“Miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời”. Lâu nay, vẫn nghĩ thế. Chắc gì đã đã đúng? “Đòn đau” à? Không đâu, thiết nghĩ phải là “lời đau”. Đòn đau, theo năm tháng sẽ quên, sẽ nguôi ngoai; lời lại khác, “lời nói đọi máu” còn ghê gớm hơn nhiều. Thế thì, khi cần thiết, con người ta sử dụng lời nói, cần quái gì phải nghiến răng thượng cẳng tay, hạ cẳng chân - nhất là trong lãnh vực giáo dục. Ấy thế, vừa qua ở tỉnh nọ, có cậu học trò tội nghiệp phải “hứng” lấy 231 cái tát, từ mệnh lệnh cay nghiệt của cô giáo. “Đòn đau” ấy chỉ đem lại sự thù hận. Một cú tát vào nền giáo dục nước nhà đấy chăng? Nghĩ mà đau. Từ sự việc này, lẩn thẩn nghĩ rằng, ngày xửa ngày xưa, trong sự giao tế, giao tiếp, người Việt luôn sử dụng lời ăn tiếng nói, cần nhắc từ câu chữ, chứ không thèm giải quyết, tiếp cận nhau bằng bạo lực. Thì cứ xem, lối làm quen, tỏ tình ngày trước ắt rõ.
Mà xét ra, ngày nay cách tỏ tình dễ dàng hơn trước. Nếu ngại ngùng, kém tài ăn nói, chỉ cần cái điện thoại cầm tay là đã có thể “thay lời muốn nói”. Khác hẳn thời của Đoàn Chuẩn - Từ Linh, ít ra phải “Phong thư ngào ngạt hương/ Nét bút đa tình lả lơi”. Dám nói rằng, trước đó nữa, cách tỏ tình phổ biến “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu”, trên sông nước mênh mang: “Bớ chiếc ghe sau chèo mau anh đợi/ Kẻo khúc sông này bờ bụi tối tăm” thì ngụ ý, ngụ tình phổ biến vẫn qua câu hò đối đáp. Hò lên một tiếng cho vui. Điều này cho thấy người Việt rất giỏi trong cách gieo vần, hát hò lẫn sử dụng cách nói xa gần, bóng bẫy. Nét văn hóa Việt là đây, tìm đâu cho xa. Bao nhiêu lứa đôi đã nên duyên chồng vợ từ những cuộc “giao lưu văn nghệ” như thế.
Điều thú vị nhất, ở đây vẫn là cách ăn nói dí dỏm, hài hước mà thâm trầm, ý vị. Ngày nọ, anh chàng nọ muốn làm quen với các cô nàng bèn cất tiếng: “Chào đào, chào lựu, chào lê/ Ai xa tôi chào trước, ai kề chào sau”. Hoặc cũng có thể là: “Bước tới đây cầm chày giã gạo/ Tôi xin chào lê, chào lựu, chào kẻ cựu, người tân/ Trước tiên tôi xin chào anh chị nông dân/ Kẻ xa xôi tôi chào trước, người gần tôi chào sau”. Với cách “mở bài” này, kể ra cũng đã thanh lịch. Thế là cuộc hò đối đáp bắt đầu. Trong quá trình ấy, có lúc các o cũng muốn đùa bèn tinh nghịch thách đố cắc cớ:
Thiếp đưa chàng một nắm bắp rang
Chàng kiếm nơi mô tỉa được, thiếp với chàng trao duyên
Chà chà, khó quá phải không? Cực khó. Bắp đã rang, làm sao còn có thể tỉa, gieo với trồng? Ở Đồng Tháp có câu đố:
Sùm sụp mà đứng giữa trời
Chồng con không có một đời chửa hoang
Trên đầu tóc đỏ như rang
Chỉ tơ vấn vít trong vàng ngoài xanh
Đích thị là trái bắp. Nghĩ cũng lạ, ngoài Bắc gọi ngô/ lúa ngô trong khi đó trong Nam gọi bắp. Cứ theo như giai thoại dân gian, du nhập giống ngô về trồng trong nước thuộc về vai trò của cụ Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, qua chuyến đi sứ nhà Minh vào năm 1597. Thế nhưng theo Vân đài loại ngữ (NXB Miền Nam - 1972) của nhà bác học Lê Quý Đôn thì phải gần 100 năm sau: “Hồi đầu thời Khang Hy (1662-1723), Trần Thế Vinh, người huyện Tiên Phong (Sơn Tây) sang sứ nhà Thanh mới lấy được giống ngô đem về nước. Suốt cả đất Sơn Tây, nhờ có ngô thay cho cơm gạo. Ngô trồng ở Nghệ An, phần nhiều là giống ngô trắng (ngô nếp); ngô trồng ở Lạng Sơn có đủ năm sắc” (tr. 471). Có phải sở dĩ gọi ngô vì nó lấy từ Trung Quốc - còn gọi nước Ngô? Cái nước Ngô ấy còn lưu dấu trong thành ngữ; “Giặc nhà Ngô không bằng bà cô bên chồng”.
Khi trong Nam gọi bắp, có lẽ gọi theo hình dáng của trái chăng? Mà bắp là gì? Cứ theo như Việt Nam tự điển do Hội Khai trí tiến đúc khởi thảo năm 1931: “Vật gì thành đẵn mà hai đầu hơi thuôn thuôn”. Đại Nam quấc âm tự vị (1895) cho biết: “Loài ngũ cốc, loài hột, có trái bằng bắp tay mà dài; vật nào hai đầu nhỏ, khúc giữa lớn cũng gọi là bắp”. Rõ ràng ngoài Bắc gọi ngô nhưng trong Nam gọi bắp là gọi theo hình dáng của trái. Nghĩ thế, bèn lấy vui vì ít ra suy luận này cũng có thể chấp nhận được. Vì đang vui nên đọc thêm một câu đố nữa:
Thân em da đỏ hồng hào
Hàm răng đều đặn, tóc đào ngang lưng
Lúc em còn ở ngang hông
Áo dăm ba cái mẹ bồng trên tay
Lúc em về cửa nhà anh
Anh thương anh lại lột trần em ra
Đố ai biết trái gì? Dễ ợt, trái bắp/ ngô. “Thiếp đưa chàng một nắm bắp rang/ Chàng kiếm nơi mô tỉa được, thiếp với chàng trao duyên”. Câu hò này, không chỉ đố, còn là cách thăm dò ấy người thanh hay kẻ tục. Nếu kẻ tục tằn, thô lậu ắt lanh lảnh mà rằng: “Em chết ba năm rồi sống dậy đi lấy chồng/ Bắp rang anh tỉa mọc tràn đồng cho em coi!”. Thử hỏi, có lấy lòng được o thôn nữ ấy không? Ắt không. Có người dí dỏm đến tinh nghịch: “Ở mô mà nắng không khô/ Mà mưa không ướt, đúc vô mọc liền”. Ở mô là ở đâu. Đúc là gieo. Cũng có thể là dị bản: “Bên em có miếng đất hoang/ Ba năm không có nước/ Hạn sáu tháng không khô/ Em sẵn lòng trao cho anh trỉa, trỉa vô mọc liền”.
Câu hò vừa dứt, lập tức có tiếng cười rôm rã vang lên. Tại sao lại cười? Ai hiểu sao thì hiểu. Đã hiểu, ắt phải há miệng ra cười đó thôi. Có như thế, họ dễ dàng làm quen với nhau hơn. Thế mới biết, người bình dân, dù chữ nghĩa không nhiều nhưng khi cần nói thanh về cái tục, họ thừa khả năng biến hóa, sắp xếp các con chữ. Cô nàng lại thăm dò xem chàng ta đã vợ con thế nào, bèn hỏi bâng quơ:
Vợ anh chết đã ba năm
Đêm đông lạnh rứa, anh nằm với ai?
Vốn thông minh, chàng ta bèn đáp cũng bâng quơ:
Em hỏi chi chuyện ấy mà mất công
Nóng thì anh nằm ngủ thẳng, lạnh thì nằm ngủ cong, khó gì?
Vậy là huề trớt, dù có trả lời nhưng vẫn né khôn khéo đấy chứ? Hò đối đáp, tưởng dễ, ừ dễ, nhưng tâm địa thế nào e khó giấu. Với câu trò dò hỏi ấy, có kẻ đã “mất điểm” bởi trả lời bằng cách cay cú hỏi lại:
Tiếng đồn em lấy chồng già
Đêm nằm em thấy ớt, cà ra răng?
Nghe lỗ mãng quá, bực mình không? Cô nàng bèn thẳng thừng:
Tre già còn dẻo hơn măng
Ớt, cà già có hột, chớ hơn thằng ớt tơ
Chỉ bằng trái ớt, lại ớt tơ/ ớt non nữa chứ, liệu có nên cơm cháo gì? Nghe chua chát quá, chàng kia “nốc ao” cái chắc! Tình hình đã đến nước này, “tẩu mã vi thượng sách” là hơn. Thế nhưng có kẻ lại cố níu: “Chờ em cho mãn kiếp chờ/ Chờ cho rau muống lên bờ trổ bông”, quả nhiên, câu hò trả lời chỉ có thể là: “Rau muống trổ bông lên bờ nó trổ/ Ai biểu anh chờ, anh kể công lao?”.
Thế đấy, đừng tưởng hò đối đáp chỉ cho vui - một cách để quên đi lao động nhọc nhằn, đêm khuya canh dài, nhọc nhằn mồ hôi. Tùy tâm tính, có thể là tiếng rao lên ngọt ngào, thành thực: “Đêm thanh gió mát, nghe đó hát cũng thỏa tâm tình/ Gặp anh đây là bán lộ trình/ Bớ quân tử ơi! Hỏi thăm quân tử gia đình ở đâu?”. Câu trả lời lai thanh lịch không kém: “Nước biếc long lanh, người bạn lành thiệt là khó kiếm/ Anh dạo chơi cũng hiếm, chưa lựa được chỗ nào/ Em ơi! Mãng lo buôn bán ra vào Cần Thơ”.
Nếu thấy “kết model”, họ có thể tiến xa hơn, tất nhiên cũng bằng các câu có vần có điệu cho dễ lọt lỗ tai để không bị mang tiếng “dạy đời”: “Đó có nghĩ tình đây thì rượu say đừng uống/ Chớ muốn bài cào/ Chớ đắm mấy chị đào, chớ mê vào á phiện/ Khuyên anh bốn chuyện, anh khá ghi lòng/ Anh ơi! Ráng lo buôn bán, em sợ phòng dặn anh”. Chàng trai đáp lại cũng dặn dò: “Bậu có thương qua, khăn bà ba đừng đội/ Phường hát bội đừng mê/ Bài cạc-tê đừng mắc, tứ sắc đừng ham/ Cứ chuyên nghề nghiệp mà bậu làm/ Bớ em bậu ơi! Dẫu thất cơ lỡ vận, anh cùng làm với em”.
Nghe câu này, những kẻ hậu sinh như chúng ta đây ắt ngạc nhiên, vì sao “Khăn bà ba đừng đội”? Chịu chết, không thể lý giải nổi. Trong khi đó, áo bà ba lại được khen là đẹp, duyên dáng. Nhà văn Sơn Nam ghi nhận trong quyển Văn minh miệt vườn: “Sự liên lạc giữa Cái Mơn và Mã Lai đem cho miệt vườn nhiều loại cây mới: măng cụt, bòn bon, chôm chôm. Poulo Penang, nơi ông Trương Vĩnh Ký du học, là nơi có nhóm người Bà Ba lập rẫy mía. Bà Ba là người Mã Lai lai Trung Hoa (chiếc áo bà ba mà người miền Nam ưa thích, vạt ngắn không bâu chính là kiểu áo của người Bà Ba)”. Không những thế, ca dao còn có câu: “Thấy em bận áo bà ba trắng/ Anh muốn gắn chữ duyên/ Rồi mai lưu lạc, anh tìm em cho khỏi lầm”. Thế thì, khăn bà ba” ra làm sao mà chàng trai dặn dò cô nàng “đừng đội”?
Cái hay của hò đối đáp còn là lúc họ đặt ra tình huống. Không dễ dàng trả lời, nếu không thông minh, có tài ứng đối. Nữ: “Hò ơ, phụ mẫu tôi với phụ mẫu mình/ Đi chung một chiếc thuyền tình/ Bị trận giông chìm xuống, tôi hỏi mình vớt ai?”. Chà, khó thiệt. Nào ngờ, nam cất giọng ngọt như mía lùi: “Hò ơ, tình ơi chớ hỏi chi tình/ Phụ mẫu tôi với phụ mẫu mình, tôi vớt để hai vai/ Còn như mình cũng mang tai/ Thì tôi vội vã hai tay tôi vớt mình”.
Mà này, một khi đã yêu nhau, ai lại không ước mơ, ngóng đợi từng ngày để được sống chung nhà, ăn chung mâm, ngủ chung gối? Cha chả là khoái. Muốn thế, phải tổ chức cưới nhau, chứ đời nào yêu nhau là cứ việc vác vali về nhà người tình ở chung. Thiên hạ cười cho thúi mũi. Xưa cũng thế, nay cũng thế. À, muốn cưới hỏi nhưng nghèo quá thì thế nào nhỉ? Ta đừng vội cười anh chàng trong ca dao: “Dẫu cho nhà dột cột xiêu/ Anh muốn cưới vợ sợ nhiều miệng ăn”. Về phần cô gái nếu cũng nghèo, do đó, khi bàn về chuyện cưới xin mới dò hỏi: “Một trăm quan tiền còn nằm trong rọ/ Em hỏi anh rằng: “Đi họ mấy mươi”?”. Chàng trai nghênh mặt: “Họ anh vừa gánh vừa khiêng/ Nội trong xóm giềng đi đã ba trăm”. Thoạt nghe, cô gái đã kêu lên hoảng hốt: “Anh về bớt họ anh ra/ Phận em đơn chiếc cửa nhà đơn côi”.
Chàng trai thấy cần phải đòi hỏi “đến nơi đến chốn”, cho bỏ lúc bị nhà gái thách thức: “Em đòi vàng anh cũng đi vàng/ Mua gấm lót đàng cho họ anh đi”. Nghe thế, cô gái giận dỗi, thẳng thừng: “Anh về nói với họ anh/ Có đi thì cắp chiếu manh mà ngồi”. Mới là “khúc dạo đầu” nhưng đã nghe tiếng bấc tiếng chì. Người ta còn mặc cả về ăn mặc, đi đứng, chẳng hạn, nhà gái ra điều kiện: “Chàng cưới thiếp bạc nén, vàng thoi/ Chàng về lựa họ cho hẳn cho hòi/ Đàn ông đội nón Gò Găng quai tả/ Đàn bà nón thượng quai liền/ Con trai đi hậu vác tiền/ Mặc áo màu huyền, bịt khăn nhiễu lượt/ Võng chàng đi trước, võng thiếp theo sau/ Thiên hạ ngó vô: Đám cưới nhà giàu/ Sui gia cũng xứng, kép đào cũng xinh”.
Nói thì nói thế thôi. Nếu đã yêu nhau, đã thề thốt muốn sum họp “như chim liền cánh như cây liền cành” thì họ ắt có cách giải quyết ổn thỏa. Và y đây, bao giờ cũng cầu mong cho họ: “Đôi ta đứng đẹp một bên/ Đứng dưới chiếu nhứt lạy lên bàn thờ”...
L.M.Q
< Lùi | Tiếp theo > |
---|