Hàng ngồi- từ trái qua phải:Lan Lan (người thứ 2)
Những năm 60 của thế kỷ trước, văn nghệ sĩ được chủ trương cho đi thực tế về nông thôn, cơ sở để 3 cùng (làm, ăn, ở) với nông dân, công nhân, để tìm hiểu đời sống lao động và tình cảm của họ trong công cuộc xây dựng miền Bắc, góp phần đấu tranh thống nhất nước nhà. Qua những đợt thực tế này, ba tôi đã đặt chân trên khắp nẻo đường của Tổ quốc. Ông có mặt ở nhiều địa phương, viết được nhiều tác phẩm,ông cũng để lại nhiều tư liệu và ảnh chụp chung với nhiều đoàn, nhiều văn nghệ sĩ cùng thời.
Đợt đầu, lãnh đạo sắp xếp ba tôi ở cùng với nhà thơ Hoàng Minh Châu, nhà văn Anh Đức. Vì thích biển nên nhóm ba người chọn về một Tập đoàn đánh cá miền Nam ở Đồng Hới - Quảng Bình. Nhà văn Anh Đức mới 25 tuổi, làm nhóm trưởng (lúc đó ba tôi 44 tuổi và nhà thơ Hoàng Minh Châu 30 tuổi). Nhà văn Anh Đức, tác giả “Một chuyện chép ở Bệnh viện” nhớ lại trong một bài viết trên tạp chí Kiến thức Ngày Nay số Xuân Giáp Thân:
“Vì tôi viết về văn xuôi và không mấy am tường về thơ, cho nên thật tình những biểu hiện gì mà ngày ấy thơ anh Yến Lan bị qui là có sai lầm, thì tôi không biết rõ, chỉ nghe nói đại khái như thế mà thôi. Còn về bản thân anh, khi đó tôi chưa được gần gũi nhiều, tuy nhiên thấy có cảm tình trước một con người vóc dáng thanh gầy, hiền lành, khiêm tốn, nói năng nhỏ nhẹ.
Chúng tôi về làng cát, thuộc địa phận xã Ngư Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình là nơi cư ngụ của Tập đoàn đánh cá của anh em Khu 5. Chúng tôi được đón tiếp thật nồng nhiệt. Tôi nghĩ tôi có phần được ăn theo anh Yến Lan, vì các anh em ở đây là đồng hương của anh… Chúng tôi đâu ngờ là bảy, tám năm sau đó, Ngư Thủy trở thành một pháo đài chiến đấu anh hùng, với đội nữ pháo binh gái nổi tiếng đã từng bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, bắn chìm nhiều tàu chiến Mỹ”
Sau chuyến đi thực tế về, ba tôi đã viết được nhiều, gửi về đăng trên tuần báo Văn nghệ. Thơ ông được dư luận bạn đọc khen là có sức sống và hơi thở từ một vùng biển lạ. Trong bài viết trên, nhà văn Anh Đức cho biết: “Về phần tôi, thật sự càng ngày tôi càng quí mến anh. Là một nhà thơ tên tuổi, trước cách mạng đã có nhiều thơ hay, kịch thơ Bóng giai nhân, Gái Trữ La.. nhưng anh sống dản dị trong đời thường”.
Thơ ba tôi ở giai đoạn thực tế, chuyển biến rõ; lời thơ dễ hiểu hơn, thơ ông là tiếng nói thông thường của cuộc sống, giản dị, mộc mạc như cách nói của nông dân.
Đất ơi đừng gọi
Cánh buồm đang bay
Ngựa - tôi từng cỡi
Trâu - tôi đã cày
Thuyền - tôi mới lái
Người tôi say sóng
Hay thuyền say tôi
Tôi say cuộc sống
Thuyền say con người
Một ngày lao động.
(Đi khơi)
Hết ra biển, ba lại ngược lên núi, rồi xuống đồng bằng. Lần này ông được bố trí vào ở với một gia đình có hai hộ khẩu (Ứng Hòa -Sơn Tây). Trên những chặng đường ba tôi đến, dù gian khổ, thiếu thốn, khó khăn đến mấy, ba cũng thông cảm và hòa nhập được với người dân nơi đó.
Mái vàng dưới bóng phi lao,
Bốn bên gió thổi rì rào nắng bay.
Chương trình sáng giữa liếp tre,
Vang vang tiếng kẻng đổ về thôn trên…
(Trường trên bãi biển)
để rồi khi ra về lại nhớ tiếc:
Tạm biệt, tạm biệt, này đồi hoa đỏ
Tạm biệt cánh đồng như con mắt biếc
Tôi đến, tôi yêu, tôi về tôi tiếc…
(Bài ca tạm biệt)
Đi thực tế lao động, văn nghệ sĩ dễ nhận ra một điều: Gian khổ, khó khăn không phải là điều đáng sợ. Cái làm cho người ta không chịu được, lúc thì thế này, lúc thế kia; khiến họ nghĩ giữa nói và làm, giữa lý thuyết và thực hành không đồng nhất. Một ví dụ rất cụ thể: Để thực hiện kế hoạch “5 năm đầu Hợp tác hóa nông nghiệp” Trọng tâm của kế hoạch này là tập trung “đưa sản lượng lúa đạt năng suất 5 tấn/ha”. Chỉ vậy thôi mà có tới hai cách làm trái ngược nhau:
Lúc đầu, ông cán bộ khoa học sang Trung Quốc, về hướng dẫn cho nông dân: “Muốn tăng năng suất ta phải cấy thưa”, Và thế là chúng tôi ra rả: “Cấy thưa thì thừa thóc, cấy dày cóc được ăn”. Sau một thời gian không đem lai kết quả mong muốn, chính phủ cử ông cán bộ khác sang TQ; về lại chỉ đạo “Ta phải cấy dày thì mới có ăn”. Để bảo vệ luận điểm đó, người ta quảng cáo bức ảnh Mao Chủ tịch, khuôn mặt hồng hào, bự con, đứng trên ngọn lúa chín vàng, mẩy đều, dày đến độ không hề quằn dưới thân hình vĩ đại của chủ tịch Mao!
Thời gian này tôi hay nghe từ giáo điều. Tại sao lại có từ ấy. Đó là do việc nước ta sang nước bạn học kinh nghiệm làm nông, nhưng bê nguyên cách làm của họ, áp dụng vào ta. Chẳng phải, mỗi nước có phong thổ, địa lý, đất đai, khí hậu khác nhau, không cứ bạn làm sao ta làm vậy, như vậy là giáo điều. Ba tôi có bài “Tĩnh vật”:
Người họa sĩ vô danh đã mất
Để lại tấm lòng
trong tranh
tĩnh vật
Đã bao lâu thầm kín sống quanh tôi
Với một chút trời
vài song cửa
góc tường vôi
Ánh sáng len vào tráng lên đĩa quả
Nhưng bao nhiêu mật hương mùa hạ
Lắng vào đây
xây dựng một lâu đài
Trong màu vàng nghe rõ tiếng ong bay
Như những con người
kề nhau môi má
Những lứa quả tuy xa cành khác lá
Ôm chất tươi
nhìn
muốn vắt ra ly
Hai quả roi trong trắng
mơn mởn nét xuân thì
Đêm mơ mộng vừa qua
tưởng còn cầm hạnh phúc
He hé bàn tay cho trăng tràn lên ngực
Dưa
hiền lương
da lốm đốm vàng
Ai bổ vào lòng đôi nhát dở dang
Ngấn đau khổ đã đọng thành lựu ngọc
Mưa xế nắng chiều còn ngân tiếng khóc
Ổi
ngây thơ
lăn lóc đôi nơi
Lạc vào đây làm những trẻ mồ côi
Tai còn lắng tiếng quê hương ly tán
Và quả táo
nghiêng nghiêng
trầm lặng
Mãi kê đầu nằm ngẫm nghĩ nơi đây
Hình ảnh nhà triết học mê say
Quầng lý tưởng hồng lên vành đĩa
Mỗi nét
Mỗi màu
tương tư tình nghĩa
Những phút lặng thinh
Những giọt tâm tình
Tưởng chợt vỡ
thành nụ cười
nước mắt
Dưới bụi thời gian sáng lên từng hạt
Loan dần ra
điệu nhạc
làn hương
Thức dậy trong người
thời thơ ấu
tuổi yêu thương
Vị gian khổ lẫn mùi hạnh phúc
Khiến mong mỏi
Những bàn tay vuốt trôi mệt nhọc
Những giọt đường pha dịu chua cay
Những bình men rịn bốc rượu say
Những cánh quạt xua tan tủi hổ
Lòng mỗi lúc giá băng
áp vào tranh
thấy lửa
gần nửa cuộc đời cặp theo cánh tôi bay…
*
Cũng trong quãng đời
đi đó
đi đây
Tôi theo bước đôi người
hì hục lao vào cuộc sống
Tay làm gió xoay một chìu chong chóng
Tuông cỏ hoa chân vắt ngược bụi đàng
Những bước lê dài khua tiếng sắt, tiếng gang
Lấy cả giáo điều rán mỡ cho guồng máy nổ
Phút ương yếu lòng tôi luôn nhác sợ
Khi mỏi mê không biết tựa vào đâu
Từng bữa nghe như núi mọc lấn trong đầu
Đè nát xuống những nhớ thương ôm ấp
Chưa thử thịt da trước luồng bão táp
Nhưng lòng tôi dần lạnh tiếng chuông ngân
Giọng khóc
Câu cười
đời nói dưới chân
Bởi họ thiếu
Con tim
Khối óc
Luôn động đậy nhưng chỉ là tĩnh vật
Họ không bằng tĩnh vật sống trong tranh
Đã chiếm hồn tôi
như chiếm một kinh thành
Không cần đến thanh gươm viên đạn.
Nội dung bài này, ông đã mạnh dạn phê phán chủ nghĩa giáo điều là: “Họ lấy cả giáo điều rán mỡ làm quay guồng máy nổ". Dịch giả Đào Xuân Quí, qua Hồi ký “Nhớ lại” xuất bản năm 2002, NXB Văn Hóa Thông tin; trang 142: “Sự thật không phải lúc nào cũng nên nói. Mà khi đã nói, còn phải xem nên nói với ai, nói vào lúc nào, và nói như thế nào nữa chứ! Chao ôi! chỉ việc nói sự thật không thôi, mà sao phiền phức, sao khó khăn, rắc rối đến thế nhỉ”.
Nói tới nhà thơ Yến Lan, nhiều người bảo ông hiền. Tôi thấy ba hiền thật, song lập trường của ông rất kiên định, dứt khoát. Ông dạy tôi: “Chơi với người trên chớ nịnh / chơi với người dưới chớ kiêu”. Nhà văn Võ Văn Trực đã viết: "Yến Lan bao giờ cũng đĩnh đạt, bình tĩnh trong phong cách sống, và trong giọng điệu thơ. Đôi lúc ta có cảm giác anh bình tĩnh với nhịp đi của thơ, làm cho người đọc sốt ruột" (báo Văn nghệ ngày 7/ 6/1991”. Thực ra điều này, tôi ba chưa thức thời, thời này xuất hiện câu thành ngữ mới: “thật thà, thẳng thắn thì thua thiệt…”.
Tốt nghiệp phổ thông, bạn tôi rủ cùng nộp đơn vào Đại học Ngoại thương Ngoại giao (NTNG). Tôi chờ dài cổ để nhận thư báo, thì lại nhận thư của Trường Nông nghiệp! Cầm thư, đưa tôi ba xem; tưởng ông tìm cách tháo gỡ, nào ngờ cụ ca bài: "Tái Ông mất ngựa:, khuyên “Thôi con, được ngựa không nên mừng, mất ngựa không nên tiếc. Biết đâu ở lĩnh vực này con sẽ là nhà phát minh, là anh hùng ;ao động thì sao!.” Ôi! lúc nào ba tôi cũng gợi mở và hướng cho tôi chân trời rộng mở, lạc quan đến vậy!
LÂM BÍCH THỦY
< Lùi | Tiếp theo > |
---|