(nguồn: Báo Tuổi Trẻ Cười - ngày 1.9.2019)
Tháng 5.1971 tại Sài Gòn, tạp chí văn Văn Học số 128 thực hiện chủ đề Hài hước trong tục ngữ, ca dao Việt Nam, nhà phê bình nổi tiếng Tam Ích (1915-1972) quả quyết: “Mỗi khi dân tộc Việt Nam cười trong ca dao là cái cười có hai tác dụng: một là quên đi cái đau xót của đời sống; hai là cười để giấu đi cái khóc”. Tôi muốn bổ sung thêm, không chỉ có thế, đôi khi người ta cười, đơn giản chỉ vì thích cười, muốn được cười thư giản lúc lao động trên đồng cạn dưới đồng sâu, giã gạo đêm trăng, chèo đò… Qua đó, cũng là dịp họ có cớ trao duyên, đùa nghịch, châm chọc nhằm có dịp cười phá lên vui vẻ quên đi mệt nhọc.
Thủ pháp tạo ra tiếng cười hầu hết vẫn sử dụng theo thể thơ lục bát, do đó, có nhiều câu đi vào kho tàng ca dao của dân tộc, không thể biết ai là tác giả. Chuyện này, không quan trọng bởi hát hò đối đáp xong, người ta quên đi, ai có nhớ thì có quyền vận dụng lại trong tình huống khác, có thể thêm bớt vài chữ cho hợp lý hợp tình, chẳng ai… thưa kiện bản quyền theo công ước Berne! Vì lẽ đó, đó cũng là một trong những lý do ca dao có nhiều dị bản.
Có thể nói, khi nam nữ hát hò một trong những thủ pháp mà họ thường sử dụng nhằm tạo ra tiếng cười vẫn là cách nói úp úp mở mở về “cái ấy/ chuyện ấy”. Đừng nghĩ đó là sự thô tục, dễ dãi mà chính là nghệ thuật buộc “đối phương” phải vận dụng tài trí khéo léo, tinh tế trả lời lại, nếu không muốn chê là lỗ mãng, thất học, ít chữ.
Ai lên đón gió hỏi mây
Có khuôn đúc trẻ cho đây mượn cùng
“Khuôn đúc trẻ”, khéo quá, cụm từ này thanh nhã lắm. Bị dồn vào thế bí, không chịu thua, bên nữ trả lời ngay tắp lự:
Anh kia ăn nói lạ lùng
Khuôn ai nấy đúc, mượn cùng ai cho
Dạ, đúng chưa ạ? Chưa à. Thì đây: “Hỡi người gánh nước vô lu/ Lại đây anh gửi thằng cu, anh về”. Nói sỗ sàng thế mà cũng nói được? Về nguyên tắc hò đối đáp, người ta đưa ra câu hỏi, dù khó, dù ba que xỏ lá, trêu ghẹo nhưng chớ nổi nóng buông lời nặng nhẹ, phải đáp lại thật đau cho bỏ cái tật cà chớn cà cháo nhưng cũng phải… du dương vần điệu, ấy mới cao cơ: “Em đây gánh nước tưới cà/ Sao anh lại gửi trốc cha anh vào?”. Trốc là đầu. Thế là anh chàng kia, “knock-out” tối mắt tối mũi, chuồn gấp!
Cuộc vui vẫn tiếp tục, bên nữ hò tiếp: “Bóng ai thấp thoáng ngoài đường/ Thì vô ẩn múi cho nường quay tơ”. Ẩn múi nói lái của “ủi mấn”, theo tiếng xứ Nghệ, ủi là đẩy, đào, bới; mấn là váy. Thế thì còn gì mặt mũi của đấng nam nhi? Rồi họ còn tiếng hò với câu đố thiệt khó: “Con rồng kia phải bệnh ngáp dài/ Hỏi chàng quân tử uống bài thuốc chi?”. Bị hỏi dồn tới tấp, anh chàng bèn chọn cách khôn ngoan là đánh trống lảng, lái qua chuyện ba trợn ba trạo: “Hai củ nhân sâm, một củ hoàng kỳ/ Ăn vô nó khỏi, uống thì nó thôi”. Hiểu ra thì cười, chứ nào ai dám bắt bẻ chi. Được trớn, bên nam bèn lấn tới: “Em ơi, anh hỏi em này/ Hai cái chi bụm bịm mỗi ngày mỗi to?”. Thừa biết tỏng, biết hỏi cái gì rồi, bên nữ đáp cũng lém lỉnh: “Anh hỏi thì em xin thưa/ Cây bù trước cửa, có hai quả đu đưa tròn tròn”.
Bù là bầu. Hai từ “đu đưa” thật ấn tượng. Bằng chứng là còn có câu hò: “Gặp anh Ba đây mới khiến hỏi anh Ba/ Làm ăn lâu nay vẫn khấm khá hay vẫn sát da như bọn mình?”. Từ câu hỏi nghiêm túc, sát da tức da bọc xương do thiếu ăn, nào ngờ câu trả lời thật tiếu lâm, bỡn cợt một cách kín đáo mà… lộ liễu: “Thời buổi bây chừ công việc sớt sưa/ Dư không dư, thiếu không thiếu, vẫn đu đưa như mọi ngày”. Cái gì đu đưa?
Nếu cứ giả vờ nghiêm nghị, lên mặt đạo đức (giả) e rằng khó có thể cảm nhận tiếng cười tươi trẻ, phóng khoáng, đầy sức sống trong nghệ thuật cười Việt. Ngày kia, giữa lúc mọi người đang hát hò, có chàng trai trẻ đến sau, trợt chân té ngã sóng soài lấm lem, thế là các cô chộp ngay cơ hội trêu chọc: “Đến đây đàn hát vui xuân/ Khấu đầu bái tạ trước sân làm gì?”. Trường hợp này, tương truyền nữ sĩ Hồ Xuân Hương cũng đã từng chống chế: “Giơ tay với thử trời cao thấp/ Xoạc cẳng do xem đất vắn dài”. Còn ở đây, dù quê cơ nhưng chàng trai láu lỉnh biện bạch: “Đất đâu có đất lạ lùng/ Đứng thì không được, nằm cùng thì cho”. Quả là khôn khéo. Mà cái sự “nằm cùng” này nhiều nghĩa lắm.
Có người hát hò trêu chọc bên nữ: “Nghe em có giếng giang hồ/ Cho anh thả cá tràu vô với nào”. Câu này có gì cà khịa? Xin thưa, không rõ có phải do hình tượng của cá tràu/ cá quả/ cá lóc hay không mà cả ba miền đều mượn nó dùng trong sự ám chí “cái ấy” cho tế nhị? Ở Quảng Nam có câu: “Thiếp tới chàng dọn một dĩa rau/ Hai bên là hai củ hành tàu/ Ở giữa có một con cá tràu nằm ngang/ Ăn vô thấu bụng thấu tràng/ Bữa nay thiếp mới biết của chàng thật ngon”. Biết ẩn ý ở con cá tràu đó, bên nữ nào kém chi: “Giếng giang hồ em có đã lâu/ Để anh vuốt mặt rửa đầu cho trơn”. Câu trả lời độc địa quá đi mất.
Dù quê thì quê, nhột thì nhột nhưng chẳng lẽ chịu thua? Bên nam hò tiếp: “Ra đây anh hượt một sào/ Lạch này coi thử chỗ nào cạn sâu?”. Tựa như con cá tràu, cái sào xuất hiện trong ngữ cảnh này, hoàn toàn không ngẫu nhiên, có chủ đích rõ ràng. Ta lại nhớ đến câu hò khác đầy ẩn ý của bên nữ: “Hai bên cỏ mọc xanh rì/ Ở giữa có khe nước chảy hỏi anh đi đường nào?”. Dường như chỉ chờ có thế, bên nam đáp ngay: “Hai tay anh bu lấy cội đào/ Ở giữa có khe nước chảy anh chống sào anh qua”. Thế thì, trong trường hợp trên khi nghe đến cái sào đầy ngụ ý, bên nữ cứ tỉnh bơ như không: “Lạch này chỗ cạn chỗ sâu/ Sa chân cũng dễ ngập đầu anh ơi?”. Thử hỏi còn câu nói nào đau hơn nữa không?
Qua những dẫn chứng này, ta thấy cách nói úp mà mở, mở mà úp cũng chính là nghệ thuật cười Việt. Ai có ý kiến gì khác, ta sẽ bàn thêm sau. Câu hát ví vừa dứt, mọi người cất tiếng cười ầm, khoái trá. Cười thế mới là cười đứt đuôi con nòng nọc.
TIỂU NHỊ
(nguồn: Báo Tuổi Trẻ Cười - ngày 1.9.2019)
< Lùi | Tiếp theo > |
---|