Thi sĩ Hồ Thấu (1918-1949):
AI BĂNG ĐƯỜNG MÁU ĐẾN MÙA THƠM
LÊ MINH QUỐC
Trong trí nhớ của tôi, thi sĩ Hồ Thấu là một tên tuổi nhiều ấn tượng. Trước hết xin nhắc lại một câu chuyện về… giải thưởng thơ. Rằng, đầu năm 1970, giài thưởng văn học nghệ thuật ở miền Nam đã trao cho hai tác giả Hoàng Thoại Châu và Trần Tuấn Kiệt. Bấy giờ đã là một tên tuổi trong làng thơ, ông Trần Tuấn Kiệt đã viết tập sách nghiên cứu Thi ca Việt Nam hiện đại, in năm 1968, dày 1150 trang bình luận về thơ. Bấy giờ, đọc tập sách nghiên cứu đó, không riêng gì tôi, nhiều người yêu thơ đã nhạc nhiên trong đó ông chọn cả Hồ Thấu. Sở dĩ ngạc nhiên, vì chúng ta thừa biết Hồ Thấu là một nhà thơ của kháng chiến. Tư liệu này, có lẽ ít ai biết đến, nay ta cùng đọc lại để xem vị trí của một nhà thơ quê ở Duy Xuyên (Quảng Nam) đã được ghi nhận như thế nào?
Về tiểu sử của thi sĩ Hồ Thấu, theo nhà thơ, nhà phê bình văn học Trần Tuấn Kiệt thì ông sinh khoảng năm 1916-1917, thật sự ông sinh năm 1918: “Hồ Thấu gia nhập kháng chiến và làm thơ chuyền tay. Đến năm 1947 thi sĩ bị đau tim về ở trong một cái miếu hoang ở bờ biển Tam Thanh. Trong khoảng năm 1947, ông mất. Có người ghi lại rằng lúc đang hấp hối thì bạn thân của ông, tức Ấm Kỳ về thăm. Ông hồi sinh sau một ngày tê liệt, và tự nhiên bảo Ấm Kỳ lấy giấy bút ra chép bài thơ “Gửi Kỳ” do ông ứng khẩu đọc ngay. Khi đọc xong bài thơ, ông ngã ra tắt thở”.
Chi tiết này quá thú vị, quá độc đáo, khiến ta nhớ đến cái chết của thi sĩ Đông Hồ tại giảng đường Trường Đại học Văn Khoa Sài Gòn sau khi đã ngâm bài thơ viết về Trưng Nữ Vương của nữ sĩ Ngân Giang. Nếu Đông Hồ đứt mạch máu não vào lúc ngâm câu thơ: “Chàng ơi điện ngọc bơ vơ quá/ Trăng chếch ngôi trời bóng lẻ soi" thì Hồ Thấu tắt thở vào lúc vừa dứt câu thơ: “Biết nhau duyên đã muộn màng/ Tri âm chưa mấy, vội vàng chia ly/ Thơ ta, Kỳ hãy ngâm đi/ Tơ trầm xưa trước giọt tỳ ánh trăng”.
Về trường hợp phút cuối của Hồ Thấu, Trần Tuấn Kiệt có lời bình là “nghe như một huyền thoại nhưng sự thực là thế, cũng như biết bao nhiêu chuyện đã xẩy ra trong thời kỳ chiến tranh, cũng giống như các mẩu chuyện ly kỳ trong tình sử xưa nay. Nhưng tình sử hay thi sử này nói lên tâm trạng của một người đi kháng chiến”. Vâng, đúng là thế, là tâm thế của một con người đã dấn thân: “Triều lên bốn bể uy nghi/ Đồng bào đang diệt tà phi bạo cường/ Bạn thân đâu đã lên đường. Anh em những quyết lấy xương quân thù”.
Có thể lướt đôi dòng về cuộc đời ông: Sau khi tốt nghiệp ban Tú tài tại Trường Quốc học Huế, ông về quê nhà tại xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên (Quảng Nam) cùng đồng nghiệp mở trường tư thục Tân Dân, và ông làm hiệu trưởng từ năm 1939 đến năm 1945. Thời gian này, ông đã tham gia phong trào yêu nước do Đảng lãnh đạo. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm chủ tịch xã. Tháng 3.1946, theo Hiệp định Sơ bộ, quân Pháp vào thay quân Tưởng Giới Thạch đóng, ông là Phó trưởng ban đại diện quân đội ta trong Uỷ ban liên kiểm Việt-Pháp ở Đà Nẵng. Sau khi ủy ban này giải thể, ông được điều về làm Chủ nhiệm Mặt trận liên Việt tỉnh, đặc trách công tác trí thức. Năm 1947, ông tham gia Liên tỉnh uỷ Quảng Nam -Đà Nẵng và hoạt động trong lãnh vực văn hóa, giáo dục. Đặc biệt Tỉnh ủy Quảng Nam đã quyết định đặt tên Trưởng Đảng của tình thành Trường Đảng Hồ Thấu, sau khi ông mất vào năm 1949. Ông được công nhận Liệt sĩ và được truy tặng Huân chương Độc lập hạng Nhì.
Đọc lại bài “Gửi Kỳ” ta sẽ nhận ra đó là lời trăn trối, ngay từ câu mở đầu đã là một sự xác định:
Kỳ ơi ta chết rồi đâyÂ
Huyệt chờ bên mộ kiếp này phụ nhauÂ
Tiệc vui tóc vẫn xanh màuÂ
Ga đời còn mấy chuyến tàu nhạt hươngÂ
Những thôi ta chết giữa đườngÂ
Dưới trên mặt đất sầu thương cũng rồi
Những câu thơ kế tiếp cho thấy nhân sinh quan của ông, sống trên đời yêu lấy cái đẹp như biết bao thi nhân thời ấy và bây giờ:
Trong đời chỉ đẹp và thơÂ
Yêu đời dù đến ngẩn ngơ cũng đànhÂ
Mắt say hớp mảnh trời xanhÂ
Miệng say uống ngợp gió lành bốn phươngÂ
Phút giây hút trọn nhụy hươngÂ
Tơ tằm xưa trước Nghê thường mai sau
Nhà thơ Chế Lan Viên, sau này khi nhớ về thời “tiền chiến”, trước Cách mạng tháng Tám đã bộc bạch chân thành: “Ta làm con nai lạc giữa rừng hoang/ Làm hổ sa cơ lạc vườn bách thảo/ Làm bóng ma Hời, sờ soạng đêm mờ/Làm tất cả chỉ trừ không đổ máu”. Hồ Thấu lại khác. Ông dám đổ máu, dám dấn thân, dám bước ra khỏi “tháp ngà văn chương” vì lẽ:
Thấy đời còn quá khổ đau
Mắt xanh sầu nhớ những màu đục nhơ
Lên đường như đứa trẻ thơ
Kể gì nguy hiểm bụi bờ chông gai
Một lòng tin chắc tương lai
Trời xanh thơ đẹp không ai riêng mình
Niềm tin của ông thật mãnh liệt. Tất cả dồn nén và lan tỏa, bùng lên trong từ “cháy” rất ấn tượng:
Ngày mai rồi hết âm u
Quanh ta lửa hận mịt mù cháy lên
Cháy lên cho vỡ màn đêm
Cho trong mắt ngọc cho êm nhạc huyền
Cháy lên cho sạch ưu phiền
Cho lòng tươi sáng cho duyên đượm đà
Cháy lên cho nở ngàn hoa
Cho người xứ xứ kết hòa lòng thương
Cháy lên cho khắp mười phương
Sáng soi vũ trụ mở đường nhân gian
Rất tin tưởng vào ngày mai tươi sáng. Vào khoảnh khắc cuối cùng trong cuộc đời, biết mình vĩnh viễn không còn ở lại trần gian này nữa, trong bài thơ này, ông đã có được những câu tuyệt bút cho thấy ông còn ham sống còn muốn sống ghê gớm, chính vì thế đã khiến chúng ta nhói lòng cảm động:
Mình ta lặng ngắm mảnh trời
Sao khuya thỏ thẻ trao lời đêm thâu
Với đời, ta chết từ lâu
Với ta, đời vẫn một màu tươi son
Có thể ghi nhận đây là bài thơ tiêu biểu nhất của Hồ Thấu. Nếu bản của Trần Tuấn Kiệt ghi “Gửi Kỳ” thì bản Tuyển thơ Quảng Nam… chua mưa đà thấm (NXB Hội Nhà văn (1998) lại ghi “Gửi anh Phạm Văn Kỳ”. Tuy nhiên gần đây theo tài liệu của Hồ Văn Trường trên trang điện tử văn nghệ Đà Nẵng (ngày 28.07.2018) lại cho rằng: “Sự thực, người bạn thân thuở thiếu thời của ông là Nguyễn Đình Cừ, con của cử nhân Nguyễn Đình Tập, thường gọi là ông Hường Nguyễn. Vì là con quan, ông Cừ được hưởng chế độ tập ấm nên người dân quê gọi là Ấm Cừ. Ông Hường Hồ (Hồ Hoàng - cha của Hồ Thấu) và ông Hường Nguyễn (Nguyễn Đình Tập) đều xuất thân khoa bảng nên rất thân nhau. Hồ Thấu và Ấm Cừ cùng lứa tuổi, nhà ở gần nhau nên thân nhau cũng vì lẽ đó. Ông Ấm Cừ cũng đi theo kháng chiến, có thời gian làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến huyện Duy Xuyên, sau này được Nhà nước công nhận là liệt sĩ. Biết tin bạn đau nặng, Ấm Cừ tìm đến thăm, lúc này Hồ Thấu đã đến hồi suy kiệt, lúc tỉnh lúc mê. Nhờ có sự viếng thăm của người bạn thân Ấm Cừ, Hồ Thấu mới “tỉnh hồn hồi sinh” và để lại cho đời một bài thơ hay “Gởi Kỳ” với những câu thơ bất hủ:Â
Chiến trường ai khóc chia phôi
Khải hoàn ai nhắc tới người hôm qua”
Nếu đúng thế, tại sao lâu nay bài thơ vẫn lưu hành gắn liền với nhân vật là Kỳ? Đúng như nhận định của Trần Tuấn Kiệt là Hồ Thấu “làm thơ chuyền tay”, chưa in thành tập nên thất lạc nhiều. Các ông Hoàng Minh Nhân, Lê Đào, Hứa Văn Ân, Hồ Thị Thuẩn… đã có công sưu tập thơ Hồ Thấu và công bố nhiều tài liệu có giá trị. Riêng bài thơ “Gửi Trần Đình Tri” (bài 1):
Bạn đau nằm bên sông Thu
Ta đau nằm bến sa mù viễn đông
Bạn buồn ra ngắm núi sông
Ta buồn ta ngắm mênh mông nước trời
Trần Tuấn Kiệt có công bố “Gửi Trần Đình Tri” (bài 2). Đây là bài hay, giàu cảm xúc, tôi chép lại nguyên vẹn:
“Đi cuối dặm đường mới gặp anhÂ
Tình trong khói lửa nói thương tìnhÂ
Thành Đà mấy dặm vui trăng nướcÂ
Đất Quảng đường mòn gót chiến chinhÂ
Bát ngát tình anh là biển cảÂ
Em nằm chờ đợi lướt dòng xanhÂ
Nhớ khi quán nước mưa chơn núiÂ
Câu chuyện tương lai gió quạt mànhÂ
Nhớ lúc lao đao trên trận tuyếnÂ
Đèn khuya chung bóng súng cầm canhÂ
Trên đường những tưởng vui chân bướcÂ
Cứ ngỡ hôm nay lại biệt tìnhÂ
Cánh gió anh bay trời vạn dặmÂ
Em nằm chờ đợi phút điêu linh…”
Theo Hồ Văn Trường, còn có 2 câu nối tiếp mới dứt mạch thơ:
“Thương nhau ta biết làm chi nhỉÂ
Chỉ biết chiều nay em nhớ anh”.
Cảm hứng thơ của Hồ Thấu nhìn rộng ra vẫn nằm trong thi pháp như các nhà của phong trào Thơ mới, nếu có khác vẫn là ý nghĩa của tâm thức hướng ra “nhập cuộc” vào với cuộc đời, nhìn vào hiện thực xã hội và ước mơ về sự thay đổi ngày mai tươi sáng hơn. “Mùa thơm” cũng là một trong những bài thơ hay và tiêu biểu của ông, với nhan đề này, ta nhớ đến “Đi giữa đường thơm” của Huy Cận nhưng cả hai lại khác:
Ai lạ ngàn khơi sầu số kiếpÂ
Đến đây nhập hội lá hoa duyênÂ
Thời gian ngừng đọng rêu thành đáÂ
Từng giọt hồn tan nước động thuyềnÂ
Â
Ai lạ khổ đau đời chật hẹpÂ
Đến đây nghe gió quyện bao laÂ
Mênh mông trời biếc lòng trinh nữÂ
Ấp mãi tình mơ trên đá hoaÂ
Â
Từ những bao giờ ai đến đâyÂ
Ghi tên vào đá gởi làn mâyÂ
Người đi mấy kiếp luân hồi nhỉ!Â
Tên tuổi trơ vơ cát bụi đầy
Chở hồn lên đỉnh Ngũ Hành Sơn
Nhìn xuống nhân gian ngút khí hờn
Ai hãm cuộc đời trùng lửa thép
Ai băng đường máu đến mùa thơm
Cũng là lúc “Chở hồn lên đỉnh Ngũ Hành Sơn”, thi sĩ Phạm Hầu thốt lên: “Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận/ Chẳng biết xa lòng có những ai”, với Hồ Thấu lại khác, ông nghĩ đến lúc: “Nhìn xuống nhân gian ngút khí hờn”. Không cá nhân riêng tư, mà nghĩ đến nhân quần xã hội. Khi Huy Cận: “Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm/ Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng”, với Hồ Thấu lại khác: “Ai hãm cuộc đời trùng lửa thép/ Ai băng đường máu đến mùa thơm”. Có thế với những thơ hay, người đọc đều được cảm nhận sự tinh tế từ trong chân tơ kẽ tóc của tâm hồn nhà thơ đó. Chỉ tiếc Hồ Thấu “làm thơ chuyền tay”, do đó, thơ của ông lưu lại không nhiều, tất nhiên ta không loại trừ dị bản, vì “tam sao thất bổn”. Kể cả vở kịch Gia đình và sự nghiệp - chống lễ giáo phong kiến, nay đã thất lạc.
Nếu có đầy đủ tác phẩm thơ của Hồ Thấu, tôi nghĩ chắc chắn ông sẽ được tôn vinh, ghi nhận như một tên tuổi trong nền thơ hiện đại. Mà, từ nếu ấy khó có thể xẩy ra. Nhưng rồi, điều khiến chúng ta ấm lòng là năm tháng thanh xuân nhất, ông đã sống trọn vẹn với lý tưởng, với hướng đi đã chọn một cách nhiệt tình, hăm hở và cống hiến nhiều nhất để rồi bản thân ông trở thành bài thơ hoàn chỉnh: Một thơ hay bằng xương cốt mà nhiều thế hệ sau kính trọng, yêu mến và ngưởng mộ về tài năng lẫn nhân cách.
L.M.Q
| Tiếp theo > |
|---|