HUỲNH VĂN HOA: Thương nhớ VĂN CAO

Vậy là Văn Cao đã vĩnh biệt chúng ta, về với Thiên thai, Suối mơ rồi! Thiên tài ấy đã đi qua đời này và đã để lại những kiệt tác đích thực, sáng chói, không chìm với thời gian. Nói như ai đó, ông là “nghệ sĩ trên nghệ sĩ. Một mình ôm mấy vùng ánh sáng”. Sẽ có rượu và hoa trong mỗi lần nhớ - nghĩ đến ông. ông là người đã yêu nhân dân, Tổ quốc mình đến độ đớn đau, quặn thắt:

Tất cả tình yêu khát khao hy vọng
Bốc lên trong lòng
Rơi xuống những giọt nước mắt...

(Trường ca Những người trên cửa biển)

Có một lần Tạ Ty đã viết về ông: “Văn Cao nhập cuộc không phải bằng tài năng đơn độc mà bằng một thác lũ nghệ thuật”. Đúng vật, bằng nhiều loại hình ngôn ngữ, dòng lũ sáng tạo cuộn chảy trong âm nhạc, thơ ca và hội họa. Tất cả đều ghi đậm dấu ấn riêng biệt.

van-cao-1

Tạp chí Văn Học (Sài Gòn - 1970) số đặc biệt về Văn Cao (chân dung Văn Cao tự họa năm 1957). Tư liệu L.M.Q


Sinh ra và lớn lên ở Hải Phòng, một vùng đất vừa hiền hòa, êm dịu của phù sa bờ bãi sông Hồng, vừa dữ dội của sóng biển thét gào, ông yêu vô cùng mảnh đất ấy: “Sinh tôi ra đã có Hải Phòng... Tôi nghe tiếng hát mẹ chiều ru võng. Những ca dao của đồng lúa quê hương. Những dáng cò lặn lội. Những cánh cò bồng bế tôi đi”. Nhưng cũng Hải Phòng đó với “hàng vạn người không ruộng cày ra biển, những đám khói đen, đọng giữa trời sương sớm, buổi chiều không cơm cháo, bàn tay mẹ tôi quờ trong thạp gạo, đời người ở đây không được như cây”. Đó là những gì của tuổi thơ Văn Cao. Lớn lên, quần đảo với áo cơm, những đám mây, những ngày biển động, những thân phận bèo bọt nổi trôi của thời nước mất sao buồn bã vậy. Văn Cao vào đời gay gắt và quyết liệt là thế, mộng mơ hy vọng cũng là thế. Sự phân liệt trong cảm xúc như giằng xé nhau, đẩy đến đỉnh điểm. Điều ấy càng làm cho tinh anh, tài hoa phát lộ, xô chảy dữ dội và phong phú. Ngỡ có gì đối nghịch giữa những Suối mơ, Buồn tàn thu, Trương Chi, Thiên thai, Thu cô liêu với những Tiến quân ca, Trường ca sông Lô, Bắc Sơn, Thăng Long hành khúc, Không quân Việt Nam, song không phải vậy.

Văn Cao nhập Thiên thai, tìm đến Lưu Nguyễn, lạc vào Suối mơ, "nghe suối róc rách trôi, hoa lừng hương gió ngát, đàn ai lùa trong khóm lá vàng tươi", cũng như "một chiều xưa trăng nước chưa thành thơ. Trầm trầm không gian mới rung thành tơ" đã diễn tả đúng cung bậc tâm hồn của người nghệ sĩ muốn quay về xứ sở thơ mộng, chối từ hiện tại. Thái độ phủ nhận đó có cơ sở xã hội. Nhưng rồi, "ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian". Suối trần gian đã kéo Văn Cao đến những cuộc đời bụi lầm, xẻ chia bao nỗi thông khổ của đồng loại, nhập vào hồn sông núi. Chút bình yên cũ tuột mất, chỉ u uất, rạc rời, đói nghèo. Hà Nội, Hải Phòng run lên. Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc đưa người đọc du địa phủ, chênh vênh giữa hai bờ vực thẳm. Khoảng đó, cuối 1944, đầu 1945, trên một căn gác tồi tàn giữa xóm Vạn Thái, Văn Cao đã sống, đã chứng kiến thân phận của người dân cùng trong một nước thuộc địa. Đêm đêm, qua ô cửa sổ, nhìn những ngọn đèn dầu tù mù treo sau những chiếc xe chở xác người chết đói, lắc lư qua ngã tư:

Chiếc xe ma chở vội một đêm gầy...
Bánh nghiến nhựa đường nghe kêu sào sạo
Ai vạc xương đổ sọ xuống lòng xe
Chiếc quỷ xa qua bốn ngả ê chề
Chở vạn kiếp đi hoang ra khỏi vực...

van-cao-2

Thiên thai - bản in của NXB Tinh Hoa (Huế) năm 1952. Tư liệu L.M.Q

Trong cái buốt lạnh của mùa đông Hà Nội sực mùi tử khí, không một tiếng kèn đưa ma, không một giọt nước mắt, may sao Tiếng xe dần xa lánh - Khi gà đầu ô kêu. Bình minh mới đã hé rạng. Văn Cao nhập với đời bằng một Tiến quân ca. Nguồn cảm hứng được tiếp tục. Bài thơ dài Ngoại ô mùa đông 46, thời điểm bùng nổ ngày toàn quốc kháng chiến, những con người của Hà Nội cũ nay đứng chung trong một chiến hào: Bao người bệnh tật thời xưa - Từng sống rạc rài viễn phố - Bao người ấy bây giờ - Súng gươm giữ từng hầm hố. Cái lay lắt của ngoại ô nhập nhòa, lạnh lẽo, bốn mùa ngả nghiêng trụy lạc, đã đứng lên rồi: Hà Nội ca và chiến đấu quanh ta. Từ đây, một chủ nghĩa nhân văn chân thành ra đời. Văn Cao đi kháng chiến, rong ruổi trên những ngã đường Khu 3, Việt Bắc sống, sáng tác. Chất liệu mới góp phần làm nên những Trường ca sông Lô, Ngày mùa, Làng tôi...

Sông Lô sáng ngàn Việt Bắc bãi bờ ngô lau núi rừng âm u
Sông Lô sóng rừng kháng chiến cháy bờ lau thưa đã tàn thôn trang
Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu nước sông Lô xưa...

(Trường ca sông Lô)

Ông yêu đất nước này bằng một tình yêu thiết tha, cháy bỏng. ông phẫn nộ trước cảnh "Đồng không nhà trống tan hoang. Chiều khi quân Pháp qua, chiều vắng tiếng chuông ngân, phá tan nhà thờ xưa" và hân hoan, ngợi ca "Làng tôi theo đoàn quân du kích, tước ngay súng quân thù trả thù xưa" (Làng tôi). Âm nhạc kháng chiến của Văn Cao đậm sắc màu dân tộc. Đây là sự hóa thân của tác giả vào dáng núi, hình sông của Tổ quốc. Những nẻo đường trung du, những đồi cọ đồi chè, những cánh đồng ngày mùa vàng thơm lúa chín, những dòng sông thắm đỏ phù sa... trong các ca khúc đều biểu hiện khát vọng, niềm tin của ông vào sự nghiệp chiến đấu thân thánh, chống ngoại xâm của dân tộc.

x

Nhân cách của Văn Cao cao vòi vọi. Vì thế, ông bất bình và đau đớn trước cái giả và cái ác. ông viết về những bạn văn của mình như một sự tỏ bày, chia sớt: Bao giờ được nghe bản tình ca - Bao giờ bình yên xem tranh tĩnh vật - Bao giờ - Bao giờ chúng nó đi tất cả - Những con người không phải của chúng ta (Anh có nghe không). Ông nặng nợ với những trang viết của Nguyễn Huy Tưởng, xót xa một đời văn sớm tắt, ông chìm khuất trong những phố phường của Bùi Xuân Phái: "Không số nhà, không tên phố, tôi gửi bài thơ về - Phố Phái - Người đưa thư sẽ tìm đến phố anh". Ông viết về người cùng quê - Nguyên Hồng - để nhớ cửa biển, con tàu, một đường An Dương "một con sông Cấm, nơi anh nơi tôi hai xóm nghèo được sống". Với Nguyễn Sáng, ông nhớ những "đêm quán" với chén rượu nghèo, món ăn nguội, con đường tàu than bụi và bàn rượu ngày mưa. Nơi ấy lầm lũi những cuộc đời, nơi ấy có người "trở về một mình, tìm một cái gì không thể thấy được". Những bài thơ viết cho bạn, mỗi bài một nét nhưng khắc họa khá rõ các chân dung. Tất cả đắm sâu những sẻ chia.
x

Cây đại thụ đã nằm xuống. Song, ngọn núi sáng tạo ấy vẫn sừng sững soi bóng xuống cuộc đời. Đời vẫn mãi mãi thương tiếc và nhớ Văn Cao.

 

Đà Nẵng, 11 - 07 - 1995

HUỲNH VĂN HOA

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com