Năm 1875, cách đây đã một trăm lẻ ba năm, nhà tiền bối Trương Vĩnh Ký đã có ý mới mẻ soạn một cuốn “cua”: “Petit cours de géographie de la Basse - Cochinchine” bằng Pháp văn, nói về “tiểu địa dư ký Nam kỳ lục tỉnh”.
Tại sao ông không viết ra quốc ngữ, lại viết bằng tiếng Tây? Theo ý tôi, có lẽ ông muốn một mũi tên bắn được hai chim, ông vừa có ý dọn bài cho mấy ông mấy thầy làm cho Pháp có dịp trau dồi thêm tiếng Pháp, lại nữa ông muốn thừa dịp dạy bọn môn đệ lang sa, tham biện chánh tòa, có sách chỉ nam gọn nhỏ dùng cho tiện. Cuốn sách này, khổ giấy 12x18, vỏn vẹn chỉ năm mươi mốt trang thôi, không rõ số in bao nhiêu, nhưng tiêu thụ rất chạy, khiến nên ngày nay còn sót lại rất ít. Không vẽ địa đồ, nhưng gồm toàn bảng thống kê rất quí kể về sông rạch, núi hòn, cù lao, v.v.. chánh tả rất đúng, tuy xen kẽ chữ Pháp và chữ ta, mà đọc nhứt khái quán hạ, xem dường viết cùng một thứ ngôn chữ chung.
Vào năm 1944, lúc còn bỉnh bút tờ Đại Việt tạp chí và tờ Nam kỳ tuần báo, ông Hồ Văn Trung, tự là Biểu Chánh, có cậy nhà nho Thượng Tân Thị phiên âm ra quốc ngữ bộ sách Hán văn của Duy Minh Thị soạn năm 1872 (Nhâm Thân), nói về đất Nam kỳ, rồi trong bài tựa, ông Biểu Chánh đã phàn nàn chính ông không có cuốn cua nhỏ của ông Trương Vĩnh Ký để tham khảo.
Tôi may, tìm được cuốn nầy, nên dọn lại để công đồng lãm. Duy tôi xét, nếu in đúng nguyên văn thì ngày nay chữ Tây ít người dùng, cuốn sách sẽ bất hiệu lực. Lại nữa có nhiều đoạn, nay không cần thiết mấy, tỷ như mục nói về tổng xã, phép cai trị, thì đã có sách khác đầy đủ hơn, cũng như đoạn nói về vị trí Nam kỳ trong khối Đông Dương thì đã quá quen quá nhàm, nay lặp lại vô ích, nên tôi đã lược bỏ.
Trong tập cua cũ nầy, có nhiều trang ông Trương Vĩnh Ký thu gọn và viết rất công phu, khảo về địa danh cũ gốc Cơ-me, thì tôi sao lục đúng nguyên văn; tiếc thay có một chỗ, ông ghi rõ ràng “voir à la fin du volume la note concernant les noms de ces différentes circonscriptions sous le régime… cambodgine”, tuy viết vậy mà tôi tìm mãi không thấy đoạn ấy, mặc dầu cuốn cua tôi có, không thiếu sót trang nào; vậy tôi xin tùy sức có hạn, điều tra bổ túc lại, chỉ tiếc không người thông thạo phụ lực với tôi, và việc làm nầy không phải dễ.
Ngày nay lề lối làm việc biên chép đã đổi: cố lấp việc cũ để cho thế hệ sau chóng quên, xây dựng viết lại theo mới, cho vừa ý mình, lợi đâu chưa thấy, nhưng xin hỏi Blao hóa Bảo Lộc, Djiring biến Duy Linh, đúng là tiếng Việt và nghe đẹp tai thật, nhưng sông sâu kia ai đào, núi cao kia ai đắp, quên rằng “mộc bổn thủy nguyên”, được uống nước hãy nhớ nguồn mới ra người có sau có trước. Phương pháp cổ nhân coi vậy mà bảo tồn hơn. Vả lại lúc ban sơ, vào đây ở nhờ ở chung, muốn sửa đổi cũng không sao được. Phải nói như nhau mới mau hiểu, họa chăng biến cải đi đôi chút cho khi nói đừng bẻ miệng bẻ mồm là được rồi, lại còn nương từng chữ một mà viết lại ra nôm cho đừng quá sai lạc điển tích, là một vấn đề khác, cổ nhân cũng nghĩ nhiều.
Tôi không thạo chữ nôm, nhưng dám xin mạn bàn: tỷ như địa danh “rạch Bò Ót”, mới viết làm sao đây? Đâu phải làm bằng thịt bò mà viết theo bộ “ngưu”. Bò Ót là tép tươi làm ra con mắm tép, nên cổ nhân viết “Bàu Ót” và tôi xin chừa cho người thành thạo bàn giảng tiếp. Cũng như một tỷ dụ khác: địa danh “Rạch Lá Buôn”, phải viết không hay có g? Tra quyển “Khảo về chánh tả” của anh Lê Ngọc Trụ và bộ tự điển mới của Lê Văn Đức, thấy viết “Buôn”, bỗng gặp trong sách của nhà thảo mộc học Petelot lại viết “lá buông”, vậy mới làm sao đây? Tủi cho mình ty tiện và không chắc gì đến thư viện có sách sẵn để nghiên cứu, đành bóp bụng mặc dầu gạo châu củi quế, xuất ra một số tiền mua sách Chợ Trời, khiến cho gặp cuốn cua nầy. Không khác đào được vàng chôn. Nhưng nhớ lại vàng chôn là cấm kỵ. Sách cũ mặc dầu hay lạ, có còn tồn tại được không ? Bỏ đi không nhớ việc ấy, để tìm cho ra “lá buôn” là gì, và “lá buông” là thứ lá gì? Hóa ra đã quên mất mình già, và học đ?ợc đôi ba chữ mới: Sách cua “Tiểu địa dư” của ông Trương Vĩnh Ký viết:
Lá buôn là bối diệp;
Lá buông là bồng diệp.
Té ra hai thứ lá đều có thật, và nếu sớn sát đinh ninh chỉ có một thứ lá là lầm to và đầu độc thiên hạ, tội ấy về ai? Bỏ công điều tra thêm chút nữa thì biết được:
- Lá buôn, chữ là “bối diệp”, thì là dùng chép kinh; bối diệp kinh: sutra Cơ-me.
- Lá buông, chữ là “bồng diệp” dùng lợp nhà, đan kết làm quạt, lọng, buồm; Sóng lá, chuốt làm tên, làm đũa, làm gậy cầm tay; lại có loại gọi cây mật cật, cây kè, gỗ dùng làm liễn, ôm cột nhà gọi liễn kè; thật là rừng nhu biển thánh, nếu sống mãi, vẫn học hoài và cứ còn chữ mới để học. (Lá buông, người Cơ-me gọi “treang” (theo Alfred Petelot) và đừng vội ghép với “tranh” mà Cơ-me gọi sheou hay là “somao kantuy sès (tr. 279, tập III Petelot). Sheou biến ra “sậu” “srậu” (lúa), somao cũng gọi smao là cò, kantuy là đuôi, sès là ngựa, somao kantuy sès, dịch là cỏ đuôi ngựa, đích thị là “tranh” để lợp nhà:
Rắc rối thay tiếng Việt; vì ở Nam kỳ không đủ lá buông để lợp nhà, khi đến vùng nước ngập, có cây dừa nước, người Cơ-me đã dùng lợp nhà, nên người Việt cũng bắt chước dùng theo, rồi quen đi và có thêm hai danh từ mới:
- Lá buôn (viết theo anh Lê Ngọc Trụ) là lá dừa nước nguyên tàu, chẻ hai ra theo dọc dài, phơi khô, lấy lợp nóc và đừơng vách thì gọi quen làm vậy, còn:
- Lá cần đóp, là lá dừa nước ghép chằm lại trên một cọng lá theo chiều ngang, khi lợp trên nóc hay khi chắp thành vách vẫn chắp ngang, và cả hai tiếng, theo tôi, cũng là biến thể của hai tiếng Cơ-me đã lạc gốc khó truy ra căn cội.
Đến đây, đã quá lẩn thẩn, nên không dám viết thêm. Lòng ngậm ngùi nhớ lại đời không có chi là trường cửu. Sức lực đức Thánh mà còn bị hạ bệ Tượng đồng của Trương Vĩnh Ký nay chỉ còn vết thẹo trên chỗ đứng. Duy sự trước tác của ông, tuy vậy mà tồn tại, và người người vẫn dùng... Dầu sao dời vật đổi, tôi nguyện không quên ơn người để chữ lại.
Cẩn tự.
VƯƠNG HỒNG SỂN
(nguồn: Bên lề sách cũ - NXB TH TP.HCM - 2013, từ tr. 5 đến trang 10)
< Lùi | Tiếp theo > |
---|