Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Trung niên thi sĩ Bùi Giáng sinh năm 1926, thuộc dòng họ Bùi có tiếng ở Vĩnh Trinh (Quảng Nam). Suốt một đời, ông chỉ sống với văn chương và triết học.
Trích trong tập sách Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay của Tạ Tỵ in tại miền Nam 1972. Tư liệu L.M.Q
Bùi Giáng là hiện tượng văn học không dễ lý giải. Có lẽ một vài thế hệ sau, khi con người trầm tĩnh lại, lúc ấy mới có thể bàn đến thi sĩ vừa tỉnh vừa cuồng này. Bây giờ, thơ văn, dịch thuật và nghiên cứu triết học của ông đã in lại. Mưa Nguồn, NXB Hội Nhà Văn, in 1993.
Nhớ lại khoảng cuối những năm 50 đầu 60 ở miền Nam, khi các tập khảo luận về Tản Đà, Bà Huyện Thanh Quan, Chu Mạnh Trinh... ký tên Bùi Giáng ra đời, người ta đã thấy ở đây một giọng điệu lạ lùng trong việc tìm hiểu, khám phá các tác phẩm, tác giả. Phân tích Qua Đèo Ngang, Bùi Giáng đã đẽo tạc nỗi lòng lữ thứ của nữ sĩ đất Tây Hồ bằng một thứ ngôn ngữ chất ngất nỗi niềm triết học. Cả khi bình Hương Sơn Phong Cảnh của Chu Mạnh Trinh, ông cũng phủ lên bao sương khói hư huyền. Trước đó và sau đó không có văn ấy, giọng ấy.
Về thơ cũng vậy. Ông thổi vào Mưa Nguồn một hơi thở với rất nhiều hương đồng gió nội. Thơ mang âm sắc lạ lùng, gây ngỡ ngàng không ít cho bao thế hệ người đọc. Dần về sau, cánh cửa thơ ông uyên áo quá, khó đi vào. Đọc Mưa Nguồn, tiếp xúc với chuồn chuồn, châu chấu với cồn xưa cỏ mọc, với truông đèo và những địa danh quen thuộc của xứ Quảng như Trung Phước, Cà Tang, Trà Linh, Tý Sé, Phường Rạnh, Dùi Chiêng, Hòn Kẽm, Đá Dừng... người đọc hiểu đoạn đời 15 năm chăn dê ở núi đồi Trung Việt trong Nỗi lòng Tô Vũ của ông. Phải chăng ông mượn điển tích Tô Vũ, tự Tử Khanh, thời Hán Vũ Đế, từng chăn dê gửi tình yêu đến với bát ngát thiên nhiên ?
Mưa Nguồn, có đến một phần tư trong tổng số bài nói đến mùa xuân. Ở đây, có xuân sớm, trời xuân, ngàn xuân, bờ xuân, đầu xuân, cành xuân, mộng xuân, trái xuân, bến xuân, ruộng xuân, đường xuân, thư xuân, dòng xuân ... Xuân của Bùi Giáng còn có cả màu: màu xuân se, màu nguyên xuân, màu xuân. Xuân như suối nguồn chảy ra từ một cõi uyên nguyên nào, không cụ thể. Đó là thứ xuân đầu chứa đầy chiêm bao, huyền thoại, hư ảo quyện với cuộc đời thực, nhiều mơ mộng:
Mai sau hẹn với ban đầu
Chờ nhau ngõ khác ngó màu nguyên xuân
(Hẹn ước)
Những trùng ngộ, sơ ngộ chợt đến chợt đi, nghe mùa xuân không đổ lục bên đuờng mà xuân xanh xô cổng chạy dài, đến một mùa xuân hấp tấp, xuân hối hả, xuân bay biến ... người đọc nhận ra cái gì đó đang rời bỏ và con người hốt hoảng níu giữ. Phải vậy chăng mà Bùi Giáng khát khao và ngây đi dưới mùa xuân man dại, tha thiết đứng lại nghe xuân, mong mỏi dựng lại trời xuân để giữ một giòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại? Mưa Nguồn có đến 10 bài có tựa đề nói đến mùa xuân. Đó là những Chào Nguyên Xuân, Mùa Xuân, Xuân Xanh, Xuân Bình Dương, Thư Xuân, Lời Xuân, Xuân Thôn Nữ... Song, mùa xuân không được nhìn dưới góc độ của một không gian, thời gian cụ thể. Tất cả đều là trùng vợi của cố quận, của ngàn mây, của đất trích chiêm bao:
Màu trời đó bữa nay về trở lại
Một mùa xưa người nhớ chứ năm kia
Ngày chạm mắt dưới mùa xuân man dại
Dịp trùng lai em hẹn với tan lìa ...
(Màu trời đó)
Ngày mở mắt ngó trời xanh xa thế
Ở đây là màu đất cỏ xuân non
Hè nắng hạ với thu đông buồn thế
Với tình yêu em giữ mất hay còn
…
Giờ khép mắt nhớ một lần ngẫu nhĩ
Nhớ rất nhiều ngày loạn ngửa đêm nghiêng
Cuồng dại nát liễu hờn xuân rủ rỉ
Giờ ra đi em cảm thấy có quyền
(Khép mắt)
Cảm thức về sự bay biến của thời gian đã dựng lên trong nhiều bài thơ xuân của Bùi Giáng cái dư vang vô thanh (chữ dùng của thi sĩ) về những hoài niệm xa vời vợi. Chẳng thế mà ở tập Mùa Thu Trong Thơ Ca (NXB An Tiêm, Sài Gòn, 1970), khi nói về Xuân Người Tàu Ngày Nay, nhà thơ đã viết: "Người Tàu ở Chợ Lớn dường như có phần không thơ mộng bằng người Tàu trong thi văn cố quận của họ". Bởi lẽ là:
Thời gian chắn bước chân chiều
Khóc sông bến lạ, mưa chiều sớm xuân
(Cỏ hoa hồn du mục )
Hoặc:
Màu con mắt bên mùa xuân xiêu đổ
Ở bên kia nhìn trở lại bên này ...
(Người đi đâu)
Bên kia là đâu? Bên này là đâu? Không biết. Chỉ thấy rằng, màu nước chảy, màu lãng đãng, màu lở dở xen giữa màu xuân khiến cho thi sĩ muốn ủ lại xuân phơi giữa bốn trời. Với ngần ấy sắc thái xuân, ta có thể gọi Bùi Giáng là thi sĩ của những mùa xuân phôi pha.
H.V.H
< Lùi | Tiếp theo > |
---|