trong ca kịch Đinh Tiên Hoàng, số đặc biệt, trang 28.)


LỜI THẦY THUỐC.


ONG ĐỐT, RẾT CẮN.


Em Chi ranh mãnh rúc vào bụi cây chơi, bị con ong mật tiêm cho một phát vào mặt. Chi  chạy về kia kìa, tay ôm đầu mắt sưng húp như quả táo. Các em đừng cưới mà cho khóc  lên đấy. Ong đốt đau và buốt lắm, vì nọc ong có nhiều chất cay làm cháy thịt. Em hãy giữ Chi lại, nặn vết ong châm bên mắt, rút ngòi ong ra, rồi lấy một tí vôi, hoặc chanh hay dấm mà bôi vào cho hết đau. Rết cằn không có ngòi. Nhưng có nọc độc em cũng lấy vôi hai dấm bôi vào là chóng khỏi.
Đây là anh mới kể vài bệnh nan cỏn con, các em biết mà tránh, và những phương nhỏ mà các em có thể làm lấy được. Còn như nói dại đổ xuống suối xuống bể, chẳng may các em mắc bệnh nan nguy thì đã có cậu mợ hay người lớn chữa cho.
Mấy tháng hè, các em chơi đùa đi, vui tươi lên. Cốt sao chơi cho ngoan và vâng lời cậu mợ. Đừng có đến nỗi “năm này ba tật” thì cậu mợ phiền lằm đấy! L.H.


VƯỜN ƯƠNG.

Có lẽ cái tin tưởng về thần thánh của em Chánh Còm gần thành chắc chắn là vì câu chuyện tục truyền kể trên có để lại dấu tích hiển nhiên.
Hồ Ba Bể rất có thê thành được trong một đêm. Gò An mã rất có thể như nguyên, không phải chịu cái số phận dâu biển của những khu chung quanh.
Cái đó không có gì lạ.
Nhưng sự sụp đổ bất thình lình, từng xứ từng vùng màvẫn coi là những thiên tai huyền bí, chỉ là những biến hoá tuộc về địa thề học mà tôi. Vỏ quả đất chõ dày chỗ mỏng, thể chất lần dưới vỏ đất chỗ mỏng chỗ đặc, ngọn lửa âm ỉ trong lòng trái đất chỗ nóng chỗ nguội, từ ấy thứ làm cho mặt đất cta co vãn, di chuyển luôn luôn. Nhẹ, không ai biết, nếu không có máy móc tinh xảo của những đài thiên văn. Mạch, thì tai nạn xảy ra ghê gớm là thường. Một ngày kia có dịp thằng ba Lém hẳn sẽ nói chuyện với các em về vấn đề này. Các em sẽ thấy chẳng có gì  là khó hiểu, là u huyền, là bí mật cả.
Viết truyện thần thành, ma quì, thiên nga hay hồ li tinh, chúng ta cứ việc, nhưng nếu chúng ta chẳng nói trắng ra như bồ Tùng Linh tác giả bộ Liễu Trai là “ ngồi buồn nói láo mà chơi” thì ít ra ta cũng phải kiêng rè cái trí xét đoàn của người đọc mà đừng bôi bác sự thật mới được.
Giá phỏng em Chánh Còm có tin tưởng thật về thần thánh, mà muốn làm một việc về truyền đạo, muốn cho độc giả cũng phải tin giống mình thì em Chánh Còm cũng phải đủ bằng chứng, đủ lý lẽ để bày tỏ cho rõ ràng, thì mới hòng thuyết phục được người ta. Nếu không muốn truyền đạo và hãy còn bán tin bán nghi thì rất không nên bàn cái sâu đáng tức cười:
-                 khéo thế  cũng nên…
một là “có” hai là “không”, một là công nhận hai là phản đối, người viết văn phải chắc chắn, phải quả quyết, không  thể thần trí bất định, rồi đâm ra “ba phải”được.
Ngoài cái nhược điểm về phán đoán mà em Chánh Còm có thể tập luyện sửa chữa dần dần theo tời gian, bằng kinh nghiệm, bằng từng trải, bằng nhận xét lối viết của em kể cũng gọn ghẽ, đã sáng sủa.
Nếu em Chánh Còm chịu đọc nhiều, chịu để ý đến những việc sảy ra chung quanh mình, nhất là chịu suy ngẫm kĩ càng những cái mình đọc, những điều mình trông thấy, nghe thấy, thì dù sau này em không béo lên được chút nào, văn của em cũng không thể “còm” mãi được.
Cũng là một hướng đạo sinh như em Chánh Còm, cũng có lối viết “tốc hành” như em Chánh Còm nhưng văn còn lung củng nhiều quá là em Đăn g Nam.
Hai chuyện phóng bút của em, hẳn là hướng đạo “mới mẻ” lòng đang bùng bùng với chủ nghĩa. Hai chuyện không đáng kể đến, nếu em Đăng Nam không mắc nhiều vào cái lỗi chung của nhiều em khác là dùng những tiếng hoang dại, phóng túng qúa tự nhiên của văn nói.
Trong văn viết, nếu không phải đạt vào lời cho một nhân vật trong chuyện cốt để tăng tả thực  trong cách tả diễn của mình, thì nhiều chữ rất không nên dùng.
Một em viết “hai đứa con ngồi ăn khoái, trông thấy bà cụ về cứ “ lờ” đi. Một em khác viết: “ ngày nghỉ, học trò chơi đùa “ thả cửa”.
Em Đăng Nam chưa đến nỗi tệ quà như thế , song em có thể đứng đắn hơn nếu viết “một mạch xe đạp” thay cho “ một tua xe đạp”, một “việc thiện” thay cho “B.A”, anh “ đoàn trưởng” thay cho anh “chếp” (nguyên văn).
Không chú ý làm llinh hoạt một cảnh tượng, không phải lúc dùng lối viết thư để riêng một người đọc, khi cầm bút, người viết văn nên coi như đứng trước đám đông công chúng, nói chuyện tự nhiên mà vẫn lễ phép, đừng để cho ai có thể coi mình là có tư cách rừng rơ, chưa uốn nắn, chưa tu sửa.
CAI VƯỜN.
Tám giờ sáng hôm 15 juin 1941.

MỘT BUỔI VUI ĐẶC BIỆT.

Giành riêng cho các độc giả TRẺ EM. Do báo THANH-NGHỊ  tổ chức tại một rạp Cinema ở Hanoi với sự giúp sức của một số học sinh truo772ng GIA-LONG, utru7ờng TRỊNH-KIỂM và độc giả TRẺ-EM.
Trương trình buổi vui ngày 15 juin 1941.
1.              Đời tiên, ca kịch 1 cảnh.
2.              Đinh – tiên Hoàng, ca kịnh 3 cảnh
3.              Thỏ non ca kịch 3 cảnh.
4.              Bạch Tuyết và bẩy thằng lùn, ca kịch một cảnh.
5.              Một đoản kịch múa rối bằng người thật và các bài đàn hát, các điệu nhảy múa kỳ lạ.
Tất cả các em ở Ha noi đã dự cuộc thi và các em nào đã mua một năm báo TRẺ EM  đều được mời đi xem buổi vui đó. Từ hôm 10 juin đến hôm 13 juin, hồi 6, 7 giờ chiều các em cầm carte d’dentife hoặc recu tiền báo, lại nhà báo mà lấy phiếu mời. Ngoài ra, lại có những phiếu mời để trong một số bào bán lẻ để tặng những em nào may mắn mua được những tập báo ấy.
XIN CHÚ Ý: Các em nào muốn tập hát bài ca của TRẺ EM xin đến tập tại sân trường Gia Long từ hôm 10 đến 13 juin lúc 7 giờ rưỡi tối.
ANH BA LÊM.


GIÀY ĐI CHƠI CỦA TRẺ EM.
Các bạn nhỏ trẻ em đã nóng lòng mong đợi cái ngày đi chơi vui vẻ ấy, cho nên sáng ngày hôm 10 aout, đúng giờ hẹn ái nấy đã có mặt ở chỗ khởi hành. Hai hôm trước trời mưa liền. Sớm nay nắng đã tạnh hẳn, ai cũng thấy ne1t mặt của nhà chủ- nhiệm hết ủ dột đã cùng với ánh sáng hồng của mặt trời vừa ló, tươi sáng hơn.
Đoàn đi chơi lớn nhỏ  có ngót  người. Vừa chật một toa xe.
Đến làng Triều-Khúc, đoàn được ông chủ Lê Văn định đón vào nghỉ ở trường tiểu canh-nông Công – nghệ của làng. Oâng nói chuyện và chỉ dẫn mọi việc. Trường tiểu Canh-nông Công-nghệ ở đầ làng, giữa một cái trại lớn. Oâng phủ Lê lại dẫn đoàn đi xem mấy xưởng Công- Nghệ kiểu- mẫu, trong làng, đưa thăm đình, chùa nơi di tích thắng- cảnh. Mười giờ đoàn trở về trường các em được anh Vượn dạy hát, anh Lém kể chuyện vui, rồi cùng vui vẻ quây quần ăn bữa cơm trưa, do mấy anh tráng sinh làm đầu bếp.
Chiều mát, anh đoàn-trưởng dẫn các em ra sân rộng bên đình, vui vẻ chơi và hát dưới bóng mát cây to, thở hút gió tơm của ruộng đồng. Những điệu hát êm vang của các em đã mời được một số rất đông những bạn nhỏ trong làng đến để cùng vui đùa và chia kẹo bánh.
O giờ chiều , ông Phủ Lê lại thân hành đến phát đồ chơi cho một vài em nhỏ và cùng với đoàn chụp bức ảnh kỉ niệm, rồi lại ân cần đưa chân ra đến tận bến xe.
Được hưởng một ngày đi chơi  ích lợi và hoàn toàn vui vẻ, đoàn du lịch TRẺ EM xi ghi ơn cụVõ Hiển Hoàng đã vô cùng rộng lượng với đoàn, và xin trân trọng cảm tạ.
Oâng Phủ Lê văn Định đã vui lòng hướng  dẫn và săn sóc đến trẻ em.
Bà phũ Lê –Văn –định đã có nhiều quà. Những anh tráng sinh đoàn Lam Sơn và Bố-Vệ, Trần Bá Tuyền, Nguyễn Quốc Vinh, Bùi văn Phúc, Dương Minh Aáp, Hoàng tiến Lộc đã hết sức trông nom các em khi ăn và chơi. Khiến cho cuộc du lịch được mọi phần mỹ-mãn.
Trưởng đoàn: PHẠM-LỢI.
Vì bận việc cuốc sới nhiều quá, anh Cái Vường không được dự buổi đi chơi cùng với các em. Muốn cùng vui với các em anh chỉ còn cách đợi xem bài tường thuật của anh trưởng đoàn. Nhưng anh này không  “lém” thành r anh Cái Vườn chưa được vừa lòng.
Bây giờ anh hứa sẽ tặng giỏ hoa quả cho em nào viết bài tường tuật hay nhất về buổi đi chơi ấy.
L.T.S- Chiều ý anh cai Vườn toà báo ra cho các em đi chơi đầu bài ti sau này: “ em viết thư kể cho anh cai Vường nghe buổi đi chơi ở làng Triều Khúc làm anh tiếc đã không đi chơi vào buổi hôm đó”
Hạn nộp bài đến 6 giờ chiều ngày 10 Aout.
Giải thưởng đầu : 6 tháng báo.
3 giải sau: ba tháng báo.
Trường: HOÀI ĐỨC.
N. phố Hàng Trống Hanoi
Giây nói số 866.
Là một trường nữ học tư thục to nhất ở Bắc-kỳ, có lớp Đồng-ấu đến lớp Đệ-tứ-niên ban cao –đẳng-tiểu-học.
Ngày khia giảng niên khoá 1941-1941.
Ban tiểu học: ngày thứ  hai 11 er Septembre 1941, hồi 7 giờ sáng.
Ban cao đẳng tiểu học:  ngày thứ  hai 1er hồi 8 giờ sáng.
Lưu trữ học sinh:  phải tề tựu tại trường ngày 31 Aout trước tám giờ tối.


CUỘC THI LỚN CỦA TRẺ EM.


530 giải thưởng.
Giải thưởng đầu: một cái đàn Banjo.
Mười giải thưởng hãng nhì: một hộp đủ đồ dùng để đóng lấy máy bay.
19 giải hạng ba: sách truyện vào báo trẻ em.
500 giải thưởng chung: một cái phiếu để dự vào một buổi vui do báo THANH NGHỊ tổ chức sáng hôm 15 Juin 1941.


SỔ VÀNG CỦA TRẺ EM.

CỨU SỐNG HAI MẠNG NGƯỜI.
Buổi tối hôm ấy trong toà soạn, anh chủ nhiệm rút ngăn kéo ra  một tờ báo hàng ngày. Anh sửa lại cặp kính trắng rồi chỉ cho tôi một mục thời sự các tỉnh:
THÁI BÌNH:  NGÀY 23 Avril khi xảy ra tai nạn ô tô ở bến phà Tân Đệ, câu bé Trần Văn Sinh 15 tuổi đã cầm đòn gánh thả xuống nước cứu sống được hai người.
Đọc qua rồi tôi hỏi:
“ anh muốn tôi viết một bài khen cậu sinh?”
-các báo khen đã nhiều. Tôi muốn anh xuống bến Tân Đệ.
-                 Để…?
-                 Để TRẺ EM được làm quan với một người bạn nhỏ dũng cảm. Thế là sáng hôm sau tôi sách cặp ra ga.
-                 7 giở 35 xe lửa tới Nam – Định. Tôi thuê xe ra bến đò, cách tỉnh lỵ dăm cây số, bến cao, sông rộng, lại có chiếc tàu nhỏ để kéo phà sang ngang. Bên này, hữu ngạn là bến Tân Đệ thuộc Nam Định. Sang tả ngạn bên kia mới là bến Tân Đệ Thư Tri, nơi xảy ra tai nạn. Xe tôi tới bến thì nhỡ chuyến phà đành phài xuống một chiếc thuyền nan do hai cậu bé chở sang sông. Lòng sông rộng, gió to dân sóng rạt rào như muốn cản thuyền lại. Nhưng vui câu chuyện, chẳng mam61y lúc thuyến sang đến bến. Một cậu bé chở đò, buộc thuyền rồi
đưa tôi lên đầu giốc, chỉ một lũ trẻ xúm xít bên một ngôi hàng nước giữa trời gần đó mà bào “đứa lớn nhất là Sinh. Ngồi hàng nước của bu nó đấy”. Tôi ung dung bước lại ngồi trên ghế gỗ trước hàng, gọi một bát nước chè tươi.
Anh Sinh, anh Sinh hàng có khách.
Một cậu bé chạc 15 tuổi, mặc áo cánh, quần cộc trắng, tóc rẽ gọn, da ngăm đen, điệu bộ rắn rỏi, nhanh trai, đang ngồi phất diều với 7 , 8 em nhỏ khác nghe gọi, bỏ diều chạy về hàng.
-chào em Sinh.
-Không dám, lạy anh ạ.
-                 Bu em đâu?
-                 Thưa anh, bu em vào làng vắng từ sớm rồi ạ.
-                 Tôi ở Hanoi xuống thăm em và hỏi chuyện em đây. Việc em vớt người mới rồi đáng khen lắm. Nhà em đâu? Đưa tôi về chơi.
-                 Tinh lễ phép đáp. Thưa anh, việc ấy có gì đáng khen. Cũng nhờ số người ta chưa chết nên em mới cứu được đấy ạ. Nhà em gần đây, xin mời anh về chơi nghỉ chân.
-                 Sinh đưa tôi đến một gian nhả tranh thấp nhỏ ở ngay đầu phố Tân Đệ, gần bến đò. Một lũ, năm, sáu đứa trẻ, từ 12 tuổi trở xuống cũng theo chân Sinh và tôi bước vào nhà. Đấy là các em của Sinh.
Này là thằng cu Lợi, này con Tí thằng Tậm vv Đứa có cặp má phính, cái miệng cười xinh, đứa có cái chỏm rất ngộ…
Tôi ngồi bên dườnng hỏi chuyện Sinh:
-                 Bu em vào làng vắng, thế còn thầy em đâu?
-                  Thưa anh thầy em ít khi ở nhà. Từ ngày toh6i là phó Phố, thầy em xuôi ngược luôn luôn để buôn gỗ, nứa.
-                 Các em còn nhỏ, lấy ai giúp việc nhà co thầy bu em?
-                 Thầy bu em được 11 người con cả thẩy. Các anh  nhớn đã đi làm ăn buôn bán. Cũng có người chở đò ở bến  này đấy anh ạ.
-                 Em không đi học?
-                 Sinh có vẻ ngượng ngập. Đưa mắt nhìn xa như vẩn vơ luyến tiếc:
-                 Đã cách mấy năm nay, em được đi học ông đồ. Nhưng được vài thàng, thầy bu em túng quá, lại phải thôi học, bây giờ quên cả mặt chữ rồi. Ơû nhà mãi buồn quá đi mất anh ạ. Ngày ngày em vẫn chở đò giúp anh Tự, hay trông hàng cho bu em, thế thôi.
-                 Em cứu được người trong lúc tai nạn chắc thầy bu em bằng lòng em la81m nhỉ?
Sinh cười: “ Bu em vẫn bảo, cứu người thì nhà mình được phúc”
-                 Tai nạn ô tô  vừa rồi thế nào? Em còn nhớ không?
-                 Uùi chà ! việc ấy làm cho cả phố phải kinh sợ.
Anh ra bến em kể chuện cho mà nghe
Trên bến có kê đá, cao ba bốn tước, đưa mắt nhìn quanh bến một lượt rồi kể:
-                 “ Buổi hôm đó, anh Tự và em đánh thuyền sát bến định đón khách sang ngang. Phà to còn buộc. Dưới phà đã có xe ngựa, xe tay và một ít hành khách. Tàu ở bên bến bên kia đang quay về, mới đến giữa sông thì chiếc ô-tô “con ngựa vằn” ở Thái- Bình đến bến Tam Đệ. Trên xe đầy khách và hàng. Như mọi bận thì xe đỗ lại, tháo bớt khách rồi từ từ xuống phà, nhưng lần này cứ phóng tuật xuống. Xe lao xuống dốc nhanh quá, đâm mạnh vào phà, đứt xích, phà bắn ra xa. Oâ tô mang cả hàng khách tụt xuống sông. Tiếng người kêu như di, nước sông chỗ ấy sủi lên sùng sục- những hành khách nhanh chân, nhảy được ra ngoài ô tô, ngoi ngóp lên mặt nước- hàng hoá nổi lềnh bềnh. Giữa lúc nguy cấp ấy, anh Tự và em vội chèo thuyền tới. Vừa gặp một người đàn ông nhô đầu lên mặt nước, với tay như muốn bám lấy vật gì cho khỏi bị chìm, em sẵn có cái xào đẩy thuyền liền giơ ra cho người ấy nắm lấy. Nhưng khổ qua, sào hơi ngắn sóng đẩy người xa thêm. Em vội nhảy phắt xuống nước, một tay bám mạn thuyền, một tay giơ sào ra. Quả nhiên vừa tầm. Lúc kéo ông ấy lên thì có một người đàn bà vẫn bám chặt vào cổ. Vì vậy cả hai người cùng thoát chết.
Sinh đăm đăm nhìn dòng sông Nhị hà lúc đó trên mặt nước gió goà, sóng cuộn – “nếu bữa ấy mà có sóng gi1o1 như hôm nay thì chẳng còn ai sông xót.”.
Tôi hỏi : “bến này đông đúc, khi thấy tai nạn chắc nhiều người chèo thuyền ra cứu chứ.
-“ vâng, có nhiều người cứu nên chỉ chết có 11 người. Nhưng em cũng hta61y ông trưởng phố than trách, có một vài người tham tâm, tối mắt vì tiền bạc, hàng hoá, nên chẳng kịp vớt người.”
Tôi ngắm vẻ mặt dắn dỏi, đôi mắt tinh nhanh của Sinh, thầm phục tấm lòng Nghị- dũng và trí nhanh nhạy của cậu bế 15 tuổi.
-“ từ trước ở bến này em có thấy ai vớt người bao giờ chưa?”
-“ ồ có, ngày đầu năm, một người đàn bà ở phố đâm đầu xuống sông. Bác tí người bến này trông thấy, bơi vùn vụt ra cứu, cắp được vào bờ. Bác Tí bơi giỏi lắm anh ạ ! anh có quen bác ấy không? Nhà bác ấy ở đà8ng kia kìa- Sinh nhìn tôi trog cặp mắt đầy cảm phục- Bác Tí vớt được nhiều người lắm cơ. Thấy ai gặp nguy hiểm thì dù nguy hiểm đến chết bác ấy cũng nhảy xuống cứu.
-                 Em có biết bơi không?”
-                 Thưa anh em bơi được, lặn cũng được.
-                 “ Giả thử gặp tai nạn hôm nọ mà em không có con sào dài trong tay thì em có dám nhảy xuống nước, bơi ra vớt người không?
Sinh cười thật thà- “ Thế thì em chịu. Mình bé bỏng không đủ sức kéo người ta vào bờ, lại bị người ta nắm cổ dìm xuống thì chết cả. Ai lại dại thế cho béo cá.”
Từ lúc tôi ngồi nói chuyện với Sinh, thằng cu Lợi vẫn trực một bên. Tay nó cầm một cái diều cốc của Sinh vừa  phất ban sáng, và cuộn dây gai, chỉ chờ anh nói thả. Tôi ngồi đã mỏi, liền rủ Sinh đứng dây thả diều chơi. Lũ trẻ quanh đấy chạy đến sung sướng góp vui.
Mặt trời lên cao. Cái diều cốc đu đưa, nhào lượn như một con bướm trắng trên nền trời xanh. Tiếng sáo vi vu từ cao rơi xuống một điệu đều đều êm tai. Tôi chợt nghĩ đến chuyện về Hanoi.
Sinh cột dây diều vào một gốc cây, xuống bến đánh thuyền chở tôi sang. Sinh chèo thuyền rất dẻo. Ngồi trên thuyền tôi nghĩ đến gia đình đông đúc, thanh bạch của cậu bé, liền hỏi:
-“ Anh đọc báo thấy nói vì em làm việc nghĩa nên đã được nhiều người thưởng tiền, các quan chức khen lao. Em còn ao ước gì nửa không?
Sinh lặng lẽ dây lâu rồi đá: “Em chỉ muốn lại được đi học. Nhà lưu- học-sinh trường Thư Tri mới làm xong. Quan chức sẽ cho những học trò ở làng quanh đến học được ăn một bữa và nghỉ buổi trưa ở đó. Giá bây giờ em được đủ tiền mua giấy, bút sách vở theo học với cách anh ấy thì sướng quá.”
Thuyền sang đến bến, Sinh cắm thuyền nhìn tôi cười và nói: “ Bây giờ giá được đi học thì em chẳng lo sợ như ngày trước nữa đâu, anh ạ.”
Trước khi lên xe về Nam Định, tôi cầm tay Sinh chúc cho cậu bé chóng được toại lòng mong ước
ANH CAO.

   Vì không nhập được các số báo nên chúng tôi chỉ nhập nôi dung một số những tác phẩm và một số măng sét báo cũng như một số hình vẽ minh họa trang trí trong các trang báo để bạn đọc có thể dễ dàng hình dung ra được hình thức cũng như nội dung của tờ THANH NGHỊ - TRẺ EM.

Chia sẻ liên kết này...



Add comment