HUYỀN VIÊM - Trung Hoa - tình và mộng

Mục lục
HUYỀN VIÊM - Trung Hoa - tình và mộng
CHUYỆN TÌNH CỦA TÔ ĐÔNG PHA
CHUYỆN TÌNH CỦA LÝ THƯƠNG ẨN
CHUYỆN TÌNH CỦA LƯƠNG KHẢI SIÊU
THÍCH VÀ KHÔNG THÍCH ĐÀN BÀ
CUỘC TAO PHÙNG GIỮA GIAI NHÂN VÀ DANH SĨ
Tất cả các trang
Trung_Hoa_tinh_tho007


 

Lời thưa


Nhà giáo, nhà nghiên cứu Huyền Viêm là ông bạn già đáng kính của tôi. Đồng hương Quảng Nam. Ông sống và dạy học tại Sài Gòn vài chục năm trước. Khi ông in tập thơ đầu tay Thơ mùa chính chiến, tôi chưa sinh ra đời; khi ông in tập thơ thứ hai Hạnh ngộ, tôi chưa đi học. Vậy mà từ nhiều năm nay, tôi và ông lại có mối quan hệ thâm trầm trong chuyện văn chương chữ nghĩa. Tôi quý cái tính cẩn trọng, ít nói, chậm rãi của ông. Có lẽ, ông quý tôi ở chỗ… ồn ào, náo nhiệt chăng?


Tập sách nghiên cứu Trung Hoa - tình và mộng (NXB Trẻ) của nhà nghiên cứu Huyền Viêm vừa ra mắt bạn đọc. Tôi mừng lắm. Đây là một tập sách khảo cứu công phu, đọc hấp dẫn và giúp ta vỡ vạc nhiều điển tích, điển cố trong văn học.


Tại sao ông lại viết tập sách này? Trong Lời nói đầu, tác giả cho biết:

“-Về Xích Bích: nếu ở Trung Hoa có thơ hay của Thôi Đồ, Đỗ Mục, phú của Tô Đông Pha về Xích Bích, thì ở Việt Nam, Nguyễn Công Trứ, Cao bá Quát, Mộng Tuyết, Ngân Giang cũng có hát nói và thơ hay về Xích Bích.
- Cuộc tao phùng giữa giai nhân và danh sĩ: nếu ở Trung Hoa có chuyện đại thi hào Bạch Cư Dị tình cờ gặp người ca kỹ với ngón đàn tuyệt diệu trên bến Tầm Dương thì ở Việt Nam có chuyện Nguyễn Du gặp cô Cầm với ngón đàn cự phách trong “Long thành cầm giả ca” và Cao Bá Quát, Dương Khuê cũng tình cờ gặp lại người xưa…
- Về thi thoại: nếu ở Trung Hoa có thi thoại nổi tiếng của  Âu Dương Tu, Diệp Mộng Đắc, Hồ Tử, Vương sĩ Trinh, Lương Khải Siêu, Viên Mai… thì ở Việt Nam có thi thoại của Phan Khôi, Đông Hồ, Huỳnh Thúc Kháng, Quách Tấn…
- Về bi ký: nếu ở Trung Hoa có bi ký Lung cương thiên biểu thật hay do Âu Dương Tu viết về thân phụ mình, bi ký của Hàn Dũ trước mộ Liễu Tông Nguyên, của Vương An Thạch trước mộ Hứa Bình… thì ở Việt Nam có văn bia của Nguyễn Khuyến, Bích Khê, Quách Tấn… - Về hoạn quan : các vua Trung Hoa và Việt Nam đều có hoạn quan, nhưng chỗ khác nhau là hoạn quan Trung Hoa làm loạn triều đình, còn hoạn quan Việt Nam là những người yêu nước và có công lớn với tổ quốc. Đó là điều đáng để chúng ta suy ngẫm”.

Khi ông có sự liên tưởng như thế, tất ta hiểu rằng, văn hiến của Việt Nam ta cũng phong phú và đa dạng như Trung Hoa. Không hề thua kém bao giờ. “Dẫu yếu mạnh có lúc khác nhau, Song hào kiệt đời nào cũng có” (Nguyễn Trãi).

Mừng vì tôi có trang web leminhquoc.vn, ông đã gửi cho tôi toàn bộ nội dung tập sách này để tôi lựa chọn và post lên cho bạn đọc.

Tôi chọn lấy chuyện tình của những thi sĩ đã lừng danh trong trí nhớ nhân loại và chuyện liên quan đến đàn bà. Đời sống này, ai có thể thoát khỏi nỗi thống khổ tuyệt vời và niềm hoan lạc đau đớn ấy?


Lê Minh Quốc

VII.2012



CHUYỆN TÌNH CỦA TÔ ĐÔNG PHA


Tô Đông Pha tên thật là Tô Thức, tự là Tử Chiêm, sinh năm 1037, người huyện My Sơn, tỉnh Tứ Xuyên, đỗ tiến sĩ năm 1057 dưới đời vua Tống Nhân Tông, là một trong bát đại gia Đường Tống (1). Thơ văn ông nổi tiếng một thời, không ai sánh kịp. Ông lại có tài hội họa và viết chữ rất đẹp. Hoạn lộ long đong, nhiều lần bị biếm.

Ông Tô có một cô em họ xinh đẹp, hiền hậu và thông minh, ông yêu quí lắm và nàng cũng rất yêu ông nhưng không cưới được vì bà con gần quá nên mẹ ông ngăn cản. Ông ân hận suốt đời vì điều đó bởi đây là mối tình đầu của ông.

Khi Tô Thức đã lớn, học giỏi, đủ sức đi thi thì cha mẹ lo cưới vợ cho ông (và cho cả em ông là Tô Triệt nữa) để có một nàng dâu ở trong miền vì e rằng nếu ông lên kinh thi đỗ thì sẽ bị các danh gia vọng tộc đem cái mồi vinh hoa phú quí ra nhử để gả con gái cho. Vợ ông họ Vương tên Phất, năm ấy ông mười tám tuổi và Vương Phất mười lăm.

Người bạn tình chung

Nàng Vương là người vợ hiền, rất quí yêu chồng, thường đứng nép sau màn nghe chồng nói chuyện với khách và lựa lời khuyên chồng nên xa lánh người này người khác :

- Người ấy luôn đón trước ý nhà để nói cho nhà vui lòng, giao du với họ chỉ mất thì giờ thôi.

Hoặc nhắc nhở chồng :

- Nhà nên coi chừng hạng người vồn vã quá, người tốt giao du với nhau tình thường lạt như nước lã ; nước lã không có mùi vị đậm đà nhưng không bao giờ làm cho ta chán.

Đông Pha thường khen vợ về sự khôn ngoan này (2).

Năm 1065 Vương Phất từ trần lúc nàng mới 26 tuổi, an táng tại Tứ Xuyên. Tô Thức thương tiếc lắm. Nàng để lại cho chồng một người con trai mới biết đi, tên là Tô Mại.

Trước khi từ giã cõi đời, nàng Vương Phất trối trăng với chồng là nên tục huyền với Vương Nhuận Chi, em họ của nàng và rất giống nàng để chăm sóc ông và nuôi dạy Tô Mại. Ông khóc mà nhận lời.
Mười năm sau (tức năm Ất Mão 1075), ông Tô đang làm tri châu ở Mật Châu (Sơn Đông), cách Tứ Xuyên hàng ngàn dặm, đêm nằm mơ thấy người vợ đã khuất, lúc thức dậy làm bài từ điệu “Giang thành tử” trong đó có những câu :

…Thập niên sinh tử lưỡng mang mang
Bất tư lường
Tự nan vong
Thiên lý cô phần
Vô xứ thoại thê lương
Túng sử tương phùng ưng bất thức
Trần mãn diện
Mấn như sương…

Nguyễn thị Bích Hải dịch :

Mười năm sống thác đôi nơi,
Nghĩ mà chi, vẫn khôn nguôi nhớ nàng.
Cô đơn phần mộ dặm ngàn,
Nói làm sao xiết muôn vàn thê lương.
Gặp nhau còn nhận ra chăng?
Mặt bụi nhuốm, tóc pha sương ngỡ ngàng…

Tô Thức là người đầu tiên làm từ điệu vong.
Bảy năm sau (1082), khi ông Tô xuôi dòng Trường giang, cùng bạn thưởng trăng trên
sông dưới chân núi Xích Bích, từ của ông còn phảng phất nỗi thương xót ngậm ngùi :

Cố quốc thần du
Đa tình ưng tiếu ngã
Tảo sinh hoa phát…
(Niệm Nô Kiều)
(Hồn thả về chơi cố quận
Bạn tình chung có lẽ cười ta
Chưa chi đầu đã bạc…)

Bạn tình chung nơi cố quận hẳn là vong hồn nàng Vương Phất. Năm ấy ông mới 46 tuổi.

Đấu rượu cho chàng

Vợ mất ba năm, đoạn tang, năm 1068 Tô Thức theo lời vợ, tục huyền với cô em họ của Vương Phất là Vương Nhuận Chi, hai mươi tuổi. Không giỏi dắn đảm đang bằng chị nhưng  nàng cũng rất quí yêu chồng, chăm sóc con của mình và con riêng của chồng (Tô Mại) rất chu đáo và suốt đời chia sẻ những khó khăn gian khổ với chồng.

Nàng là người hiền thục lại rất chiều chồng. Biết chồng thích rượu, lúc nào nàng cũng sắm sẵn một đấu rượu để khi chồng cần thì có ngay. Chuyện này Tô Thức kể lại trong bài “Hậu Xích Bích phú” như sau : “Khách nói : Sẩm tối, tôi cất lưới được một con cá, miệng to vảy nhỏ, hình dáng tựa con lư ở Tùng Giang (3). Tìm đâu ra được rượu đây?

Tôi về bàn với nhà tôi. Nhà tôi đáp  :“Thiếp có một đấu rượu, cất đã lâu, phòng lúc nhà bất thần dùng đến”. (Nguyên văn : Ngã hữu đấu tửu, tàng chi cữu hĩ. Dĩ đãi tử, bất thời chi nhu). Thế là xách rượu và cá, lại đi chơi dưới chân Xích Bích một lần nữa”.

Nhà phê bình văn học lỗi lạc của Trung Quốc là Kim Thánh Thán đời Thanh cũng có nhắc lại chuyện này trong lời phê bình cuốn “Mái Tây” (Tây sương ký) của Vương Thực Phủ. Ông viết :“Mười năm chia tay bạn, chiều tối chợt bạn xuất hiện. Mở cửa, tay nắm chặt tay, chẳng kịp hỏi tới nhà mình bằng thuyền hay bằng ngựa. Cũng chẳng kịp mời ngồi ghế hay ngồi giường. Hàn huyên qua loa, vội chạy vào nhà trong, thấp giọng hỏi vợ rằng :

-“Mình liệu có đấu rượu của Tô Đông Pha không?”

Vợ tươi cười rút cành trâm vàng đang cài trên đầu trao cho. Thế là đủ ba ngày cơm rượu…”

Bảy cái lò lửa

Theo “Dục hải từ hàng” thì Tô Thức có đến bảy người thiếp. Phật Ấn, bạn thân của Tô Thức, là một vị cao tăng đời Tống có tài hùng biện, một hôm đùa bảo Tô Thức rằng :
- Bác có nhiều thiếp thế, tặng cho tôi cô thứ bảy được không?

Ông Tô cười đáp :

- Sao lại không?

Tưởng chỉ là lời nói đùa, không ngờ chiều tối ông Tô cho xe đưa người thiếp đến. Phật Ấn đón người thiếp vào nằm trong buồng rồi buông màn. Trước buồng đã đặt sẵn bảy cái hỏa lò, cái nào cũng đầy than đỏ rực. Ông bước qua từng cái một, cứ bước qua bước lại như thế suốt đêm. Đến sáng, ông cho xe đưa người thiếp về trả. Nghe kể lại đầu đuôi câu chuyện, Tô Thức chợt “ngộ” ra :

- Bảy cái hỏa lò rực lửa kia là chỉ bảy người thiếp của ta cũng như bảy cái hang lửa. Ông làm thế là tỏ ra mình đã vượt ra khỏi vòng sắc dục, còn ta thì sa ngã đắm đuối vào đấy. Chắc là ông muốn thức tỉnh ta đây.

Người vợ tri kỷ

Trong số các tì thiếp của mình, Tô Đông Pha yêu nhất nàng Triêu Vân.  Nàng  trẻ trung, xinh đẹp lại thông minh, giúp ông được nhiều việc. Lúc về với ông, nàng chưa biết chữ nhưng nhờ ông chuyên tâm dạy dỗ và nàng chăm chỉ học hành nên chẳng bao lâu nàng đã đọc thông viết thạo.

Cuộc gặp gỡ Triêu Vân là một sự may mắn lạ lùng. Khi bị biếm đến Hàng Châu, Tô Đông Pha thường hay ra chơi Tây hồ, một thắng cảnh nổi tiếng tại tỉnh này. Ven bờ Tây hồ, trong các vườn hoa ngào ngạt hương thơm có những trà thất nên thơ bên cạnh các hàng liễu rũ, đêm đêm vang lên tiếng đàn tiếng ca thánh thót, du dương của các nàng ca nhi xinh như mộng. Triêu Vân là một trong số các nàng ấy, bấy giờ mới hơn mười tuổi nhưng tài sắc của nàng nổi bật hẳn lên giữa đám ca nhi làm say lòng biết bao vương tôn công tử. Nàng có giọng ca rất lạ, khi trầm lắng như nghẹn ngào nức nở, khi mượt mà, bay bổng như ngọn gió mát lành trên mặt nước Tây hồ. Những bài từ của Tô Đông Pha chỉ có nàng ca là hay hơn cả khiến cho bao trái tim như ngừng đập và ông Tô rung động bồi hồi. Tình yêu bắt nguồn từ đó.

Nàng Vương Nhuận Chi biết chuyện nhưng không hề ghen tức. Một lần nàng đến tìm gặp Triêu Vân rồi về nói với chồng :

- Cô gái xinh đẹp này rồi sẽ rất cần cho nhà sau này đấy. Thiếp sẽ mua Triêu Vân.
Và nàng Vương đã giữ lời. Ít lâu sau, Triêu Vân về với ông và nhanh chóng trở thành một đôi uyên ương tương đắc mặc dù tuổi tác khá chênh lệch : nàng kém ông những 27 tuổi ! Vương Nhuận Chi coi nàng như cô em gái bé bỏng, và khi đến Hoàng Châu, nàng đã chính thức cưới Triêu Vân để làm thiếp cho chồng. Ông Tô rất mến phục nàng về việc ấy.

Đông Pha yêu Triêu Vân không chỉ vì nàng xinh đẹp, thông minh mà còn vì nàng là tri kỷ của ông, rất hiểu lòng ông, tâm đầu ý hợp. Vương Thế Trinh, người đời Minh, kể trong “Điệu hước biên” rằng :
“Một hôm Đông Pha đi chầu vua về, ăn no, lấy tay xoa bụng đi lại trong dinh, hỏi những người theo hầu :

- Các ngươi hãy đoán xem cái gì trong này?

Kẻ thì bảo toàn là văn chương cả, người thì thưa : nơi chứa ruột gan, kẻ thì cho là toàn cao lương mỹ vị. Đông Pha vẫn không hài lòng. Đến lượt mình, Triêu Vân cười đáp :

- Kẻ sĩ của triều đình nhưng ôm trong bụng toàn những thứ không hợp thời cả (nguyên văn : triều sĩ nhất đỗ bì bất hợp thời nghi).

Đông Pha thích chí cười ha hả”.

Ấy là nàng rất hiểu lòng ông. Bấy giờ phe tân đảng của Vương An Thạch, Chương Đôn, Lữ Huệ Khanh, Lý Định đang muốn dùng “biến pháp” để cải cách nền chính trị lạc hậu của nhà Tống, còn Đông Pha thì theo cựu đảng của Tư mã Quang chống lại biến pháp của Vương An Thạch nên nhiều phen bị phe tân đảng tâu vua giáng chức và đày ông tới những nơi cùng tịch, khổ sở thiếu thốn trăm bề.

Khi ông bị Chương Đôn lưu đày xuống Huệ Châu (Quảng Đông) chỉ có mình Triêu Vân theo hầu, các tì thiếp khác chịu cực không nổi nên bỏ đi cả rồi, nàng Vương Nhuận Chi đã mất. Có lần trò chuyện, Đông Pha nói với Triêu Vân :

- Mọi người ai cũng bảo ta có phúc hơn Bạch Cư Dị.

- Nhà nói thế là có ý gì?

- Khi Bạch Cư Dị bị giáng chức và bị biếm ra làm Tư mã Giang Châu, người thiếp yêu
của ông đã bỏ đi lấy chồng, còn nàng thì luôn luôn theo sát bên ta đến tận chân trời góc bể vào những lúc hoạn nạn khó khăn nhất. Thế chẳng phải là ta có phúc hơn Bạch Cư Dị sao?

Triêu Vân khe khẽ cúi đầu, nước mắt rưng rưng.

Triêu Vân yêu quí chồng hơn hẳn hai bà trước, vui lòng chia sẻ với chồng những nỗi cực khổ gian nan nên ông rất quí nàng, thường làm thơ ca tụng. Ông bảo Triêu Vân là nàng tiên trên trời bị đọa xuống trần để trả nợ thay ông. Năm 1083 Triêu Vân sinh một đứa con trai  nhưng không nuôi được. Đông Pha cho rằng vì mình thông minh và tài hoa quá nên thường hay gặp nạn, con cái thì hữu sinh vô dưỡng, bèn làm thơ tự mỉa mình :

Đãn nguyện tử tôn ngu thả độn,
Vô tai vô hại đáo công khanh.
(Chỉ mong con cháu ngu và xuẩn,
Bình an vô sự mà tới chức công khanh)

Một buổi chiều có gió heo may và sương thu lạnh, Đông Pha ngồi chơi với Triêu Vân. Ông bảo nàng cầm cốc rượu làm phách đánh nhịp, hát bài từ của ông theo điệu “Điệp luyến hoa”. Triêu Vân vừa ca vừa khóc. Ông hỏi tại sao. Nàng chỉ vào hai câu :

Chi thượng liễu miên xuy hựu thiểu,
Thiên nhai hà xứ vô phương thảo.
(Tơ liễu trên cành phơ phất gió,
Nơi chân trời, chẳng nơi nào là không có cỏ thơm)

Ông cười lớn :

- Ta ngậm ngùi với mùa thu mà nàng thì khóc với mùa xuân ! (4).

Ở Huệ Châu chưa được bao lâu thì tể tướng Chương Đôn lại có lệnh đày ông Tô ra đảo Hải Nam, một hòn đảo bấy giờ chỉ có thổ dân man rợ và muốn ông chết ở đấy. Ông Tô muốn để gia đình ở lại Huệ Châu, chỉ một mình ra đảo nhưng Triêu Vân không chịu :

- Không ai chăm sóc chồng bằng vợ. Lúc chị Vương Nhuận Chi sắp mất, thiếp có hứa với chị là suốt đời cùng sống chết với nhà. Hãy để cho thiếp giữ trọn lời hứa, cho thiếp đi theo, thiếp sẵn sàng chịu mọi nỗi gian truân của kẻ đi đày.

Ông Tô rất xúc động, khôn ngăn đôi dòng lệ.

Nhưng chưa kịp ra đảo thì nàng đã ốm nặng rồi từ trần (1096). Một cơn sốt rét ác tính đã cướp đi mạng sống của nàng lúc mới 34 tuổi. Ông Tô gục xuống bên nàng để mặc cho dòng lệ tuôn trào như suối. Ông không chỉ khóc cho một người vợ mà còn khóc cho một người tri âm, tri kỷ không dễ gì gặp được trên đời.
Ông an táng nàng trước một rừng thông, cạnh một ngôi chùa và viết bài minh trên mộ chí :

“Thị thiếp của Đông Pha tiên sinh là Triêu Vân, tự Tử Hà, họ Vương thị, người Tiền Đường. Thông minh và thích việc nghĩa, thờ tiên sinh 23 năm, một mực trung và kỉnh. Năm Thiệu Thánh thứ ba (1096), tháng bảy, ngày Nhâm Thìn, mất ở Huệ Châu, 34 tuổi. Tháng tám, ngày Canh Thân, táng trên Phong Hồ, phía đông nam chùa Thê Hiền. Sinh con tên Độn, chưa đầy năm đã yểu. Nàng thường theo tì khưu ni Nghĩa Xung học Phật pháp, cũng biết sơ qua đại ý. Lúc sắp chết, tụng bốn câu kệ trong kinh Kim Cương rồi tuyệt” (5).

Ông làm thơ khóc nàng, lời lẽ rất xót xa cảm động, ví nàng như đám mạ đã xanh nhưng chưa kịp trổ đòng đòng, người có tư chất tốt mà chết sớm, chưa làm được việc gì có ích. Đó là mệnh trời ư? (Miêu nhi bất tú khởi kỳ thiên !).

Từ đó cảnh già của ông ở đảo Hải Nam thật cô đơn buồn tẻ. Tháng giêng năm 1100, vua Triết Tông (6) băng lúc mới 24 tuổi. Vị hoàng tử duy nhất, con trai ông, chết lúc ba tháng tuổi. Vì thế ngôi vua lại về tay Huy Tông, chú của Triết Tông. Lên ngôi xong, công việc đầu tiên của Huy Tông là cách chức tể tướng Chương Đôn và đày đi Lôi Châu rồi cho phục chức tất cả các đại thần bị Chương Đôn đày ải, truy phong cho những người đã bị Chương Đôn sát hại.

Thế là Tô Đông Pha được ân xá, rời đảo Hải Nam để lên đường về bắc. Nhưng bấy giờ ông đã già yếu lắm rồi, nhất là sau nhiều năm bị đày ải. Chỉ một năm sau ông đã từ trần tại Thường Châu (1101) thọ 65 tuổi, kết thúc một cuộc đời tài hoa lận đận.


(1)    Bát đại gia Đường Tống : tám văn thi hào lớn đời Đường Tống. Đời Đường có Hàn Dũ và
Liễu Tông Nguyên. Đời Tống có Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Tăng Củng, Âu Dương Tu và Vương An Thạch.
(2) Theo cuốn “Tô Đông Pha” của Nguyễn Hiến Lê (NXB An Giang 1990).
(3) Huyện Tùng giang, tỉnh Giang Tô có loại cá lư, ăn rất ngon.
(4-5) Theo cuốn  “Tô Đông Pha – những phương trời viễn mộng” của Tuệ Sỹ (NXB Ca Dao Sài Gòn 1973).
(6) Vua Triết Tông là học trò của Tô Đông Pha. Chính nhà vua đã ký lệnh đày thầy học của mình xuống phương Nam.



CHUYỆN  TÌNH  CỦA  LÝ  THƯƠNG  ẨN


Lý Thương Ẩn (813-858) là một trong ba nhà thơ lớn thời Vãn Đường (hai người kia là Đỗ Mục và Ôn Đình Quân). Ông tự là Nghĩa Sơn, hiệu Ngọc Khê, người huyện Thẩm Dương, tỉnh Hà Nam. Cuộc đời và hoạn lộ của ông rất long đong, mới mười tuổi đã mồ côi cha, theo mẹ về Trịnh Châu, học với chú.
Lệnh Hồ Sở rất thích văn thơ ông nên khi Sở làm Tiết độ sứ ở Hà Dương bèn chiêu nạp ông làm môn khách, rất quí trọng.

Năm 837, dưới đời Đường Văn Tông, nhờ thế lực của Lệnh Hồ Đào (con Lệnh Hồ Sở), Lý Thương Ẩn đỗ tiến sĩ. Cũng trong năm ấy Lệnh Hồ Sở từ trần. Sau đó Lý được cử làm Bí thư tỉnh Hiệu thư lang.
Năm 842, dưới đời vua Vũ Tông, mẹ Thương Ẩn mất, ông xin về cư tang. Bấy giờ có quan trấn thủ Hà Dương là Vương Mậu Nguyên mến tài Thương Ẩn nên mời về làm Chưởng thư ký và gả con gái cho. Vì Mậu Nguyên là địch thủ chính trị của Lệnh Hồ Đào nên Thương Ẩn bị chê là kẻ vong ân bội nghĩa. Khi Mậu Nguyên mất, Lý về kinh sư nhưng không được bổ chức gì.

Năm 847, dưới đời Tuyên Tông, Trịnh Á Phủ làm Quan sát sứ Quế Lâm, Thương Ẩn đến nương nhờ, được cử giữ chức Kiểm hiệu thủy bộ Viên ngoại lang. Trịnh thuộc phe Lý Đức Dụ và Vương Mậu Nguyên là phe chống Lệnh Hồ Đào nên Đào tuyệt giao với Lý Thương Ẩn.

Khi Lệnh Hồ Đào làm Tể tướng, Lý nhiều lần dâng thư trần tình nhưng không được xét. Sau nhờ Liễu Trọng Dĩnh, trấn thủ miền Đông Thục đề cử nên Thương Ẩn được cử giữ chức Phán quan kiểm hiệu Công bộ Viên ngoại lang. Lúc Liễu bị bãi quan, Lý cũng mất chức. Năm 858 ông quay về Trịnh Châu, mắc bệnh rồi tạ thế lúc mới 45 tuổi.

Thơ của Lý Thương Ẩn nổi tiếng ngang với Ôn Đình Quân và Đỗ Mục nên buổi đương thời người ta gọi là Ôn Lý và Lý Đỗ. Vương An Thạch đời Tống rất khâm phục và yêu thơ Lý Thương Ẩn.
Thơ thời Vãn Đường có nhiều vẻ giống thơ thời Lục Triều : lời diễm lệ mà ý ủy mị và lãng mạn. Không riêng gì kẻ thường nhân, ngay cả các kẻ sĩ có danh vọng như Đỗ Mục và Lý Thương Ẩn cũng nổi tiếng là những thi nhân cực kỳ lãng mạn, đắm chìm trong thanh sắc.

Nữ sĩ Tô Tuyết Lâm đời Thanh tham khảo kỹ các sách xưa nay viết về Lý Thương Ẩn, rồi viết một tập khảo cứu rất có giá trị về phần đời quan trọng chi phối rất nhiều thơ từ của họ Lý, nhan đề “Lý Nghĩa Sơn luyến ái sự tích khảo” (Khảo về sự tích luyến ái của Lý Nghĩa Sơn – tức Lý Thương Ẩn).
Theo sách này thì thuở thanh niên Lý Thương Ẩn đã từng yêu say đắm nữ đạo sĩ Tống Hoa Dương, một người đẹp nổi tiếng thời bấy giờ, nhưng vì một chuyện bất hòa nên mối tình tan vỡ, để lại trong tim ông niềm đau đớn khôn nguôi.

Sau  đó, ông yêu say đắm hai chị em họ Lư, Phi Loan và Khinh Phượng là hai tuyệt thế giai nhân, cả ba thề non hẹn biển, nguyện cùng kết tóc xe tơ. Nhưng chẳng may, hai nàng đều bị tiến cung. Họ Lý khổ công chờ đợi suốt hai mươi năm trời, những mong có ngày sum họp. Nhưng Phi Loan và Khinh Phượng đều chết một cách bí mật trong cung khiến Lý Thương Ẩn cực kỳ đau xót. Sáu bài thơ “Vô đề” và bài “Cẩm sắt” (1) của ông làm ra có lẽ để tả mối tình éo le ấy và nỗi lòng thương tiếc cố nhân không bao giờ nguôi được (2)

Xin dẫn ra đây bài thứ ba trong sáu bài thơ “Vô đề”, bài thơ được nhiều người yêu thích nhất :
無  題                             V Ô   Đ Ề

難 相 見 時 難 別 亦             Tương kiến thời nan biệt diệc nan,
東 風 無 力 百 花 殘              Đông phong vô lực bách hoa tàn.
春 蠶 到 死 絲 方 盡              Xuân tàm đáo tử ti phương tận,
蠟 炬 成 灰 淚 始 乾              Lạp cự thành hôi lệ thủy can.
曉 鏡 但 愁 雲 鬢 改              Hiểu kính đãn sầu vân mấn cải,
夜 吟 應 覺 月 光 寒               Dạ ngâm ưng giác nguyệt quang hàn.
蓬 萊 此 去 無 多 路              Bồng lai thử khứ vô đa lộ,
青 鳥 殷 勤 為 探 看              Thanh điểu ân cần vị thám khan.

Khương Hữu Dụng và Tương Như dịch :

Khó gặp nhau mà cũng khó xa,
Gió xuân đành để rụng trăm hoa.
Con tằm đến thác tơ còn vướng,
Chiếc nến chưa tàn lệ vẫn sa.
Sáng ngắm gương, buồn thay mái tuyết,
Đêm ngâm thơ, thấy lạnh trăng ngà.
Bồng lai tới đó không xa mấy,
Cậy với chim xanh dọ lối mà.

Ngoài những bài “Vô đề”, Lý Thương Ẩn còn có bài thơ “Cẩm sắt”, một bài thơ thật hay nhưng rất khó hiểu khiến nhà phê bình thơ nổi tiếng đời Thanh là Vương Sĩ Trinh (tức Vương Ngư Dương) phải thốt lên :”Nhất biên Cẩm sắt giải nhân nan !” (bài thơ Cẩm sắt hiểu sao đây?) :


錦  瑟                                               CẨM   SẮT
錦 瑟 無 端 五 十 絃                   Cẩm sắt vô đoan (3) ngũ thập huyền,
一 絃 一 住 思 華 年                   Nhất huyền nhất trụ tứ hoa niên.
莊 生 曉 夢 迷 蝴 喋                   Trang sinh (4) hiểu mộng mê hồ điệp,
望 帝 春 心 託 杜 鵑                   Vọng đế (5) xuân tâm thác đỗ quyên.
滄 海 月 明 珠 有 淚                   Thương hải nguyệt minh châu hữu lệ,
藍 田 日 煖 玉 生 煙                    Lam Điền (6) nhật noãn ngọc sinh yên.
此 情 可 待 成 追 憶                   Thử tình khả đãi thành truy ức,
只 是 當 時 已 惘 然                   Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên (7).

Vĩnh Sính dịch :
Cẩm sắt vì đâu năm chục dây?
Mỗi dây mỗi trục nhớ thương đầy.
Trang sinh sớm mộng mê thành bướm,
Thục đế tình xuân tiếng cuốc chầy.
Thương hải trăng xanh châu nhỏ lệ,
Lam Điền nắng ấm ngọc tan bay.
Tình này ví thử sau còn nhớ
Lúc đã tàn phai với tháng ngày (8).

Đọc bài “Cẩm sắt”, Lương Khải Siêu (1873-1929), nhà chính trị, nhà văn lỗi lạc đời Thanh viết :”Tôi không hiểu và thậm chí không thể giải thích ý nghĩa của từng câu thơ, nhưng tôi vẫn yêu và vẫn bị lôi cuốn bởi vẻ đẹp của thơ họ Lý”.

Và Ngô Tất Tố (1894-1954) viết :”Người ta khen bài Cẩm sắt của Lý Nghĩa Sơn (tức Lý Thương Ẩn) là thơ tuyệt diệu vì nó ý nghĩa cực rõ, mà hơn một nghìn năm nay, vẫn chưa ai hiểu tác giả định nói gì (9).
Bài “Cẩm sắt” là một bài thơ diễm tình, lời thơ cực kỳ thê lương áo não, nhất là hai câu cuối, ý rằng :“Tình này, ta hãy để cho biến thành hoài niệm, thế nhưng lúc bấy giờ đã đau thương tuyệt vọng lắm rồi”.
Có người cho rằng Lý Thương Ẩn viết bài này để tiếc thương người ái thiếp của Lệnh Hồ Sở tên là Cẩm Sắt, nhưng điều này không đúng vì khóc mướn thương vay thì không thể có giọng thơ chân thành như thế. Có người cho là ông viết để khóc thương người vợ yêu của ông là Vương thị (con của Vương Mậu Nguyên) nhưng cũng không lấy gì làm chắc. Phần đông cho là ông viết bảy bài này (sáu bài Vô đề và bài Cẩm sắt) là để tiếc thương hai nàng Phi Loan và Khinh Phượng (10).

Thơ Lý Thương Ẩn bóng bẩy, diễm lệ, giọng thơ thâm trầm u uất, một số bài hơi khó hiểu, có lẽ do mối tình ngang trái không tiện nói rõ ra. Ông thường làm thơ tượng trưng để tả những mối tình u ẩn như trong bài Vô đề, ông mượn cánh hoa tàn để nói về người cung nhân đã mất. Có người cho rằng giọng thơ của ông rất giống giọng thơ của Baudelaire (11) trong tập thơ “Les fleurs du mal” ( Ác hoa) như hai câu sau đây :

Thử hoa thử diệp trường tương ánh,
Thúy giảm hồng suy, sầu sát nhân
(Hoa kia lá ấy chiếu nhau mãi,
Xanh kém, hồng phai, buồn giết người).

Lối thơ tặng tình nhân của ông rất bóng bẩy, đẹp đẽ, tình tứ, nồng nàn, người sau ít ai bằng, nên ông được tặng cái danh hiệu là ông tổ lối thơ “hương liêm” tức thơ tình để giữ trong “hộp thơm” của đàn bà. Phái của ông, đời sau gọi là phái “chi phấn” tức phái “phấn son” (Nguyễn Hiến Lê).

Về sau, Nguyễn Du đã mượn bốn câu giữa của bài này để tả tiếng đàn của nàng Kiều trong buổi tái hồi Kim Trọng. Tố Như tiên sinh đã biến cái không khí buồn rầu u uất trong thơ họ Lý thành bầu không khí đầm ấm, vui tươi, êm ái cho hợp với cảnh sum vầy, đoàn tụ của Kim Kiều sau muời lăm năm cách biệt :

Khúc đâu đầm ấm dương hòa,
Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh?
Khúc đâu êm ái xuân tình,
Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên?
Trong sao châu rỏ duềnh quyên !
Ấm sao hạt ngọc Lam Điền mới đông !

(1)    Cẩm sắt : cây đàn gấm.
(2)    Giai thoại văn học Đường.
(3)    Vô đoan : không có lý do.
(4) Trang sinh : tức Trang Chu hay Trang tử, ông nằm mơ thấy mình hóa bướm bay khắp nơi, lúc tỉnh dậy bàng hoàng tự hỏi không biết mình hóa bướm hay bướm hóa ra mình.
(5)  Vọng đế: tứcThục đế (vua Thục) , tên là Đỗ Vũ, để mất nước, khi chết đi, tiếc thương nước cũ , hồn hóa thành chim đỗ quyên (chim quốc).             
(6) Lam Điền : tên núi, ở huyện Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây, nơi có nhiều ngọc đẹp.
(7) Võng nhiên : không biết gì cả, ngơ ngác như mất hồn.
(8) Trích “Hồn Việt I”
(9) “Thi văn bình chú” (NXB Mai Lĩnh, Hà Nội, 1952).
(10) Chế Lan Viên – Lời nói đầu cuốn “Từ Tống” (NXB TP.HCM 1992) trang 29.
(11) Baudelaire (1821-1867) : thi sĩ Pháp thuộc phái tượng trưng (symbolisme) có thi phẩm “Les fleurs du mal” (Ác hoa) rất nổi tiếng, sinh sau Lý Thương Ẩn đến hơn nghìn năm.



CHUYỆN  TÌNH CỦA  LƯƠNG KHẢI SIÊU

Lương Khải Siêu là một nhà cách mạng lỗi lạc của
Trung Quốc, có  ảnh hưởng rất  lớn  đối với các nhà
cách  mạng Việt Nam  như  các cụ Phan  Bội Châu,
Phan  Châu  Trinh,  Tăng Bạt Hổ v.v…  Trong  thời
gian sống lưu vong ở Nhật Bản, Lương Khải Siêu có
một mối tình thật đẹp còn lưu dấu trong tâm hồn ông
cho đến cuối đời.

Lương Khải Siêu (1873-1929) tự Trác Như, hiệu Nhiệm Công, còn một hiệu nữa là Ẩm Băng Thất chủ nhân (1), sinh ngày 26 tháng giêng năm Quý Dậu, niên hiệu Đồng Trị thứ hai, vào cuối đời nhà Thanh. Ông quê ở làng Hùng Tử, huyện Tân Hội, tỉnh Quảng Đông, tư chất thông minh, sinh vào thời liệt cường Âu châu và Nhật Bản thi nhau xâu xé Trung Hoa.

Ông đỗ kỳ thi hương năm 17 tuổi, năm sau đỗ kỳ thi hội. Mùa thu năm đó, ông đến bái yết Khang Hữu Vi để xin làm môn đệ, thầy trò rất tương đắc.

Tháng 3 năm 1895, Trung Nhật ký hòa ước chấm dứt chiến tranh sau khi Trung Hoa đại bại, phải chịu mất Đài Loan, lại phải bồi thường chiến phí, nhục nhã khôn kể xiết. Lương Khải Siêu làm đại biểu cho 190 vị cử nhân ở Quảng Đông, dâng thư lên triều đình xin canh tân xứ sở. Khang Hữu Vi cũng tập hợp được ba ngàn vị cử nhân dâng thư xin biến pháp để cứu nguy đất nước.

Năm 1898, Lương Khải Siêu cùng thầy nỗ lực vận động duy tân, được vua Quang Tự chấp nhận và đem thi hành, nhưng do sự phản bội của Viên Thế Khải, Từ Hy thái hậu đã thẳng tay đàn áp. Vua Quang Tự bị đày vào Doanh đài trong hồ Tây uyển, sáu người trong nhóm duy tân bị giết, gọi là “lục quân tử” (2), Khang Hữu Vi chạy sang Hương Cảng, còn Lương Khải Siêu phải trốn sang Nhật. Đó là cuộc “Mậu Tuất chính biến” (1898). Cuộc cải cách chỉ tồn tại được có 100 ngày.

Năm trốn sang Nhật Bản, Lương Khải Siêu chỉ mới 26 tuổi. Bấy giờ có một số Hoa kiều biết tiếng ông nên mời ông đến diễn thuyết ở Đàn Hương Sơn về tình hình chính trị ở Trung quốc. Trong số thính giả có cô Hà Huệ Trân nhan sắc mặn mà, tính tình hiền dịu, rất giỏi tiếng Anh, vì mến phục tài ông nên tình nguyện đứng ra làm thông dịch viên giúp ông. Rồi sau đó, trong khi làm sách, viết báo, hai người từng cộng tác với nhau chặt chẽ, khi làm thơ xướng họa, lúc đàm luận văn chương rất tâm đầu ý hợp nên tình cảm ngày càng nồng thắm.

Hà Huệ Trân vốn là một nữ sĩ tài hoa, tên tuổi, học cao, hiểu rộng. Nàng đem lòng yêu Lương Khải Siêu tha thiết, nhưng tiếc thay bấy giờ ông đã có gia đình rồi, nên nàng đành làm một người bạn để an ủi, chăm sóc ông nơi xứ lạ quê người. Về sau, nàng không lấy chồng, cứ ở vậy trọn đời.

Mối tình thầm lặng ấy khiến cho Lương bồi hồi xúc động, làm mấy chục bài thơ tình ý thiết tha, tỏ lòng biết ơn người thục nữ đã dành trọn tuổi xuân cho mình. Ông viết :

Thiên thời nhơn sự lưỡng tương thôi,
Đề quých niên hoa mỗi tự nghi.
Đa thiểu tráng hoài thù vị liễu,
Hưu thiêm di hận đáo nga mi !

Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục dịch :

Việc người ngày tạo giục nhau đi,
Tiếng quých (3) kêu xuân đã chắc gì.
Nợ nước nợ non vay chửa trả,
Nợ tình thêm vướng bạn nga mi !

Bấy giờ Lương Khải Siêu một thân lưu lạc nơi đất khách quê người, nỗi cô đơn không sao tả xiết, canh cánh bên lòng niềm đau quốc phá gia vong, lại thêm triều đình nhà Thanh treo giá cái đầu ông đến mười muôn bạc (một trăm ngàn đồng), một số tiền rất lớn lúc bấy giờ nên bọn chó săn tham tiền cứ rình rập tìm cách bắt giết ông để lãnh thưởng. Trong hoàn cảnh ấy, ông còn lòng dạ nào nghĩ đến tình yêu dù biết nữ sĩ Hà Huệ Trân muốn đem cả tuổi xuân và cuộc đời mình phó thác cho ông. Vì thế ông làm bài thơ sau đây :

Không ai cô bảo đáng tài trai,
Mà để mắt xanh có một tôi.
Nghĩ lại ơn sâu nào dám phụ,
Nhiều khi tôi muốn gọi :”mình ơi !”

Tấm thân hang cọp nghĩ buồn tênh,
Há để gian nan lụy đến tình.
Đầu giá mười muôn, cô cũng biết,
Chó săn khắp xứ muốn ăn mình !

Giặc chưa trừ được, nói chi nhà,
Trăm dặm đường còn chín chục xa.
Sợ họ chê khen nhiều chuyện lắm,
Nói sao hào kiệt mến trăng hoa.

Nữ kiệt như cô mới gọi là,
Khối tình chan chứa khác người ta.
Dập dồn sóng biển không tăm tích,
Tình ấy xưa nay ít lắm mà !
(Triệu Chí Khôi dịch)

Chuyện tình của Lương Khải Siêu và những bài thơ tình ướt át ấy đến tai Khang Hữu Vi khiến ông rất bất bình. Khang Hữu Vi cho đó là loại thơ “hối dâm” (4), không xứng đáng với tư cách của một nhà cách mạng. Kể ra như thế cũng quá khắt khe vì chẳng lẽ người làm cách mạng lại không có tình cảm hay sao, huống chi mối tình của hai người là một mối tình trong trắng, thanh cao, chỉ yêu nhau trong tâm hồn, trong lý tưởng, không hề vượt ra khỏi vòng lễ giáo.

Sau cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) do Tôn Dật Tiên lãnh đạo thành công, Lương Khải Siêu về nước và năm 1913, khi Viên Thế Khải làm Lâm thời Đại Tổng thống, Lương giữ chức Tổng trưởng tư pháp. Dịp này ông có mời Hà Huệ Trân sang Bắc Kinh, nàng đến gặp ông nhưng rất giữ gìn ý tứ, chỉ trò chuyện vói ông ở phòng khách của dinh Tổng trưởng chứ không đến nhà riêng.

Khi Lương Khải Siêu phu nhân qua đời, Hà Huệ Trân từ Đàn Hương Sơn sang chia buồn với ông rồi lặng lẽ ra về, giữ cho mối tình của hai người luôn trong trắng. Điều đó khiến Lương Khải Siêu rất quý trọng nàng nên làm bài thơ :

Nhất phu nhất thê thế giới hội,
Ngã dữ Lưu Dương thật sáng chi.
Tôn trọng công quyền, cát tư ái,
Tu tương thân hậu tác nhơn sư.

Dịch nghĩa :

Cái hội thế giới một chồng một vợ,
Tôi cùng với ông Lưu Dương sáng lập ra.
Tôn trọng quyền chung mà cắt lòng yêu riêng,
Nên đem thân mình làm gương cho người.

Sở dĩ có mấy câu trên đây vì trước đó, Lương Khải Siêu và Đàm Lưu Dương cùng nhau sáng lập ra “Hội một vợ một chồng”, không ai được lấy hai vợ nên ông phải làm gương cho mọi người.
Cuối năm 1928 Lương Khải Siêu bị bệnh nặng. Ông đã phải cắt một quả thận nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Ngày 19 tháng giêng năm 1929 ông mất tại bệnh viện Bắc Bình, hưởng dương 57 tuổi (Khang Hữu Vi đã mất trước đó hai năm – 1927). Cuộc đời  Lương Khải Siêu thật đúng với hai câu thơ của ông trong bài “Chí vị thù” (Chí chưa thỏa):

Nam nhi chí hề thiên hạ sự,
Đãn hữu tiến hề bất hữu chỉ.

Nghĩa là :

Chí nam nhi hề, lo việc thiên hạ,
Chỉ có tiến hề, chẳng có ngừng.


SÁCH THAM KHẢO :
-    Lương Khải Siêu của Nguyễn văn Y (NXB Hoa Đăng Sài Gòn 1972)
-    Văn học Trung quốc hiện đại của Nguyễn Hiến Lê (NXB Nguyễn Hiến Lê Sài Gòn 1969)
-    Histoire de la Chine của René Grousset (Librairie Arthème Fayard, Paris 1942)

(1) Ẩm Băng Thất : một trong những bút hiệu của Lương Khải Siêu có nghĩa là ông phải uống nước đá (băng), nếu không thì lòng ông cuồng nhiệt về việc cứu nước, cứu dân, nóng quá chịu không nổi  (Nguyễn Hiến Lê). Người Pháp dịch là : Buveur de glaçons.
(2) Xem chú thích trong bài “Từ Hy thái hậu”.
(3) Đề quých : tên một loài chim giống như chim đỗ quyên mà ta thường gọi là chim quốc.
(4) Hối dâm : xúi giục người khác làm điều tà dâm.


THÍCH  VÀ  KHÔNG  THÍCH  ĐÀN  BÀ

Tô Đông Pha, tên thật là Tô Thức (1037-1101) và Vương An Thạch (1021-1086) là hai văn thi hào nổi tiếng một thời, cùng làm quan dưới đời Tống, nhưng quan điểm chính trị và đời sống cá nhân hoàn toàn trái ngược nhau. Vương An Thạch đứng đầu tân đảng, chủ trương dùng biến pháp cải cách triệt để đất nước. Tô Đông Pha thuộc cựu đảng, kịch liệt chống lại biến pháp ấy. Về đời tư, họ Tô rất thích đàn bà, còn họ Vương thì không.

Tô Thức có nhiều vợ và nàng hầu. Người vợ đầu tiên do cha mẹ cưới cho là nàng Vương Phất, sinh cho ông một người con trai là Tô Mại rồi mất lúc mới 26 tuổi. Người vợ thứ hai là Vương Nhuận Chi, em họ của Vương Phất. Bà này sinh các con là Đại, Quá và Quốc rồi qua đời năm 1093. Người vợ thứ ba là Vương Triêu Vân, sinh được một người con trai tên là Độn nhưng không nuôi được. Bà mất năm 34 tuổi (1096).

Tô Đông Pha thường tự nhận mình là rất tục. Ông rất tâm đắc với quan niệm của Mạnh tử :”Ẩm thực, nam nữ là thiên tính của người ta, là bản năng của người ta vậy”. Ông thường nói đùa với bạn :
- Các phép tu tiên tôi đều theo được, trừ phép tiết dục. Khó khăn vô ngần. Này nhé, thiên cổ kỳ nhân như Tô Vũ (*), nghị lực phi thường, ai triết nhân cho bằng, vậy mà cũng kiếm một cô vợ Hung Nô, có con với nàng thì hạng phàm nhân như mình tiết dục sao được chứ ! Thật là giống quan niệm của Tú Xương :

Một trà, một rượu, một đàn bà,
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta.
Chừa được cái nào hay cái ấy,
Có chăng chừa rượu với chừa trà.
(Ba cái lăng nhăng)

Thế đấy, rượu và trà có thể chừa được, còn đàn bà thì không.

Trái với Tô Đông Pha, Vương An Thạch không thích đàn bà, có lẽ là do ông quá bận tâm vì việc nước. Có lần, vợ của Vương thấy chồng ngày đêm làm việc triều đình vất vả, muốn có người săn sóc, nâng giấc ông nên không hỏi ý chồng, tự kiếm một nàng hầu cho chồng. Khi người thiếu phụ trẻ đẹp vào chào Vương, ông ngạc nhiên hỏi :

- Có chuyện gì thế?

Nàng ấy thưa :

- Bà lớn bảo cháu vào hầu ông lớn.

- Nhưng chị là ai?

- Bẩm nhà cháu ở trong quân , đi tải lương lỡ để chìm một thuyền lúa. Chúng cháu đã bán cả nhà cửa vườn tược để đền mà không đủ nên nhà cháu phải bán cháu cho bà lớn.

- Bán bao nhiêu?

- Bẩm chín trăm đồng.

Vương An Thạch cho gọi chồng chị ta lại, bảo dắt vợ về và cho luôn số tiền bán vợ.

Đối đầu với Vương An Thạch là Tư mã Quang, người cầm đầu cựu đảng. Tuy tư tưởng đối nghịch nhau nhưng hai người vẫn quí trọng nhau vì nhân cách, vì tài học và vì hết lòng lo việc nước. Cũng như Vương An Thạch, Tư mã Quang không thích đàn bà.

Lúc Tư mã Quang còn giữ một chức quan nhỏ, người vợ thượng cấp của ông thấy vợ chồng ông ăn ở với nhau đã lâu mà chưa có con, bèn bàn với bà Tư mã kiếm cho ông một nàng hầu trẻ đẹp mà không cho ông biết. Ông không hề để ý đến cô gái đó, cơ hồ không biết có nàng ở trong nhà. Bà vợ tưởng chồng ngượng vì sự có mặt của mình, một buổi tối xin phép chồng đi ra ngoài và bảo nàng hầu đợi mình đi rồi thì trang điểm cho đẹp rồi vào phòng ông. Tư mã Quang thấy nàng vào, ngạc nhiên hỏi :“ Bà đi vắng mà sao dám vào đây?” rồi đuổi nàng ra.

Mấy năm sau, vua Anh tông nghe tiếng ông tài giỏi bèn vời ông vào, cho lập riêng một thư cục ở Sùng văn viện. Ông đã viết một bộ sử vĩ đại gồm 294 quyển cộng với 30 quyển phụ lục, chép sử từ đời Chiến quốc tới đời Ngũ Đại (1362 năm).

Nghe danh vọng ông lừng lẫy, một người tên là Lưu Mông rất ngưỡng mộ, bán hết ruộng đất được 50 vạn đồng tiền, mang tặng hết cho ông để “mua một nàng hầu châm thuốc mài mực cho ông”. Ông viết một bức thư rất cảm động để tạ lòng nhưng không nhận.

Rõ thật là Lưu Mông chẳng hiểu ông chút nào. Mỗi ngày ông cặm cụi ghi chép tư liệu khoảng mười lăm trang giấy, bản thảo chất đầy cả hai phòng thì còn tâm trí đâu mà nghĩ tới đàn bà nữa.

Sách tham khảo :

- Tô Đông Pha của Nguyễn Hiến Lê (NXB An Giang 1990)
- Vương An Thạch  của Đào Trinh Nhất (NXB Tân Việt Sài Gòn 1960)
- Tư mã Quang – Vương An Thạch của Cố Nhi Tân (tức Lãng Nhân)
(NXB Phạm Quang Khai Sài Gòn 1968)


(*) Tô Vũ : Đời Hán Vũ đế, Tô Vũ đi sứ Hung Nô, chúa Hung Nô là Thiền Vu bắt phải hàng phục nhưng Tô Vũ không hàng, bị Thiền Vu tống giam, sau đó đày đi chăn dê ở Bắc hải đến 19 năm. Không biết bao giờ mới được về nước nên ông lấy một người con gái Hung Nô làm vợ và sinh con. Đến đời Hán Chiêu đế, Hán và Hung Nô hòa hiếu với nhau nên Tô Vũ mới được trả về.



CUỘC TAO PHÙNG GIỮA GIAI NHÂN VÀ DANH SĨ

Ngày xưa, qua sách vở, điển cố và giai thoại, ta thấy giai nhân và danh sĩ vốn có duyên  nợ với nhau và đã diễn ra biết bao cuộc tao phùng thú vị. Ở Trung Hoa, từ khi có thể từ, các nhà thơ làm từ cho ca kỹ hát và do đó, mối tình giữa hai bên càng thêm gắn bó. Đời Thịnh Đường, một ca nhi trẻ đẹp hát bài “Lương châu từ” của Vương Chi Hoán (1) khiến ông trở thành “thi thiên tử” (vua thơ) sau này. Đời Tống, Tô Đông Pha nhờ làm từ cho ca nhi hát mà cưới được người thiếp tài hoa xinh đẹp là Triêu Vân, vừa là tri âm vừa là tri kỷ.

Ngoài ra cũng có những cuộc tao phùng éo le như trường hợp của Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Cao Bá Quát và Dương Khuê dưới đây.

*   BẠCH  CƯ  DỊ  với  “ TỲ  BÀ  HÀNH “

Bạch Cư Dị (772-846) tự Lạc Thiên, người Hạ Khuê, tỉnh Thiểm Tây, đỗ tiến sĩ, làm quan đến chức Thượng thư  Bộ Hình. Do đấu tranh với bọn quan lại thủ cựu, ông bị biếm ra làm Tư mã Giang Châu. Tại đây, trong một đêm tiễn bạn trên bến Tầm Dương, ông tình cờ gặp người ca kỹ về già đàn cho ông nghe một khúc đàn tuyệt diệu, nhờ đó mà ông có cảm hứng viết nên bản trường ca “Tỳ bà hành” bất  hủ.
Cuộc gặp gỡ ấy quả là duyên may hiếm có :

Đàn ai nghe vẳng bên sông,
Chủ khuây khoả lại, khách dùng dằng xuôi.

Người ca kỹ ấy có ngón đàn kỳ tuyệt khiến Bạch Cư Dị phải say sưa tán thưởng. Tiếng đàn có lúc ào ào như đổ cơn mưa, có lúc khoan thai dìu dặt như lời tỉ tê tâm sự :

Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt,
Trước Nghê thường, sau thoắt Lục yêu.
Dây to dường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng.

Có lúc tiếng đàn mạnh lên như nước tuôn từ bình bạc vỡ, như tiếng đao xô xát, như tiếng xé lụa :

Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước,

Ngựa sắt giong,  xô xát tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.

Qua lời tả của Bạch Cư Dị, ta thấy người ca kỹ ấy quả là một danh cầm. Thật vậy, theo lời nàng kể thì lúc còn trẻ, tiếng đàn của nàng đã từng làm xao xuyến say mê biết bao khách hào hoa phong nhã ở đất Ngũ Lăng :

Ngũ Lăng chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn.

Vành lược bạc gãy tan nhịp gõ,
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.

Nhưng rồi mải đắm mình trong hoan lạc không để ý đến thời gian qua nhanh, tuổi già đến lúc nào không hay, nàng đành kết duyên với một khách thương, nhưng người này ham tiền nên đi buôn bán rày đây mai đó, bỏ mặc nàng cô đơn trên chiếc thuyền con ở bến Tầm Dương :

Thuyền không, đỗ bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng dãi nước trôi lạnh lùng.

Bạch Cư Dị thấy hoàn cảnh của nàng cũng giống như hoàn cảnh bị đày ải của mình, “cùng một lứa bên trời lận đận” nên rất xúc động, bèn  yêu cầu nàng  ngồi rốn lại  gảy chơi
khúc nữa và lần này thì :

Nghe não nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi,
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang Châu tư mã đượm mùi áo xanh.

Bạch Cư Dị đã khóc đến ướt đẫm cả áo xanh ; ông khóc vì tiếng đàn buồn, khóc cho số kiếp hẩm hiu của nàng hay khóc cho thân thế của chính mình? Có lẽ cả ba.
Cuộc kỳ ngộ này quả là một duyên may hiếm có của Bạch Cư Dị, nếu không, ông đã không có được tác phẩm “Tỳ bà hành” lưu danh thiên cổ.

*   NGUYỄN  DU  với  “ LONG  THÀNH  CẦM  GIẢ  CA ”

     Nguyễn Du (1765-1820) tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Thời trẻ, Nguyễn Du đã từng nổi tiếng là một cậu ấm đa tình.
Một lần tiên sinh đến kinh đô thăm anh, ở quán trọ bên hồ Giám. Cạnh đấy, các quan Tây Sơn cho gọi bọn con hát tới, những con hát nổi tiếng không dưới vài chục người. Riêng có một người sở trường về đàn nguyệt, hát cũng hay lại khéo pha trò. Tên nàng là gì không ai biết, chỉ biết nàng rất thạo đàn nguyệt nên mọi người gọi là cô Cầm, lâu ngày thành tên.

Nàng không đẹp lắm nhưng khéo trang điểm nên cũng dễ coi, có vẻ ung dung phong nhã và ngón đàn của nàng thật là tuyệt kỹ :

Bàn tay tiên năm dây biến hóa,
Tiếng khoan như thoảng gió rừng thông.         
Trong như tiếng hạc đêm trường,
Mạnh bia Tiến Phúc (2) gặp luồng sấm ran.
Sầu thảm tiếng ngâm Trang Tịch (3) bệnh,
Khách ngồi nghe như tỉnh như say.

Đến khi nàng tấu khúc nhạc thường dùng  trong đại điện Trung Hòa thì khanh tướng Tây Sơn thảy đều ngây ngất, suốt đêm vui chơi không biết chán. Tiền lụa thưởng nhiều vô kể, chất đầy mặt đất :
Trung Hòa đại điện khúc này,

Tây Sơn quan khách chắp tay phục tài.
Cười vui suốt đêm dài chẳng dứt,
Thưởng tài, ai mặc sức tiền vung.        
Tiền vàng xem tựa đất bùn,
Hào hoa lấn cả vương tôn công hầu.

Rồi tình hình đất nước biến chuyển, Tây Sơn tiêu tan cơ nghiệp, nhà Nguyễn lên thay, Nguyễn Du vào Nam, thấm thoắt đã hai mươi năm không gặp lại người xưa :
Thấm thoắt hai mươi năm từ ấy,
Tây Sơn thua, ta trẩy vào Nam.

Sau đó tiên sinh ra làm quan với triều Nguyễn, dưới đời vua Gia Long. Năm Quí Dậu (1813) tiên sinh được vua phái đi sứ Trung Hoa. Khi ghé Thăng Long, tiên sinh được quan Tuyên phủ tiếp đãi ân cần, nồng hậu, lại cho gọi bọn nữ nhạc, con hát đến giúp vui. Các con hát đều trẻ đẹp, duy ở cuối bàn có một người đàn bà tóc đã hoa râm, nét mặt võ vàng, thần sắc khô khan, đôi mày tàn tạ, phờ phạc không trang điểm. Nhưng khi một khúc đàn cầm trong trẻo vút lên, khác hẳn các khúc nhạc đương thời thì Nguyễn Du cảm thấy rất quen và động lòng trắc ẩn. Tiệc tan, tiên sinh đến hỏi thăm thì chính là cô Cầm ngày xưa, nhưng sao lại tiều tụy đến thế này !

Cuối bàn một mái hoa râm,
Nét buồn, sắc kém, tấm thân mai gầy.
Chẳng son phấn, mặt mày ủ dột,
Chính danh ca số một ngày nao.
Khúc xưa, giọng mới, lệ trào,
Lắng nghe ta thấy nao nao ngậm ngùi.

Nguyễn Du nhớ lại hai mươi năm trước đã từng gặp nàng trong bữa tiệc bên hồ Giám mà thấy lòng cảm thương vô hạn. Dâu bể đổi dời, cuộc đời chìm nổi, cơ nghiệp nhà Tây Sơn đã tiêu tan hết, chỉ còn sót lại đây một người ca kỹ ! Thời gian trôi qua nhanh quá, trăm năm chỉ như chớp mắt, đau lòng việc cũ mà lệ rơi thấm áo :

Thành dời, cuốn sử sang trang,
Bể dâu, dâu bể tang thương dập dồn.
Cơ nghiệp nhà Tây Sơn đã mất,
Chỉ còn đây múa hát một người.
Trăm năm chớp mắt mà thôi,
Đau lòng việc cũ lệ rơi đầm đìa.
(Phạm Vũ Toản dịch)

Nguyễn Du đã từng thương xót nàng Tiểu Thanh, Đạm Tiên, Thúy Kiều và nay là người nữ nhạc công đa tài nhưng số phận hẩm hiu. Cuộc trùng phùng đã đong đầy nước mắt. Bài “Long thành cầm giả ca” (bài ca về người đánh đàn cầm ở thành Thăng Long) của Nguyễn Du là một áng thơ tuyệt tác gây xúc động lòng người.

* CAO BÁ QUÁT với “ DU HỘI AN PHÙNG VỊ THÀNH CA GIẢ”

Cao Bá Quát (1809-1854) biệt hiệu Chu Thần (bề tôi nhà Chu), người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, là một bậc tài hoa, văn chương xuất chúng nổi tiếng một thời (thần Siêu, thánh Quát).
Ông rất yêu thiên nhiên và yêu người. Trong bài “ Đêm 17 dưới ánh trăng” ông mô tả một người con gái đẹp đứng dưới ánh trăng trong như nước, nàng tựa lan can thầm nghĩ  “không lo đêm dài lạnh, chỉ sợ trăng sắp tàn”. Nàng nghĩ khi 16 tuổi, mình cũng đẹp như mảnh trăng này. Tiếc cho sắc đẹp của mình cũng như  ánh trăng, cứ dần dần trôi đi, trôi đi mãi. Cô gái không nỡ để cho ánh trăng bị hao phí, nàng khẽ nâng tà áo bọc lấy ánh trăng, rồi xén ra thay giấy, viết thành lá thư tâm sự gửi người yêu (4). Thật là giàu tưởng tượng và lãng mạn vô cùng.

Sinh ở đất Bắc, làm quan ở Huế, nhưng Cao Bá Quát cũng đã nhiều lần vào Quảng Nam, Quảng Ngãi để thăm bạn và viếng cảnh. Đến Hội An (Quảng Nam) tình cờ ông gặp lại cô đào hát ngày xưa ông đã từng quen và đem lòng yêu mến. Ông làm bài thơ “ Du Hội An phùng Vị thành ca giả” (Chơi phố Hội An gặp cô đào hát thành Vị) (5) trong đó ông tỏ ý tiếc là gặp nhau quá muộn, mà lại gặp nhau ở nơi đất khách quê người! Ông viết : Xa quê hương đã mấy thu rồi mà nay mới được nghe tiếng ti, tiếng trúc. Nước mắt dù cạn, ly rượu vẫn còn đầy. Ngọn đèn còn cháy, lửa lòng sao nỡ tắt! Bạn cũ lưu lạc khắp nơi, nay còn được bao người, thôi thì hẹp lòng chi mà không cho nghe khúc hát!

Bây giờ mới gặp nhau,
Gặp nhau nơi đất khách.
Trúc tơ đêm trăng này,
Đất nước mấy thu cách.
Lệ cạn, rượu còn đầy,
Đèn còn, lòng nỡ tắt.
Bạn bè lưa thưa dần,
Tiếc gì nhau khúc hát !
Thật là chí tình vậy.

* DƯƠNG  KHUÊ  với  “ GẶP  CÔ  ĐẦU  CŨ “

Dương Khuê (1839-1902) hiệu là Vân Trì, người làng Vân Đình, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông, cũng là một khách đa tình. Ông có nhiều bài hát nói viết về các cô đầu nhan đề : Cùng ai dan díu, Tặng cô đào Phẩm, Tặng cô đào Cúc, Tặng cô đào Ngọ, Tặng cô đào Cần , Tặng cô đào góa v.v… Nhưng đến bài “ Gặp cô đầu cũ” ta mới thấy tình ông tha thiết dường nào.

Thời trẻ, trong những lần đi hát, ông có quen biết hai đào nương là Hồng và Tuyết, nhưng hồi ấy hai cô còn bé lắm, đâu đã biết chuyện yêu đương. Mười lăm năm sau gặp lại, hai cô đã đến tuổi lấy chồng, còn ông thì đã già rồi. Ông bèn làm bài hát nói “ Gặp cô đầu cũ” với mưỡu đầu như sau :

Nước, nước biếc, non, non xanh,
Sớm tình, tình sớm, trưa tình, tình trưa.
Nhớ ai tháng đợi năm chờ,

Nhớ người dạo ấy bây giờ là đây.
 

NÓI :

Hồng Hồng, Tuyết Tuyết,
Mới ngày nào  chửa biết cái chi chi.
Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì,
Chợt ngảnh lại đã đến kỳ tơ liễu.
Ngã lãng du thời, quân thượng thiếu,
Quân kim hứa giá, ngã thành ông (6).
Cười cười, nói nói thẹn thùng,
Mà bạch phát với hồng nhan (7) chừng ái ngại…

Bài hát nói tả nỗi buồn vì gặp lại người xưa quá muộn và nỗi xót xa vì thời gian qua mau khiến người đọc cũng cảm thấy nao lòng.
*
Cao Bá Quát đã từng viết “ Giai nhân nan tái đắc”  (người đẹp khó gặp lại), Lý Thương Ẩn đời Đường cũng viết “ Tương kiến thời nan, biệt diệc nan” (khó gặp nhau mà cũng khó xa), nhưng gặp nhau trong hoàn cảnh éo le như các nhà thơ trên đây thì thật đáng buồn.
Thời gian qua mau, cuộc đời biến chuyển không ngừng mà thân phận của giai nhân nổi chìm theo thời cuộc, khi gặp lại nhau thì đã già rồi, kỷ niệm xưa chỉ còn là dĩ vãng. Nhưng cũng nhờ đó mà ngày nay ta mới được đọc những áng thơ tuyệt tác và hiểu được tâm sự của tiền nhân.
__________________________________________________              
(1) “Lương Châu từ” là tên một bài hát. Vương Hàn cũng có một bài “Lương Châu từ” rất nổi tiếng, mở đầu bằng câu “Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi”.    .        
(2) Bia Tiến Phúc : bia dựng ở Nhiêu Châu, tỉnh Giang Tây, chữ rất đẹp. Đời Tống có người học trò dâng lên Phạm Trọng Yêm một bài thơ. Để giúp đỡ trò nghèo, Phạm cho phép người học trò này dập 1000 bản chữ bia để bán lấy tiền. Nhưng khi người học trò đến nơi thì bia đã bị sét đánh vỡ tan. Ở đây tác giả tả tiếng đàn rất mạnh mẽ như tiếng sét đánh vào bia.
(3) Trang Tịch: người nước Việt làm quan nước Sở. Ngày thường nói tiếng Sở,                          nhưng lúc bệnh nặng thường ngâm thơ bằng tiếng nước Việt. Ở đây tác giả tả tiếng đàn buồn thảm.
(4)    Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (NXB Văn Học Hà Nội 1977).
(5) Thành Vị hay Vị thành: thành phố Nam Định vì ở đấy có sông Vị hoàng chảy qua.
(6) Hai câu thơ chữ Hán nghĩa là: Khi ta đang thời phóng lãng thì hai nàng còn bé, nay hai nàng đến tuổi lấy chồng thì ta đã già rồi.
(7) Bạch phát là tóc trắng, hồng nhan là má hồng. Già và trẻ.

Bài đọc thêm


TỲ  BÀ  HÀNH  của  BẠCH CƯ DỊ

PHAN HUY VỊNH dịch (*)

Bến Tầm Dương (1) canh khuya đưa khách,
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu..
Người xuống ngựa, khách dừng chèo,
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti.
Say những luống ngại khi chia rẽ,
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong.
Đàn ai nghe vẳng bên sông,
Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi.
Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?
10. Dừng dây tơ nấn ná làm thinh.
Dời thuyền ghé lại thăm tình,
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui.
Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa.
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua,
Dẫu chưa nên khúc, tình đà thoảng hay.
Nghe não nuột mấy dây buồn bực,
Dường than niềm tấm tức bấy lâu.
Mày chau, tay gảy khúc sầu,
20. Giãi bày hết nỗi trước sau muôn vàn.
Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt,
Trước Nghê thường, sau thoắt Lục yêu (2).
Dây to dường đổ mưa rào,
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng.
Tiếng cao thấp lựa chen lần gảy,
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu.
Trong hoa oanh ríu rít nhau,
Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh.
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt,
30. Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ.
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ,
Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay.
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước,
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao.
Cung đàn trọn khúc thanh tao,
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt,
Một vầng trăng trong vắt lòng sông.
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong,
40. Áo xiêm khép nép hầu mong giãi lời.
Rằng :“Xưa vốn là người kẻ chợ,
Cồn Hà Mô (3) trú ở lân la.
Học đàn từ thuở mười ba,
Giáo phường(4) đệ nhất sổ đà chép tên.
Gã Thiện tài (5) sợ phen dừng khúc,
Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô.
Ngũ Lăng (6) chàng trẻ ganh đua,
Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn.
Vành lược bạc gãy tan nhịp gõ,
50. Bức quần hồng hoen ố rượu rơi.
Năm năm lần lữa vui cười,
Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu.
Buồn em trẩy, lại lo dì thác,
Sầu hôm mai đổi khác hình dong.
Cửa ngoài xe ngựa vắng không,
Thân già mới kết duyên cùng khách thương.
Khách trọng lợi, khinh thường ly cách,
Mải buôn chè, sớm tếch miền khơi.
Thuyền không đỗ bến mặc ai,
60. Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng.
Đêm khuya sực nhớ vòng tuổi trẻ,
Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen”.
Nghe đàn, ta đã chạnh buồn,
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời :
“Cùng một lứa, bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau.
Từ xa kinh khuyết (7) bấy lâu,
Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai.
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích,
70. Tai chẳng nghe đàn địch cả năm.
Sông Bồn  gần chốn cát lầm,
Lau vàng, trúc võ, âm thầm quanh hiên.
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối,
Cuốc kêu sầu, vượn nói nỉ non (8).
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn,
Lần lần tay chuốc (9) chén son ngập ngừng.
Há chẳng có ca rừng, địch nội,
Giọng líu lo, buồn nỗi khó nghe.
Tỳ bà nghe dạo canh khuya,
80. Dường như tiên nhạc gần kề bên tai.
Hãy ngồi lại, gảy chơi khúc nữa,
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca”.
Tần ngần (10) dường cảm lời ta,
Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây.
Nghe não nuột khác tay đàn trước,
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi.
Lệ ai chan chứa hơn người,                              
88. Giang châu tư mã đượm mùi áo xanh.
_____________________________________________
(*) Nay có tư liệu cho rằng dịch giả bài Tỳ bà hành là Phan Huy Thực.
(1) Tầm Dương: khúc sông Trường Giang chảy qua tỉnh Giang Tây, thị trấn Cửu Giang.
(2) Nghê thường, Lục yêu: tên hai bản nhạc.
(3) Hà Mô: ở phía nam thành Trường An, nổi tiếng vì có nhiều ca nữ.
(4) Giáo phường: cơ quan huấn luyện ca nữ đời Đường.
(5) Thiện tài: tên gọi nhạc sư đời Đường (theo Trần Trọng San).
(6) Ngũ Lăng: ở phía bắc Trường an, nơi có nhiều nhà quí tộc ở.
(7) Kinh khuyết: kinh đô. Tháng 10 năm Nguyên Hòa thứ 10 (816) Bạch Cư Dị bị đổi ra làm tư mã ở Giang Châu.
(8) Bản chép khác: vượn hót véo von, nhưng chữ “hót” không có vần với chữ “nói” ở câu trên.
(9) Bản chép khác: Một mình tay chuốc…
(10) Bản chép khác: Đứng lâu dường cảm lời ta.

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com