Kịch thơ GÁI TRỮ LAN của YẾN LAN (hồi I)
Kịch thơ GÁI TRỮ LAN của YẾN LAN (hồi II)
HỒI THỨ BA
Cảnh 1.-
Cô-tô-đài (cảnh ban ngày)
(Trời ảm đạm, gió ngập ngừng. Trên đài vua đang uống rượu cùng T.Thi, đã say khước. Bá Hi chầu bên đang bâng khuâng)
Nhân vật.- (Trong 7 lớp):
Ngô Phù Sai Câu Tiễn
Tây Thi
Một tên quân
Bá Hi
Một tên quân khác
Phạm Lãi
Lóp 1.-
Phù Sai, Tây Thi và Bá Hi
Tây Thi.- (rót rượu dâng vua, vua đang say)
Mời vua cạn hết chén quỳnh,
Cho duyên càng thắm cho tình đừng phai;
Cho hồn trôi đến thiên thai,
Làm chim chung tổ, làm cây chung cành
Làm cho đổ quán xiêu đình,
Thế gian chỉ để riêng mình với ta,
(chỉ ra ngoài xa nói)
Tâu thánh thượng, con oanh đang hót gió,
Cành hoa phương đang tưng bừng khóm đỏ,
Mùa liên-chi vừa xảy những tiền xanh,
Liễu bên kia Thái-địch vẫn buông mành.
Phù Sai.- (say ngất ngưỡng)
Đàm kiều-mỵ, lãng quên bao ngày tháng;
Nay khanh nhắc, thì xanh hồ nhuộm ráng,
Thì biếc non đã trắng những hoa lau
Thì bích-đào đã rời bến ngự -câu!
Bá Hi.-
Trúc-quân tử bên cầu chờ giải bóng,
Cỏ vương-tôn cuối bãi đã câm xanh!
Gấm thái-binh xuống dệt mấy chim oanh;
Hồ Thủy-lịch mơ màng đôi gợn sóng!
(cả ba bỗng nhiên ngó ra xa)
Tiếng đồng giao.-
(trong đưa ra, càng lâu càng rõ dần)
Lá ngô vàng bay,
não nề con phụng,
Con phụng hoàng say!
Ngô vàng tàn rụng
Ngô vàng tàn rụng.
Con phụng-hoang say
Nảo nề con phụng!...
Lá ngô vàng bay.
(Rồi tiếng sáo nổi theo)
(tiếng sáo tiếp)
Phù Sai.- (say hỏi Bá Hi)
Khanh có nghe tiếng ai ca đồng vọng?
Tiếng ca ngọt như ngân đàn lưu đọng,
Giữa mùa sen mà nhắc buổi “bay ngô”
Điệu bỗng trầm mà nghe rõ bi-thu!
Bá Hi.- (mau mắn)
Đấy là tiếng muôn dân vui hớn hở,
Đua ca hát để đua nhau nhắc nhở
Giọt dương-chi nhuần rảy tự xưa nay!
Trên vui say thì dưới cũng vui say!
Tay Thi.- (rót rượu dâng mời)
Mời vua cạn hết chén ngà,
Cho chênh bóng ác, cho tà bãi dâu.
Cho trăng ghé điệu song câu;
So giây cầm sắt nhuộm màu nước mây.
Màn hoa đầu gối lên tay,
Mộng đùa ân ái tới ngày chung qui!
(âu yếm nhìn vua lại nói)
Tâu thánh thượng, hồn xuân trong chén rượu,
Muôn trăng nước tràn dâng tình cố hữu?
Tay run run, hồi họp má phù-dung
Gót bâng khuâng tưởng đắm khói non bồng.
Phù Sai.-
Mơ đêm lại, hồn từng lên nước Nhược,
Xuân tám tiết chực quanh cầu ô-thước,
Mà áo bào đã biến khói mây bay,
Mà thế trần là một cốc hương say!
Bá Hi.-
Và đài tạ đã xanh điêu áo vũ,
Và tình mộng đã tuông tràn thạch nhũ.
(chỉ ra phía sau đài)
Trắng bồ-câu chi chích phủ lầu son,
Đỏ trên cành, trái ngọt đã vun tròn.
Tiếng Đồng dao Lá ngô vàng bay,
Não nề con phụng ! Con phụng hoàng say,
Con phụng hoàng say, Ngõ vàng tàn rụng,
Ngô vàng bay! Não nề con phụng !
(có tiếng tiêu theo ) (vẫn tiéng tiêu)
Phù Sai.- (ngất ngưỡng)
Không ! ý trẫm... hôm nay, không muốn giết.
Dẫn đến đây !...(ngập ngừng)
Thôi đuổi chúng đi đi !
Đừng để cho ca hát điệu sầu bi !
Lớp II.-
Thêm một tên quân.
Tên quân.- (chạy a vào, ngơ ngác, sợ hãi)
Tâu chín bệ, thể thành cao chớn chở
(lại thở hổn hển, líu lưỡi)
Bá Hi.- (nạt)
Còn chi nữa ? Nói xong rồi hãy thở,
Tên Quân.-
Mà Việt-quân đã phá đến ... cung môn,
Ngô-tướng đểu vô vọng bỡi cô đơn !
Bá Hi.- (la to)
Cứu binh hỏa là việc ngoài tướng súy,
Đây là chốn của quân vương tạm nghỉ.
Hãy lui ra liều chết với can qua,
Để tri kỹ ta sẽ gấp tâu qua.
(tên quân lui, tiếng hò reo xa xa)
Lớp III.-
(thiếu tên quân)
Phù Sai.- (say quá độ)
Có chi rộn mà cổ văn gióng giả?
Mà vồ vập nghe rền vang pháo mã?
Bá Hi.- (giấu quanh)
Tâu Chí-tôn, chắc thiên sứ trăm châu,
Lệ hàng năm dẫn cống trước kim lâu.
(chỉ ra xa trấn tỉnh)
Kìa nhạn bạch loi thoi bay đớp ráng,
(chắp tay lại, nhìn Tây Thi)
Vời bệ ngọc cùng nương nương sánh bạn
Nhìn nước non kiều diễm dưới hoàng hôn.
Hạ thần xin xuống chực trước Tây-môn!
(mau mau lui bước)
Lớp IV.-
(thiếu Bá Hi)
Phù Sai.- (dần tỉnh rượu)
Sao bỗng thấy trong tâm can hồi họp,
Gân tai dựt và hàng mi mãi chớp?
(lắng nghe tiếng reo hò )
Bá khanh ơi! (không nhìn thấy Bá Hi)
Tể tướng đã đi rồi (đứng dậy, nheo mắt nhìn)
Bên đông thành nghe động những vân lôi!
Tây Thi.- (dáng tự nhiên)
Giây ngọc lạnh khắp trong ngoài điện cát,
Giỏ huân đến mà rượu ngưng khúc nhạc.
Phù Sai.-
Hay cung nga cũng cùng chúa đua say!
(tiếng la càng gần P. Sai nhìn ra)
Sao bên thành trông rõ bụi cỏ bay ?
Lớp V.-
(thêm một tên quân khác)
Tên quân.- (chạy đâm bổ vào trước vua)
Xin chín bệ hãy gìn vàng giữ ngọc :
Nay binh lữa đã gây cơn gió lốc,
Quân-Việt vương đã đến dưới chân đài.
Đốt kinh thành và tiểm soán kim-giai !
(quì tâu xong đứng dậy chạy ra phía đã vào, nhưng lại hốt hoảng quay lại)
Tướng dẫn đầu đang huy gươm tiến bước.
(chạy vào bên kia cửa)
(khi đó thì Phù Sai hốt hoảng nhìn Tây Thi)
Lớp v.-
(thiếu tên quân)
Phù Sai.-Còn chi nữa ! tan tành rồi mối nước,
(ôm choàng Thây Thi khóc)
Tây ái nương nàng hỡi, phút sinh ly!
(nhìn quanh, gọi to)
Ngự lâm quân (không nghe đáp)
Biến mất lữ kiện nhi!
(tiếng phá ầm ầm rất gần)
Chao, ái khanh (ôm phi, nghen ngào)
Tây Thi.- (quì xuống)
Thần thiếp nguyền một thác,
Giữa những cảnh châu tan ngọc nát;
Cùng quân vương...
Phù Sai.- (rối rít) Ai đó cứu cô gia!
Thôi chết rồi, thế lực đã tiêu ma!
(chạy ra cửa, Tây Thi vịn ngã)
Lớp VI.-
(vắng Phù Sai, thêm Phạm Lãi. Phạm Lãi mặc đồ tướng nhảy vào, giữa lúc Tây Thi lồm cồm vịn đứng dậy)
Phạm Lãi.- Tây mỹ nhân (nhìn rất hiền từ)
Trong phong ba, khói lửa,
Có gì đâu mà đôi hàng lụy ứa?
Có gì đâu mà kém dáng khoan thai!
Hay mỹ nhân luyến tiếc Cô-tô-đài?
(mỉm cười, chỉ quanh)
Đây là chốn đã bay ngô, trổ Việt
Trong trăng gió đã động màn thống thiết.
Đây là nơi U, Lệ thấy vong cơ,
Đây nhạc hoa, khôn rõ vẽ tiêu-sơ!
Tây Thi.- (dáng đang hãi hùng, khép nép)
Đây là mộng, hay đây là cõi thế?
Hay địa ngục mà mười phương khóc kể?
(nhìn kỹ vào Phạm Lãi lộ vui)
Ồ tướng quân! Ồ có phải là chàng,
Chàng, chàng, chàng ? (chỉ vào áo giáp)
Giáp trụ này đã đưa thiếp lên đàng?
Ôi, trăng mộng vẫn phương trời cách viễn
Từ buổi ấy, sang Ngô cùng chúa Tiễn!
(chùi nước mắt)
Dậy lòng đây, khúc cũ, tiếng xuân tiêu...
Phạm Lãi.- (ảo não)
Rồi xa xăm trôi khuất giữa giòng chiều!
Tây Thi.-
Đừng nhắc nữa, bạn lòng ơi, đừng nhắc nữa.
Giữa tàn tạ, phút lòng quên những thủa
Ca họa vui giữa xanh mát nương dâu;
Nước tình xưa tưởng trôi hết thương đau.
Nên tủi lệ mà quên mừng gặp gỡ.
(nhìn quanh quẩn)
Bây giờ đây đời như tàn khói lửa,
Mà trăng xưa đến hồi họp lòng vàng,
Nhưng.... (ôm mặt thổn thức)
Trăng ngày xưa e đà đến canh tàn.
Đừng nhắc nữa, bạn lòng ơi, đừng nhắc nữa.
Phạm Lãi.-
Đây trong cõi mơ say bay khói lửa ,
Đây suy vi và đây cũng tiêu-ma,
Đổi sông hồ lấy một chéo ỷ-la!
(chỉ vào T.Thi cười hé)
Tây Thi.-
Đừng nhắc nữa, dù sao thân cát-lũy,
Kế một thủa đở lao nghìn chiến sĩ.
(mơ màng nhìn phía P. Sai khuất )
Nhưng bâng khuâng hồn rộng đỉnh non vu,
Não lòng đây khi nhớ đến ơn Ngô.
Phạm Lãi.- (lại gần)
Người cõi thế luôn đau về chuyện thế,
Nợ hình hài trả vay nhau vạn kỷ.
Ôi công hầu, khanh tướng lá ngô bay,
Nồi kê vàng khôn chin một cơn say.
Nay trong buổi xuân thu sầu chiến quốc,
Tuy Ngô Việt đến đây là đổi cuộc,
Nhưng giàu sang dễ nhóm trận phong ba,
Và ngai vàng là trường mộng Nam-Kha .
(gật đầu suy nghĩ)
Câu “điểu tận cùng tằng” truyền vạn thủa,
Xong nợ nước thì công đành rứt bỏ.
(nhìn T.Thi âu yếm)
Muốn mỹ - nhân về lại chốn thiên nhiên.
Tây Thi.-
Biết làm sao mà ngày tháng vùi quên?
Phạm Lãi.-
Cổ nhân kẻ thì dạ dạ-du bỉnh chúc,
Ẩn núi non mát dạ món rau vi,
Có người thì lưng túi vải ki
Dạo vạn lảnh tìm tòi trăm vi thuốc,
Cũng có kẻ bờ Vi sơn chén thuốc.
Có người băng chín ngọn tìm tiên (âu yếm)
Ta với phi sẽ nổi một con thuyền
Đổi tên họ để tiêu giao ngày tháng.
Năm hồ nước sẽ rửa trôi thán oán,
Một chòm râu này buông giải tâm tư.
(cười chỉ tóc T.Thi)
Mái tóc mây rồi tan hết lao lư.
T.Thi.-
được như thế thì thiếp nguyền nối gót.
Dẹp son phấn qua bên lòng ủ dột.
Phạm Lãi.- (vui vẻ chỉ ra xa)
Bên nam môn có một khúc sông sâu,
Một con thuyền đã buộc khuất trong lau.
Phạm Lãi, Tây Thi.-
(đồng ngâm, đi dần cho đến khuất)
Núi kia là cũ ruộng đâu,
Sông kia là cũ những đầu non cao.
Người chim bao, ta chim bao,
Tỉnh say, say tỉnh ai nào rõ ai !
Thênh thang, gió lộng mây dài!
Lớp VII.-
Thêm Câu Tiễn vương
Câu Tiễn.- (chạy vào thở)
Tây-nương nương,Tây-nương nương!
(dừng chân, nhìn thơ thẩn, buồn)
Vừa dưới đài thóang thấy áo choàng vương,
Mà đến đây, phụng hoàng đâu mất dấu!
Tấm nhan sắc, lừa binh sao kết cấu!
(muốn xoi tìm lại dừng)
Không, không, không, vàng ngọc có ra tro,
Nhưng lý nào kiều-diễm biến hư vô!
(bỗng ngước nhìn xa)
Ai như gấp bụi vàng trên vó ngựa,
Mà giáp trụ rỡ ràng khác Ngô chúa.
Đang mang nàng xa xảy nạn trùng vi?
(chạy theo)
Đợi ta cùng, hởi, hởi ái Tây-Thi!
MÀN HẠ NHANH
CẢNH II.-
CÔ-TÔ TÀN PHÁ
Cảnh đài Cô-tô bị phá tan tành, vôi gạch ngổn ngang, khói đang nghi ngút.
Nhân vật.- (trong 3 lớp)
Câu Tiễn vương thi hài vua Ngô (nằm
Một tên quân khuất phía trong)
Tiếng đông giao văng vẳng. Tiếng quân sĩ vui reo gần gần.
Lớp 1.-
(Màn mở ra, sân khấu chưa thấy ai, chỉ có vôi gạch
ngổn ngang. Thây vua Ngô khuất phía trong. Một đám khói đang bốc).
Tiếng đồng giao.- (văng vẳng)
Hao mòn thân phụng,
Nhánh Ngô tàn lay,
Con phụng hoàng bay,
Ngô tàn thôi rụng,
nhánh Ngô tàn lay.
Con phụng hoàng bay,
Ngô tàn thôi rụng,Hao mòn thân phụng,Một tiếng vang to, giọng vui thích
Ha, ha, ha, đài Tô, đài Tô, đài Tô;
Đến bao giờ cho trăng hết xương khô.
Dâng tử hồn một chén,
Rồi chung cạn trăn hồ.
Nhiều tiếng khác rập nhau.-
Ha, ha, ha, đài Tô, đài Tô, đài Tô;
Đến bao giờ lượu máu chảy ra mơ!
(tiếng vỗ tay vang dậy)
Tiếng đồng giao.- (văng vẳng
Hao mòn thân phụng, Nhánh ngô tàn lay,
Ngô tàn thôi rụng, Con phụng hoàng bay,
Con phụng hoàng bay, Ngô vàng thôi rụng,
Nhánh Ngô tàn lay. Hao mòn thân phụng.
(tiếng quân reo) (tiếng vỗ tay vang dậy)
MỘT TIẾNG VANG TO.-
Ha , ha, ha, rượu rồi, rượu nữa, rượu cho say,
Cho bỏ hồi sông, ải lặn đêm ngày,
Nương dâu kìa ráng ngã,
Không một lá thu bay.
Nhiều tiếng rập nhau .-
Ha , ha, ha, rượu rồi, rượu nữa, rượu cho say,
Cho bỏ đời da ngựa bọc ngoài thây!
(Câu Tiễn chậm rãi bước ra)
(ngâm)
Cô-tô tàn rụng bóng sương mai,
Nhạc lạnh, cành trơ, gió thở dài.
Cỏ héo khéo trêu hồn cưu mộng,
Nhung điều trăm gót lót chông gai.
(chỉ quanh, nói)
Hôm qua đây hát múa dưới phương tùng,
Rượu hồng hoen trên nếp áo kim nhung.
Nay gạch nát trơ vơ bên đóm lửa (gật)
Ngọc hội hoàn đã phong trong bì ngựa.
Thê lương trôi trong trường hận cầm ca.
Còn gì đâu là đài diện nguy nga (mai mỉa)
Con chim Việt trên cành Ngô đã đậu (chỉ xa)
Đèn triêu-đương đang dần dần tắt máu.
(cười ha hê)
Hết những ngày nếm đắng, chích sô gai,
Một can tràng để thu lại đôi ngai.
(khuỳnh hai tay mơ màng, đi qua lại
Bỗng thấy nét mặt bức rứt)
Nhưng Tây-tử mà hình trôi giữa mộng,
Sắc kiều-diễm qua hồn ta gợn sóng!
Sao lúc này xâm lấn cỏi lòng nghiêm,
Gợi tình xuân tư tưởng chuyện cung thềm.
(nhìn quanh quẩn)
Bây giờ đây, nàng là chim gặp gió,
Hay sương mai đã tan trong thảm cỏ. (vỗ trán)
Trắng đêm qua tiếc mến một yêu kiều,
Tựa nhung vàng nghe gió thổi hiu hiu
(tìm trong ngói gạch)
Nếu có bởi vô tình đây gạch ngói,
Mà vàng, ngọc đã tan tành ra mây khói.
Thì hận lòng sao xiết nối bi-ai.
Buộc hồn xuân trong tuyệt vọng lâu đài.
(im lặng, tai nghe)
MỘT TIẾNG VANG TO
Ha, ha, ha, cất tên, dẹp giáo, lau gươm,
Bể bình minh lặng sóng đã giong buồm.
Chờ người tuyệt sắc nữa,
Tiếp đền nợ áo cơm!
Ha, ha, ha, cất tên, dẹp giáo, lau gươm,
Bể bình minh đang chờ mọc sao hôm.
NHIỀU TIÉNG VANG DẬY
Hãy chờ người tuyệt sắc khác,
Tiếp đền nợ áo com sau:
Ha, ha, ha, cất tên, dẹp giáo, lau gươm,
Trên nền trời, kìa đã mọc vòm sao.
(vỗ tay la ó vui cười)
Câu Tiễn.- (gật đầu)
Tiệc khao quân đã sẵn thức trân-hào,
Dẫu sướng vui : (suy nghĩ, nheo mày)
Mà ta xót tâm bào ? (bỗng nở mặt vui vẻ)
Ôi, rồ dại, khải hoàn ca trước mặt,
Là cảnh tàn phá của mê ly sóng sắc.
Lòng hỡi lòng, hãy tỉnh giấc say sưa,
Trên vườn xuân sao còn trát mây mưa !
(lủi thủi bước, lắng tai)
LỚP II .-
Tên quân vào, (quì xuống)
Tâu Việt chúa, hôm nay vào phục mệnh :
Nghìn tướng sĩ từ vâng lời khiển khiển,
Chưa bao giờ để hở lọt vòng vây,
Có lẽ nào Ngô chúa đã xa bay.
Câu Tiễn.- (gắt gao)
Đã lục sót hết cung vi, cấm dịch ?
Tên quân.-
Không thiếu sót một hang, hầm, cống lạch.
Câu Tiễn.- (buông dài tiếng )
Cho lui ra và cứ tiếp nã tầm.
Trình tướng binh !...
Tên quân.- (cúi và đứng dậy)
Chúc thọ thế muôn năm !
LỚP III.-
Thiếu tên quân
Câu Tiễn.- Thơ thẩn bước
Ngâm : Ở đây âm khí nặng tiêu vong,
Gót ngọc dầm sương lạnh giá đồng.
Trong buổi binh đao mờ cát bụi,
Chuyện lòng xin hẹn với non sông!
(đi một vòng, bước tới thì đụng thây vua Ngô, giật mình, đứng nhìn)
Thi hài ai cóng lạnh ở nơi đây?
(nhìn kỹ, chỉ từng vật)
Mảnh hoàng bào, đôi ngọc cỏn thêu mây,
Và năm sắc rồng đoanh trên mảo miện!
(cười vui khoái)
Thôi Phù-Sai, Phù Sai đây mạo diện,
Phù Sai đây vàng ngọc, Phù Sai đây, (lắc đầu)
Thể cốt còn, hồn nương gió heo mây.
(chống gươm, cười ngạo)
Ngươi có nhớ Bích-liên thôn sầu quạnh,
Lòng tù tội: sương, thu dầm úa nhánh.
Mà ngôi cao ngươi hả nghiệp đồ-vương,
Cô-tô-đài lại dựng lấp tam-sương.
(chỉ vào thây, trừng mắt)
Ngươi có nhớ ngày ngôi cao hống hách,
Trên long-sàng a-hành thân biếm trích ?
(chỉ xung quanh)
Bây giờ đây ca-nhạc chẳng reo cho
Cô-tô-đài vàng ngọc nát theo tro (cười)
TIẾNG ĐỒNG DAO .-
Mây trắng đỉnh non Vu,
Sông sâu đưa lá thu.
Ngựa còn quay cổ lại,
Ánh dương đuổi sa mù.
Mù sa anh dương đuổi,
Ai ra vào non Vu ?
Ngựa có hồi quay cổ
Sông sầu tống biệt thu,
Câu Tiễn.- (nhìn quanh, gật đầu, đổi nét mặt)
Nhưng dù sao vẫn là lân-ly cũ,
Cưu thù hận không phải lòng quân tử.
(làm mặt đau đớn, vỗ thây chết)
Hiền vương, hiền vương, hiền vương,
Nằm chi đây rét mướt ở trong sương !
Nằm chi đây ngọc vàng ai xa-xỉ ?
Nằm chi đây để cách xa Tây-Tử !
Dậy đi thôi, trăng gió đỉnh non Vu,
Rặng yêu đào đang lộng ngọc âm u !
(nhìn và ảo não thêm)
Hiền-vương hởi, có thấy chăng, chúa Việt,
Vì nghĩa cũ mang mang sầu cách biệt,
Đã lên đài tìm kiếm bóng chơn long ! (vỗ thây)
Lại gặp người đang lạnh giấc muôn đông.
(ảo não, vỗ thây)
Ta với chúa nghìn năm rồi cách biệt,
Hận nghin năm từ đây là khúc chiếc !
Rồi nghìn năm mơ tưởng đến non sông.
Thì nghìn năm sầu gửi đến hư không !
(có tiếng quạ kêu vang)
Kìa ác-điểu đã nương theo bể khi
Lượn trời âm để phân thây tử-sĩ !
(đứng dậy hét, không rời xác Ngô Vương )
Ngô Phù Sai người có thấy hôm nay,
Ngô Phù Sai người có biết rồi đây ?
Trong thanh sử muôn năm ghi dấu dạng :
“vì tửu sắc mà làm thân mạt-hạn!
Tư chín trùng lăn xuống đám ô-kê, uê
Bởi không gìn, trí có đã say-mê.
(lấy gươm, vùi gạch, vôi lại tấp thêm vào những chỗ
thây, hở ra ngoài, rồi cởi lấy chiến bào phủ lên trên. Rồi đứng nhìn não nuột, trong khi đó thì có tiếng quạ kêu to.)
Vạn sông núi thu vào ba thước đất,
(chỉ vào thây Ngô vương)
Đây cuối cùng, một trí lự cần lao
Đài chiến công giữa gió đã xây cao
(vung gươm)
MÀN HẠ NHANH
Viết xong tại Thanh Hóa ngày 26/5/1943
Chép lại ngày 22/3/1944
(Đã diễn tại T. H 2 đêm 13-14 - Diễn ở Huế năm1944 trong tháng Avril trước khi sửa -sau khi sửa)
< Lùi | Tiếp theo > |
---|