BÁO CHÍ Thư mục Lưu Đình Triều "Tự truyện" LƯU ĐÌNH TRIỀU

"Tự truyện" LƯU ĐÌNH TRIỀU

Mục lục
"Tự truyện" LƯU ĐÌNH TRIỀU
21 NĂM: CHIA LY & HỘI NGỘ
* Góc tối đời tôi
* Cuộc đoàn tụ một nửa
HÒA HỢP DÂN TỘC NHÌN TỪ MỘT NHÀ BÁO
*Đứa con bên kia chiến tuyến
* Bước rẽ
* Những tiếng chuông gọi người đến muộn
* Anh quản giáo
Tất cả các trang

clip_image002

Nhà báo Lưu Đình Triều


 

Lời thưa,

Có thể ghi nhận đây là "tự truyện" của nhà báo Lưu Đình Triều. Anh viết chân thành và xúc động. Lịch sử đất nước có những biến động, tất nhiên số phận cá nhân riêng lẻ cũng không đứng ngoài. Những trang viết này gợi mở cho ta nhiều điều suy nghĩ thú vị. Tôi sắp xếp bài viết này chung với bài trò chuyện của nhà báo Lê Minh Đức - nhằm giúp bạn đọc dể hình dung được tâm thế, suy tư của nhà báo Lưu Đình Triều trong một mạch cảm xúc nhất quán.

Lê Minh Quốc

1.8.2012


   

21 NĂM: CHIA LY & HỘI NGỘ

 

7.600  ngày mồ côi

Ngoại vừa đi “hóng chuyện” về, kêu hai chị em lại: “Tao nghe nói mai trên Sài Gòn làm lễ mừng chiến thắng lớn lắm. Có cả cán bộ ngoài Hà Nội dzô. Hay thằng Triều chạy xuống đó hỏi thăm tin tức ba má tụi bây coi sao”.

“Trời! Quá xá người, biết ai mà hỏi hở ngoại? Mà hỏi liệu người ta có biết ba má con là ai không?”. Giọng ngoại tôi có vẻ bực mình: “Lớn rồi mà sao ngu quá! Thì cứ nói ba tui là nhà báo tập kết hồi năm 54, tên Lưu Quý Kỳ. Có ba có má mà không biết đi tìm”.

Chị hai tôi nãy giờ im lặng giờ mới cất tiếng, giọng tủi hờn: “Ba má bỏ tụi con mà đi biền biệt. Giờ về, có thương có nhớ thì ba má phải đi tìm tụi con chứ”. “Con Hà đừng nói tầm bậy, cha mẹ nào mà lại không thương con. Biết đâu ba má tụi bây cũng đang đi tìm kiếm nhưng không nhớ nổi nhà mình thì sao”.
Rồi ngoại chuyển giọng, đổi cách xưng hô, như mọi lần khi bộc lộ tình cảm: “Hai đứa con biết không, từ hôm giải phóng đến giờ không đêm nào ngoại ngủ được. Ngoại cứ thầm cầu Trời khấn Phật sao cho sớm gặp lại ba má tụi con. Ngoại sắp 70 tuổi, cũng gần đất xa trời lắm rồi. 21 năm, ngoại cực khổ biết bao nhiêu nhưng không nề hà, chỉ mong cái ngày gia đình mình sum họp vui vầy là ngoại yên tâm nhắm mắt”.

Giọng ngoại nghẹn lại, nước mắt từ từ chảy ra trên gương mặt nhăn nheo. Cả hai chị em tôi không bảo mà cùng nhào tới ôm ngoại và... khóc.

Không biết ở độ tuổi lớn khôn nào đó chị Lưu Hà và tôi bắt đầu biết lờ mờ về lai lịch của mình. Theo lời ngoại, đâu cuối tháng 9-1954 bà được ba má tôi nhắn xuống Cà Mau gấp. Như thường lệ, bà mua vội một ít quà rồi tất tả ra đi. Mấy ngày ấy trời mưa liên tục và lòng người cũng không ngớt tuôn mưa. Bên dòng kênh Phó Sinh (huyện Sử), chốc chốc má tôi lại ôm chầm lấy mẹ, siết chặt hai con, nước mắt ràn rụa.

clip_image001_a

Bức ảnh chụp hai chị em (đang được bồng) trong khu kháng chiến vài ngày trước khi ngoại xuống đón về - cuối tháng 9-1954. Trong ảnh chỉ có người cha (đứng thứ sáu từ phải sang), còn mẹ không chịu ra chụp vì quá buồn rầu - Ảnh tư liệu.

Ngoại tôi cũng khóc, nhưng là mẹ nên phải ra sức vỗ về con mình: “Nín đi con, hai năm không là bao”. “Nhưng chắc gì hai năm về hở má?”. Má tôi nói và càng tuôn nước mắt. Lưu luyến, bịn rịn mãi rồi cũng đến lúc ngoại cắn răng, gạt nước mắt, tay ôm đứa cháu trai nhỏ 1 tuổi, tay dắt đứa cháu gái 3 tuổi đi lạch bạch xuống xuồng trở về... Và với một người đàn bà tuổi gần 50 như ngoại ngày ấy, hẵn đã phải nhiều vất vả, lo toan  khi phải trở thành một người mẹ đơn thân, cùng hai con bé bỏng.  

Trong khoảng sâu ký ức của mình, tôi chỉ lờ mờ nhớ rằng khi còn bé tối ngủ bao giờ ngoại cũng nằm giữa hai chị em tôi. Bà ru giấc ngủ hai cháu không phải bằng các câu chuyện cổ tích mà thay vào đó là những bài kinh Phật mà bà thường xuyên tụng ở tịnh xá Ngọc Bửu vào các ngày rằm.

Căn nhà gỗ lợp ngói rộng lớn ở ngã ba Thành, thành phố Biên Hòa (nhà hương hỏa bên ngoại) thường xuyên chỉ có ba bà cháu với nhau. Ngoại tôi là người đàn bà đơn côi, có con nhưng lại không chồng. Câu chuyện buồn đời bà, mỗi khi chúng tôi hỏi, bà luôn nạt lớn cho qua chuyện.

Không có nghề nghiệp gì, nay thêm hai miệng ăn , ngoại càng phải ra sức “lặn lội thân cò”.  Bà chạy chợ khắp nơi , từ miền Đông, xuống miền Tây, rồi men đến biên giới Campuchia  để mua đi bán lại đủ loại hàng hóa từ mắm, khô, cá... cho đến nhan đèn,  xà bông mỹ phẩm… Những ngày ngoại đi vắng, hai chị em tôi cứ lê la “ăn chực, ăn chờ” ở  nhà ông bà Sáu-em của ngoại hoặc một vài nhà hàng xóm tốt bụng.  Những ngày ấy, chị em chúng tôi cứ chạy rong cho đến khuya mới về , vì sợ phải ở trong ngôi nhà vắng vẻ.  Có những  đêm hai chị em nằm thu mình lại trong cái mền phủ kín đầu, thấp thỏm chờ đợi một tiếng guốc vọng vang ngoài cửa.

Tuổi thơ của hai chị em tôi cứ vậy như cây hoang, cỏ dại. Bạ ai chơi đó, bạ đâu ăn đấy. Bảy, tám tuổi tôi đã biết kết bè kết bạn ra vựa trái cây, đứa đi trước lấy tay gạt trái cam, trái quít rơi xuống, đứa sau vờ thản nhiên đi tới dùng chân đá mạnh tới trước cho đứa kia nhặt... 9, 10 tuổi tôi đã lận lưng bộ bài nhỏ xíu đi đánh cắctê kiếm tiền ăn bánh mì, uống xirô...

Cũng chẳng biết tuổi thiếu niên của tôi rồi sẽ ra sao, nếu như một ngày kia trước sân nhà tôi không đổ xịch một chiếc xe Jeep và bước xuống là một ông đại úy mặc quân phục láng coóng.



* Góc tối đời tôi

Ông đại úy đó chình là một người em họ của ba tôi. Khi về đóng quân ở Biên Hòa ,nghe loáng thoáng có hai đứa cháu họ đang sống cù bơ cù bất nơi đây, ông đã bỏ thời gian dọ hỏi,tìm kiếm.Lần ấy ,ngoại vui mấy ngày liền Không phải vì số tiền  chú gửi lại cho hai cháu ăn quà mà vì nghe chú nói ba tôi còn 3  người em ruột đang sống trong Nam,.Ngoại  bảo:"Ông bà xưa nói Sảy cha còn chú.Tao chỉ mong chú tụi bây – có người là hiệu trưởng sẽ nhận nuôi dạy cho tụi bây học hành tử tế,nên người.".

Sau cuộc gặp chú họ tôi ít lâu thì chú Dũng em út của ba tôi tìm đến nhà.. Hai chị em được chú đưa đi chôi công viên,được chụp hình ,được xem phim và cả được ăn phở - món xa xỉ phảm đối với tôi hồi ấy.Chú Dũng giúp ngoại tôi liên lạc được với chú  Chiểu ,cô Hạnh..Để rồi có một ngày, bà tôi  ôm chặt hai cháu vào lòng, hôn lấy hôn để, thì thầm dặn dò:Xa hai con ngoại cũng đứt ruột đứt gan lắm, nhưng ở đây ngoại chẳng lo nỗi đầy đủ cho hai con.Thôi thì lên đó,hai con liệu đường mà sống. Phải ngoan ngoản,chịu nghe lời  chú thím để mà yên thân ăn  học nghe các con... 5 giờ sáng Sài Gòn  còn mờ tối, hai chị em tôi lếch thếch xách túi leo lên xe đò ,bắt đầu một cuộc hành trình mới .

clip_image002_a
(Lưu Đình Triều  và chị Lưu Lưu Hà cùng chú Dũng ở bờ sông Biên Hòa trước ngày lên Ban Mê Thuộc- nguồn ảnh : báo  Việt Nam News)

Chú tôi là hiệu trưởng của .trường tiểu học lớn nhất thành phố Ban Mê Thuộc và có mối quan hệ rộng.Ông làm giấy thế vì khai sinh cho chúng tôi với hai người chứng hẳn hoi.Tên tôi vẫn thế ,nhưng ngày tháng năm sinh thì không phải  đúng cái ngày  "đình chiến Triều Tiên" và tôi bị lớn hơn tuổi thật của mình một tuổi. Chị tôi cũng mang một ngày sinh hoàn toàn xa lạ, chỉ có năm sinh là đúng.Nơi sinh của chị em chúng tôi cũng không là rừng U Minh hứng chịu nhiều bom đạn trong kháng chiến mà là xã Bình Trước Thành phố Biên Hòa, Ba má tôi đều bị sửa tên, bỏ dấu  Kỳ thành Ky, Lựu thành Lưu và cả hai đều "đã ra"người thiên cổ.

Dẫu sao chuyện ấy với tôi lúc đó không quan trọng.. Điều chủ yếu là hai chị em đã có giấy tờ hẳn hoi để sau này có thể làm căn cước. Cô Hạnh  là giáo viên tiểu học và việc thể hiện tình yêu cháu đầu tiên là kềm cặp ôn tập ,giúp cháu lấy lại những kiến thức căn bản. Hai chị em sau đó đều thi đậu vào trường trung học công lập Ban Mê Thuột và một giai đoạn mới trong đời tôi thật sự mở ra từ sinh hoạt cho đến học hành. Như những đứa con của các gia đình nề nếp, chúng tôi có một cuộc sống rất là tươm tất.Sáng dậy sớm hít hít thở thở cái không khí trong lành của phố núi ngay trước sân nhà ,sau đó là đánh răng rửa mặt. Xấu hổ thật,qua tuổi lên mười rồi, tôi mới cầm đến cái bàn chải đánh răng, mới biết dùng khẳn lông riêng cho vào chậu nước để lau mặt.

Còn hồi ở Biên Hòa? Chỉ cần vài ngụm nước cho vào miệng sàng  qua sàng lại ,nhổ toẹt .rồi lấy tay vốc nước trong lu quẹt sơ qua cái mặt thế là xong).Tôi cũng bắt đầu làm quen với việc ăn sáng trước khi đến trường.cũng như việc ủi quần áo thẳng nếp khi đến lớp.Ngoài giờ đến trường, tôi không còn được chạy rong ngoài đường phố, mà ru rú trong nhà  phụ làm những việc linh tinh ,rồi ôn tập bài vở ,đọc truyện dưới sự chỉ dạy của cô Hạnh. Từ một học sinh lèn nghèn ở tiểu học, tôi đã thành  học sinh giỏi luôn đứng trong  top 5 của lớp. Sự rụt rè,nhút nhát ít nhiều cũng vơi bớt khi tôi được cùng với con trai lớn của chú Chiểu tham gia hướng đạo.Những sáng chủ nhật luôn là những buổi sáng rộn rã lòng tôi. Khu công viên,rừng cây ven thành phố,thác nước...là nơi tôi bù đắp niềm vui cho đời mình bằng những trò chơi tập thể lớn, nhỏ đầy hấp dẫn.Chiều tối chủ nhật ,hai chị em tôi hay được cô Hạnh đắt đi phố , ăn kem, xem phim...

Những lá thư gửi về cho ngoại, thôi dần  lời thở than.. Và mỗi lần gửi thư đi tôi đều hình dung ra gương mặt cùng nụ cười móm mém của ngoại khi đọc thư-bà hẳn là vui lắm khi chúng tôi được ăn học vui chơi tử tế.Thế nhưng như cách nói của ngoại: Phần số của ngoại chắc bị nặng nợ với hai đứa tụi con...",nên giữa năm  đệ ngủ (lớp 8) chi em chúng tôi lại thu xếp đồ đạc quay về sống với bà.Chú Chiểu  bị động viên vào lính.Cô Hạnh  lấy chồng là công nhân ở Sài Gòn....

Cuộc tái ngộ Biên Hoà lần này dù sao cũng ít nhiều thuận lợi .Bên ngoại  bán đất hương hỏa.Bà tôi được chia một số tiền kha khá ,đủ xây một căn nhà gạch,gác gổ và còn đủ tiền mua cho hai chị em  chiếc xe gắn máy PC để đi học.(Do chuyển trường ngang giữa niên học nên muốn tiếp tục học công lập ,chúng tôi phải về trường Trung học công lập huyện Dĩ An -cách Biên Hoà 13 cây số ).Cậu ba  mãn hạn quân dịch,về làm giáo viên thể dục,lấy vợ. Chuyện cơm nước,nấu nướng cũng ổn định nhờ bàn tay mợ.Hai chị em  tôi đã có cái nền học tương đối vũng chắc chỉ cần giữ lấy cái nề nếp học ở Ban Mê Thuột là đủ làm học sinh khá.Thời gian này, không biết có phải do gien di truyền không mà tôi rất mê đọc báo.Chiều chiều,tôi hay ra cái sân xi măng bên cạnh đầu hẻm, phụ lồng xếp báo cho sạp báo và sau đó ngồi ngay tại chỗ tha hồ đọc

Lần đầu tiên trong chuổi thời gian đọc báo "ké", một lần ,tôi đã dám  bỏ tiền ra mua riêng một tờ báo đem về nhà đọc to cho cả nhà nghe. Đó là tờ báo Sóng Thần với bài viết  của một nữ ký giả Ý viết về cuộc sống ở Hà Nội, sau chuyến đi thực tế của bà.Trong bài viết ấy cái tên Lưu Quý Kỳ được nhắc tới hai lần. Một nhà báo có tên tuổi, lại là người phụ trách công tác báo chí của Đảng,ở nhà biệt thự (thật  ra là một biệt thự cũ của Pháp ,có hai hộ gia đình cùng ở), lại  có người giúp việc (đúng  ra là một ngừời bà con xa của cha mẹ tôi), đi làm có xe đưa đón... Cả nhà không hề chú ý hay nói đúng hơn là không đủ trình độ hiểu rõ ý định tuyên truyền của bài báo ấy mà chỉ chăm bẩm vào một điều: ba má tôi sống sướng quá. Ngoại lầm bầm: ba má tụi bây được như vậy mà có bao giờ nhớ đến hai đứa con sống nheo nhóc trong này không?

Dẫu sao đó cũng là lần đầu tiên chúng tôi có chút thông tin về cha mẹ mình, quan trong hơn là biết được hai người  vẫn còn sống.và  còn có thêm hai đứa con gái .Theo dòng thông tin rầm rộ  nói xấu miền Bắc chảy liên tục trên báo chí Sài Gòn hồi ấy,chuyện  về ba má rồi cũng rơi vào quên lãng ,đọng lại chăng là một nỗi niềm băn khoăn trong đầu óc non nớt chính trị của tôi:Vì sao ba má tôi lại đi theo Việt Cộng?...
Kỳ thi Tú Tài I là một kỳ thi căng thẳng hồi ấy,nhưng cả hai chị em chúng tôi đều vượt qua được.Chúng tôi vào học lớp đệ nhất ở trường Ngô Quyền,cách nhà chỉ hơn 1 cây số,.Mùa tựu trường  năm sau ,ngoại  tôi chạy đến hầu hết nhà người quen  khoe rần: “thằng Triều đã vào đại học, con Hà thì đi học làm cô giáo.(để sớm có lương phụ ngoại nuôi em ăn học).Đời tôi vậy là sung sướng lắm rồi” .Bà có ngờ đâu đúng một năm sau đó niềm vui ấy bị tắt nghẻn nửa chừng.

1972, mùa hè đỏ lửa bùng nổ.Trước sự tiến công mạnh mẽ của quân giải phóng,lực lượng quân đội Sài Gòn  hao tổn khá nặng.Chính quyền Thiệu tạm đóng cửa các trường đại học ,hạ  bớt tuổi được hoãn quân dịch của sinh viên. Tôi giờ mới nhận ra bi kịch trong chuyện làm giấy thế vì khai sinh ngày trước.Với cái tuổi giả lớn hơn tuổi thật dù chỉ 1 tuôỉ, cũng đủ buộc  tôi ngưng học.Ngoại tôi lại có những đêm mất ngủ": Ông trời sao quài ác, đẩy thằng Triều vào cảnh cầm súng chống lại cha mẹ mình.?! "Một cuộc  hội ý nho nhỏ diễn ra.Hay là tìm chỗ trốn lính? Nhưng ở đâu bây giờ? Lở bị bắt ,bị đưa ra tòa án binh,bị đưa đi làm lao công chiến trường thì cũng tiêu đời. "Thôi thì đành phải đi và với mắt mũi tèm nhèm như con( hai mắt đều cận 5 độ)chắc tụi nó không bắt con ra trận,cầm súng bắn nhau.đâu". Bà thút thít nói một cách đơn giản mà không lường định hết mọi chuyện. Chỉ trong thời gian huấn luyện ở trường sĩ quan dự bị Thủ Đức., tôi đã nhận ra ngay sự ngộ nhận đó

.Trong trường lềnh khênh người mang kiến,có người còn nặng diop hơn tôi.Lúc đó toàn là dân sinh viên cả mà.Mùa mua năm sau với đôi ve chai khá nặng trên mặt tôi vẫn bị tống về một sư đoàn bộ binh ở miền Tây.Đi qua những ngày nắng cháy da,những đêm mưa ẩm ướt,cho dù thuộc nằm lòng câu của ngoại -nhớ không được bắn vào phe ba má mày,tôi cũng không thể thoát ra ngoài những trận đánh đầy hiểm nguy,những cuộc hành quân vất vả chán chường mà nhiều lúc tôi chỉ mong ước sao cho bị thương khá nặng đủ để giải ngủ ,về đi học tiếp.Nhưng sau một vài lần suýt chết , những vết thương mà tôi nhận lãnh chẳng khác gì  những cú leo trèo,té ngả thuở nhỏ.Dẫu sao chúng cũng giúp tôi cuối năm 1974 có cớ để xin chuyển về ngay Biên Hòa chăm lo cho người giám hộ (tức ngoại) nay đã già.Để rồi vài tháng sau,,khi tin xe tăng quân giải phóng đã về tới Long Thành ,tôi vội  trút bỏ bộ đồ lính ở luôn tại nhà i.Ở- với sự thấp thỏm lo âu về tin đồn một cuộc tắm máu sẽ xảy ra và tôi là một trong những đối tượng.bị nhắm đến . Ở -với niềm hy vọng le lói: rồi sẽ được gọi tiếng ba , tiếng má đầu đời...



 

* Cuộc đoàn tụ một nửa


Sau một buổi sáng chạy lòng vòng trên Sài Gòn hỏi thăm tin tức ba má không kết quả ,tôi trở về nhà ăn qua loa tô cơm nguội ,rồi leo lên võng nằm nghỉ lung tung và thiếp đi lúc nào không hay.Bất chợt một bàn tay đập vào người tôi:Em ơi ,dậy đi ,dậy đi..Hình như ba về rồi  kìa!Tôi bật ngay dậy,chỉ kịp quơ lấy chiếc áo và phóng vội theo chị tôi xuống nhà..

Trên cái sân nhỏ ,bên cạnh giếng nước,dưới gốc cây khế, là một người đàn ông  ,đội  nón cối mặc chiếc áo tetoron 3 túi,sọc nhạt.,dáng cao gầy khắc khổ.Chị em tôi dứng sửng lại  ..Từ lúc đi học, tôi đã biết một năm có 365 ngày. Một ngày có 60 phút ,Nhưng giờ đây tôi mới hiểu ra có những phút dài như  chục năm - chính xác là 21  năm, đọng lại .. Hồi hộp ,ngỡ ngàng..Rồi người đàn ông cất tiếng hỏi chị tôi :"Phải là Lưu Hà không?". Dường như chỉ chờ có thế Chị tôi nhào tới ôm chầm lấy ông, kêu lên thảng thốt :"Ba"!rồi òa khóc ngon lành.

Bao lần tôi đã nằm tưởng tượng ra  cảnh hội ngộ này và nghĩ rằng lúc ấy tôi  sẽ hét vang cái tiếng gọi mà tôi  khát thèm hàng chục năm trời"Ba ơi!Má ơi!".Rồi tôi cũng sẽ oà khóc như bao ngày xưa đã khóc vì nỗi khổ thiếu mẹ vắng cha..Vậy mà lạ thay giờ đây có điều gì đó như chặn ngang cổ họng, tôi chỉ biết chạy tới ôm lấy cánh tay ba ,mân mê,lòng xốn xang,mừng mừng ,tủi tủi..

Chúng tôi  đưa ba vào nhà ,ngồi chưa  nóng chỗ thì ngoại  từ đâu chạy vê, chẳng kịp tháo chiếc nón lá trên đâu ra đã ôm lấy ba , nức nở :Chín ơi (tên gọi của ba tôi trong chiến khu) về thật rồi đó... hả con.- Dạ thì con lại về như đã hứa với má đây.Nén xúc động ba cố chuyển sang giọng vui vẻ :Nhà mình sum họp rồi lẽ ra má phải mừng vui chứ sao lại khóc..Ngoại đưa tay gạt nước mắt:Tại má sung sướng quá .Chín ơi, 21 năm qua ,giấy tờ của hai đứa con mày ghi là cha chết mẹ chết.Giờ mày về đây là coi như mày sống lại và hai đứa con mày không còn là con mồ côi. Bất chợt ,ngoại buông ba tôi ra,mắt nhìn thẳng, cất tiếng hỏi bằng giọng hoài nghi và lo sợ: "Ủa mà sao con về một mình vậy. Má con Hà thằng Triều đâu?". Ba tôi chắc hiểu nỗi lo vu vơ của ngoại cười tươi:"Dạ,con có công tác nên vào trước.Nhà con rồi sẽ vô sau. Má yên tâm đi ,cả nhà mình dần dần  sẽ đoàn tụ đầy đủ". Rồi ba mở chiếc sắc cốt đeo bên mình,lấy ra chiếc máy ghi âm nhỏ :Bây giờ má nghe con gái má nói chuyện nhé

Má ơi .Con Hai của má đây...(Tiếng thút thít) Hơn 20 năm rồi má vẫn mạnh khoẻ hở má.Còn 2 đứa con của con ...(Khóc, chựng lại một lúc) Lưu Hà ,Đình Triều đang  có  nghe má nói không tụi con?Bao năm qua,lúc nào lòng ba má vẫn hướng về tụi con...(Thút thít)Má luôn nhớ hồi má đang sanh Lưu Hà ,giặc ném bom ,người ta khiêng cả 2 mẹ con chạy xuống hầm ,chẳng kịp cắt cuống rún cho con...Còn Đình Triều cái ngày ba má đi con còn chưa biết nói ...Mà thôi các con ơi bây giờ nước nhà mình là một rồi ,cả nhà mình sẽ ở bên nhau…
..Em là Lưu Tuyết Hà em út của chị Hai, anh Ba.Em đang học lớp 7. Còn chị Lưu Thu Hà nữa,đang đi học ở Bungari rồi..Ngoài này lúc ăn cơm ba má cứ hay nhắc anh chị suốt .Ba má lo không biết trong đó anh chị có được ăn uống đủ chất không ,vì hồi sanh anh chị trong rừng nên anh chị thiếu chất lắm...À,tụi em cũng có xem ảnh anh chị hồi nhỏ đấy.Từ hôm giải phóng đến giờ anh chị biết bài hát nào mới chưa. Em và con Thảo -con chú thím Tân đang sống cùng nhà mình vì chú thím đi công tác dài hạn ở nước ngoài mà-hay hát lắm.Để bọn em hát cho anh chị nghe nhé....Sài Gòn đó quê ta ơi trong biển lửa vẫn ngời ngời. Ta đi như sóng căm hờn dâng trào xô lên trên xác quân thù hung bạo.Giành một mùa xuân tươi sáng khắp miền Nam (Sài Gòn quật khởi - nhạc Hồ Bắc)
Tim tôi như thắt lại."Một quân thù  đang đứng cạnh ba đây. Ba có biết không?Có căm hờn nó không?Từ giờ phút đó niềm vui hội ngộ trong tôi tụt giảm hẳn.Nỗi lo âu ,phập phồng , thấp thỏm.trào dâng...


 clip_image003_a

15-5-1975, giờ phút hội ngộ đầu tiên sau 21 năm xa cách giữa cha với hai con cùng họ hàng bên ngoại. Trong ảnh: ngoại, chị Lưu Hà (từ trái sang), cha và con trai (từ phải sang)


Ba  kêu đưa đi một vòng trong nhà ,xem nơi ăn chốn ở của hai đứa con ba ra sao?Khi chị Hà chỉ chiếc ghế bố đang xếp dựng ở vách nhà và giới thiệu đó là chỗ ngủ của tôi,ba buột miệng:"Chà thiếu úy mà ngủ như vầy sao?" Tôi điếng người.Hóa ra ba tôi đã biết mọi chuyện.Làm sao ba biết lẹ thế.Từ đầu đến giờ nào có ai đề cập đến chuyện tôi đi lính đâu.?Định chọn lúc thuận tiện hỏi thử ba điều ấy thì đã đến ba  phải về Sài Gòn dự một  cuộc họp. Ba hẹn ngày mai sẽ xuống đón hai chị em  lên ở với ba vài ngày.


Cứ ngỡ chỗ ở của ba  là một doanh trại bộ đội nào đó hóa ra lại là khách sạn Continental--một nơi nổi tiếng sang trọng của Sài Gòn cũ mà cả hai chị emchưa hề một lần đặt chân đến.Ba giải thích vì đi trong đoàn,có cả những nhà báo nước ngoài nên bố trì ở đấy cho thoải mái .Mang tiếng là ở với ba ,chứ 4 ngày liền,ngoại trừ các bữa ăn chung ,còn ba tôi đi suốt..Ba đưa chúng tôi một đống sách báo và bảo xem để biết thêm về miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Lần đầu tiên được sống trong một căn phòng lớn đầy đủ tiện nghi,nên chúng tôi cứ như nhà quê ra tỉnh.Hết sờ mó bàn ghế lại thử tắt bật đèn chùm ,máy lạnh. Có buổi hai chị em tò mò kéo ngăn bàn làm việc ra và nhìn thấy những tấm danh thiếp của ba. Chị tôi đọc, kêu lên Tổng thư ký Hội nhà báo Việt Nam ,Vụ trưởng vụ báo chí Ban tuyên huấn Trung ương,vậy là chắc ba cũng làm lớn em há. Làm lớn mà chi chị khi có đứa con sĩ quan ngụy thì càng khó ăn khó nói.Xì!.Em cứ mặc cảm hoài.Do hoàn cảnh đẩy đưa chứ có phải em muốn đi lính đâu.Ba có tiên liệu  thì hồi đó dắt tụi mình theo luôn đi...

Những ngày sống bên ba có lẽ sẽ là những ngày hạnh phúc trọn vẹn đối với tôi ,nếu như trong lòng tôi không nặng chịch khối đá lý lịch.Và rồi chính ba tôi là người đã gợi thẳng chuyện lính tráng của tôi ra trước. Đấy là một tối 3 cha con nằm chơi trên chiếc giường lớn.Ba  giữa ,hai chị em hai bên. Ba kể nhiều chuyện về má và hai đứa em mà tôi chưa hề biết mặt. Ba hỏi chuyện chị Hà đi làm cô giáo có thích không? Rồi như bất chợt:

- Triều đeo lon thiếu úy từ lúc nào vậycon?Dạ mới hơn nửa năm?

Là thiếu úy chắc phải bắn súng giỏi lắm hả?

Chị tôi chen ngang: Nó là sinh viên nên khi bị tổng động viên đương nhiên người ta đưa nó đi học sĩ quan. Cận thị như nóthấy đường đâu mà bắn giỏi hở ba?

-Hai đứa con hồi đó ở trong này có biết ba má là dân cách mạng nòi không?

- Dạ,có nghe ngoại kể và có lần con đọc báo thấy người ta viết về ba ở Hà Nội.

- Biết vậy mà sao con còn để tụi nó đẩy con cầm súng chống lại ba má.Sao con không vào vùng giải phóng  như nhiều sinh viên khác  hoặc trốn lính?

-Dạ hồi đó con có biết ai là ai đâu mà vào ..Ngoại và tụi con có lần bàn chuyện trốn lính mà cũng chẳng biết trốn nơi nào cho chắc ăn, không bị bắt.

Ba chép miệng,

thở dài một cái :

- Thật ra là do con không có bản lĩnh và thiếu ý chí thôi.Chứ cái gì mình đã biết sai rồi thì nếu quyết tâm sẽ không bao giờ chịu  làm điều đó chứ..

Ba kể như tâm sự lúc Đà Nẳng vừa được giải phóng ,ba vào,chú Dũng gặp ba ,kể chuyện thằng Triều là sĩ quan ngụy,ba đau lòng lắm. Về Hà Nội ba dấu má mấy ngày rồi mới nói thiệt. "Má con khóc suốt mấy ngày liền đó.Thôi,thương ba,thương má,từ rày về sau con cố ra sức học tập,rèn luyện tu dưỡng đạo đức lối sống. chuộc lại lỗi lầm..."

Học tập gì ?Rèn luyện như thế nào?Tôi tự hỏi tôi với lòng dạ ngỗn ngang .

Một tháng sau đó câu trả lời xem ra rõ hơn.Tôi nhận được lệnh tập trung đi học  cải tạo,mang theo 15 ngày lương thực.Cùng lúc,ba tôi trở vào Sài Gòn lần hai.Tuy nhiên, lạ là lần này ông không xuống Biên Hòa mà nhờ người chuyển  cho chị em một cái thư có kèm 40 đồng tiền Bắc.Thư xin lỗi ngoại ba bận công tác, chưa thể về thăm ngoại liền được.Ba  bảo chị Hà xuống ở với ba cho vui. "Riêng Triều thì cứ ở Biên Hòa lo chuẩn bị cho việc đi học tập cải tạo nghe con..Khi con về ,cả nhà ta sẽ có một cuộc sum họp toàn vẹn ,ý nghĩa hơn...".

Còn những gần một tuần nữa mới tới ngày đi cải tạo ,sao ba không cho tôi xuống sống chung vài ngày cho vui?Ba không thật sự yêu thương tôi hay đó là một trong những cách giúp tôi tập rèn luyện ý chí, bản lĩnh ?Ừ mà nếu ba không thương yêu ,thì làm gì ba cho tôi những 40 đồng-một số tiền khá lớn lúc đó chỉ để tiêu xài trong 15 ngày? (sau tôi mới biết mình ngộ nhận chuẩn bị  15 ngày lương thực chứ đâu có nói là học bao lâu đâu)...Những câu hỏi cứ quay cuồng trong tôi cho đến ngày tôi lên đường đi học tập cải tạo.Đấy là một sáng hè không có nắng vàng rực rỡ trong mắt tôi.Một mình  lặng lẽ tôi xách   túi đến nơi tập trung với sự liên tưởng giờ này chắc chị Hà đang vui vẽ bên ba và có thể có cả má với em tôi. Hương vị  hạnh phúc ngọt ngào ấy tôi chỉ nếm được một nửa!...

Dẫu sao mặc lòng,tôi tự nhủ mình cần phải thẳng thắng đối mặt với thực tế khi  bước vào khúc quanh của đời mình dù có bằng bước chân cô đơn.

Cái cảm giác cô đơn ấy,mãi đến hai năm sau tôi mới  thật sụ giũ bỏ khi ngồi quây quần vui vẻ với cả nhà,có cả Thu Hà vừa đi học ở Bungari trở về.Sâu xa hơn là sự đoàn tụ toàn vẹn như lời thư ba viết mà tôi đã dần cảm nhận ra:sau đó và tự gọi  tên theo cách của tôi: sự đoàn tụ phần hồn.Đó là  một tối  tháng 8 - 1978, cả người tôi nổi đầy gai ốc khi đưa tay thề nguyện dưới lá cờ Đoàn.Vâng, tôi đã đặt được bước chân đầu tiên của mình lên dấu chân mà ba má tôi đã đi.

LƯU ĐÌNH TRIỂU

 

(Nguồn:http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Phong-su-Ky-su/58146/7600-ngay-mo-coi.html)



HÒA HỢP DÂN TỘC NHÌN TỪ MỘT NHÀ BÁO

30-4, một ngày trọng đại với lịch sử dân tộc. Đó là ngày Việt nam chiến thắng cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, là ngày thống nhất hai miền Nam - Bắc, và cũng là ngày hòa hợp dân tộc…

Với ý nghĩa ấy,Thế giới & Hội nhập đã có cuộc đối thoại với nhà báo Lưu Đình Triều (báo Tuổi Trẻ TP.HCM), một nhà báo có cuộc đời và sự nghiệp gắn bó sâu sắc với ngày 30-4.


 



 

 

*Đứa con bên kia chiến tuyến

Năm 1954, ông Lưu Quý Kỳ - nguyên Vụ trưởng Vụ Báo chí (Ban Tuyên huấn Trung ương), Tổng thư ký Hội Nhà báo Việt Nam rời miền Nam tập kết ra Bắc. Trong thế sự rối ren lúc ấy, ông buộc lòng để lại 2 đứa con ở miền Nam và thầm mong 2 năm sau sẽ quay trở lại. Nhưng sự bội ước của chính quyền Ngụy và Mỹ đã khiến cho ngày trở về kéo dài đến 21 năm. Một trong hai người con ấy là nhà báo Lưu Đình Triều.

Cha mẹ tập kết ra Bắc để anh và một người chị ở lại miền Nam. Chuyện gì đã diễn ra sau đó cho tới ngày 30/4?

- Hai mươi mốt năm tất nhiên là nhiều chuyện. Tôi tạm gói gọn thành câu chuyện dài 7.600 ngày mồ côi. Nói mồ côi vì trong tờ khai sanh của tôi hồi ấy ghi rõ "cha chết, mẹ chết". Ngoại tôi xuống Cà Mau (khu căn cứ kháng chiến) đón hai cháu về nuôi ở Biên Hòa. Bà là một phụ nữ đơn thân, nghèo khó, chỉ chạy chợ kiếm sống qua ngày. Có thêm 2 cháu nhỏ bà càng cực nhọc, vất vả hơn. Lúc xuống miền Tây mua khô, cá... về bán. Lúc lên chợ Gò Dầu, Tây Ninh mua nhang, dầu Miên, xà bông về bỏ mối, kiếm ít tiền lời. Những ngày ngoại đi vắng, hai chị em dựa vào sự đùm bọc của họ hàng bên ngoại cùng bà con lối xóm.
Như cây hoang, cỏ dại, những năm tháng tuổi thơ của tôi cứ lần lượt trôi qua.  Bạ ai chơi đó, bạ đâu ăn đấy. Bảy, tám tuổi tôi đã theo bạn bè trong xóm ra chợ  "đá cá lăn dưa" (ăn cắp vặt)... Lớn hơn chút nữa đã biết lận lưng bộ bài nhỏ xíu đi đánh cắc-tê kiếm tiền ăn bánh mì, uống xirô...

Nghe sặc mùi hư hỏng như thế vì sao anh vẫn vào được đại học?

- Đúng là tôi có thể trở thành một kẻ lêu lổng bụi đời nếu như không may mắn gặp được các cô chú bên nội. Chú tôi là hiệu trưởng, cô tôi là giáo viên của trường tiểu học lớn nhất thành phố Buôn Ma Thuột. Cô chú đã đón hai chị em lên đấy. Một giai đoạn mới trong đời tôi thật sự mở ra từ sinh hoạt cho đến học hành. Tôi bắt đầu làm quen với việc đánh răng, ăn sáng trước khi đến trường, cũng như ủi quần áo thẳng nếp khi đến lớp. Ngoài giờ học, tôi không còn được chạy rong ngoài đường phố mà ru rú trong nhà phụ làm những việc linh tinh, rồi ôn tập bài vở, đọc truyện dưới sự chỉ dạy của cô…
Thế nhưng như cách nói của ngoại "phần số của ngoại chắc bị nặng nợ với hai đứa con...". Chỉ ba năm sau, chú tôi bị động viên vào lính, còn cô lấy chồng là công nhân ở Sài Gòn, chị em  tôi lại thu xếp đồ đạc quay về Biên Hòa. Cảnh cũ, điều kiện sống như cũ, nhưng trong chúng tôi có một thay đổi lớn là sức học căn cơ hơn. Và năm 1971 tôi bước chân vào Đại học Luật. Hồi ấy ngoại tôi mừng đến chảy nước mắt. Bà có ngờ đâu niềm vui ấy rồi bị tắc nghẽn nhanh chóng.
Năm 1972, trước sự tiến công mạnh mẽ của quân giải phóng, lực lượng quân đội Sài Gòn hao tổn khá nặng. Chính quyền Thiệu tạm đóng cửa các trường đại học, hạ bớt tuổi được hoãn quân dịch của sinh viên. Tôi giờ mới nhận ra bi kịch trong chuyện làm giấy Thế vì khai sinh ngày trước. Với cái tuổi giả lớn hơn tuổi thật dù chỉ một tuổi cũng đủ buộc tôi ngưng học.

clip_image003


Gần gũi chan hòa với chỉ huy hải quân trong dịp ra công tác 20 ngày tại Trường Sa - ảnh N.C.T


Ngoại tôi lại có những đêm mất ngủ: "Ông trời sao quái ác, đẩy thằng Triều vào cảnh cầm súng chống lại cha mẹ mình?!". Loáng thoáng trong vài lần trò chuyện giữa ba bà cháu có nhắc đến chuyện trốn lính. Nhưng rồi với một chàng trai mới lớn sống không lý tưởng, không quen cân nhắc thận trọng trước những vấn đề lớn và sợ chuyện tù đày, tôi rơi vào tư tưởng yếm thế: thôi kệ, đến đâu thì đến (!).

Sau một thời gian huấn luyện ở Trường sĩ quan dự bị Thủ Đức, dù  cận thị gần 4 diop tôi vẫn bị tống về một sư đoàn bộ binh ở miền Tây. Đi qua những ngày nắng cháy da, những đêm mưa ẩm ướt, những cuộc hành quân vất vả chán chường mà nhiều lúc tôi chỉ mong ước khùng điên là được bị thương nặng đủ để giải ngũ, về đi học tiếp.

Sau một vài lần suýt chết, những vết thương mà tôi nhận lãnh lại chẳng khác gì những cú leo trèo, té ngã thuở nhỏ. Nhưng dẫu sao chúng cũng giúp tôi cuối năm 1974 có cớ để xin chuyển về ngay Biên Hòa chăm lo cho người giám hộ (tức ngoại) nay đã già. Để rồi vài tháng sau khi nghe tin xe tăng quân giải phóng đã về tới Long Thành, tôi vội trút bỏ bộ đồ lính, ở luôn tại nhà.

Ngày thống nhất đất nước cũng là ngày sum họp gia đình, tâm trạng của anh lúc đó như thế nào?

- Những ngày đầu sau giải phóng tôi sống trong tâm trạng hai chiều. Vừa chán nản, vừa hy vọng.  Trong tôi lóe lên tia sáng cuối đường hầm là mình sắp nhìn thấy những người ruột thịt nhất của mình. Suốt hai chục năm, phải nói thật lòng là tôi thèm lắm - thèm thèm lắm - cái tiếng gọi "ba ơi, má ơi" và luôn nặng trĩu mặc cảm về cách nói của một số người: cái thằng không cha không mẹ! Khoảng một tuần sau giải phóng,  tôi "liều mạng" chạy xuống Sài Gòn, lân la dò hỏi về ba tôi, nhà báo Lưu Quý Kỳ… Nhưng cũng có những lúc tôi hoang mang lo sợ mình là thiếu úy ngụy nên có khi sẽ trở thành đứa con bị chối bỏ trong mắt ba má tô i- những người cách mạng lâu năm.

Có một  chiều, tôi cùng những bạn học cũ, đứa là viên chức, đứa là lính gom tiền lại mua bia về nhậu lần cuối. Cái cách tuyên truyền của chế độ cũ khiến tất cả chúng tôi đã ngoài tuổi 20 rồi mà vẫn cả  tin rằng với chính quyền mới sẽ không có vui chơi, giải trí gì cả, nói chi đến chuyện bia bọt. Trong cuộc nhậu thực tế không là lần cuối đó, cả đám thay nhau hé lộ những tin đồn quái chiêu đủ dạng. Nghe cho đã, để rồi kết thúc, cả đám chia tay nhau với lời từ biệt bi thương "mai rồi đời mình sẽ tiêu".

Mười lăm ngày sau khi đất nước thống nhất, một chiếc Commăngca đổ kịch trước đầu hẻm nhà ngoại. Tôi đã chạy đến cầm lấy cánh tay ba, mân mê, nhưng không dám ôm lấy ông và cũng chẳng tiếng "ba ơi" nào bật ra trong nước mắt như bao lần tôi đã nằm tưởng tượng .

Lúc đó, trong tôi mặc cảm và nỗi lo sợ đang trào dâng, lấn át cả niềm vui, hạnh phúc của sự hội ngộ…

Cha, mẹ của anh đã nói gì khi biết anh tham gia vào quân đội Sài Gòn?

- Lúc đầu, ba tôi chẳng hề chạm tới khối đá lý lịch đang nặng trĩu trong tôi. Để rồi, có một tối, khi ba cha con đang trò chuyện chơi, bất chợt ba hỏi  tôi là đeo lon thiếu úy từ khi nào? Trước đó hai chị em  có biết ba má là dân cách mạng nòi không? Khi nghe tôi trả lời có lần đọc được  bài viết của một nữ ký giả Ý có nhắc đến ba  ở Hà Nội, ba hỏi gặng, đã biết vậy mà sao con vẫn cầm súng chống lại ba má? Sau khi nghe tôi nói đã từng bàn với ngoại chuyện trốn lính mà cũng chẳng biết trốn nơi nào cho chắc ăn, không bị bắt, ba thở dài một cái và hé lộ rằng lúc Đà Nẵng vừa được giải phóng, ba vào, gặp chú Dũng - em út của ba, chú kể chuyện tôi  là sĩ quan ngụy, ba đau lòng lắm. Về Hà Nội ba giấu má mấy ngày rồi mới nói thiệt. Má tôi khóc suốt cả tuần... Ông kết thúc câu chuyện bằng lời dặn dò: "Thôi, thương ba, thương má, từ rày về sau con cố ra sức học tập, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức lối sống, chuộc lại lỗi lầm".

Sau này khi tôi đang học cải tạo, ba tôi vào Sài Gòn công tác, được trưởng trại mời lên  bàn chuyện bảo lãnh. Ông từ chối và muốn rằng tôi có thời gian học tập, rèn luyện như những người khác. Ông cũng từ chối sự ưu ái được thăm con không theo quy định mà chỉ viết một lá thư nhờ chuyển. Đến giờ tôi vẫn còn nhớ như in là mình đã cầm lá thư, chạy ra vườn rau, lặng lẽ vừa đọc thư, vùa khóc. Tôi giận, thầm  trách ba tôi đã không thương  tôi, lại bỏ tôi "bơ vơ" như thuở nào… Tôi đã xé lá thư ấy để rồi mãi sau này mới cảm nhận ra rằng đó là một cách thương con, rèn con của riêng ba tôi.

Đâu là bước rẽ quan trọng để anh hòa nhập với chế độ mới?

- Với tôi, 30.4.1975 là ngày đổi đời. Một bước ngoặt lớn mở ra về quan hệ gia đình, về sự nghiệp. Hai mươi hai tuổi, coi như tôi đặt lại bước chân vào đời lần 2.

Nghĩ về một bước rẽ quan trọng nhất, thật tình tôi có sự băn khoăn trong xác định. Ba tuần sau ngày giải phóng, một mình lặng lẽ tôi xách túi đến nơi tập trung cải tạo với với bao dấu chấm hỏi về tương lai. Dẫu sao mặc lòng, lúc ấy, tôi tự nhủ mình cần phải thẳng thắn đối mặt với thực tế khi bước vào khúc quanh của đời mình dù có bằng bước chân cô đơn. Những ngày tháng học cải tạo, là thời gian giúp tôi có nhận thức đúng đắn hơn về đất nước, về cuộc chiến tranh giải phóng của dân tộc, về những điều sai trái tôi đã làm - dù là bị ép buộc. Trong trại, tôi có điều kiện hiểu thêm về những người cộng sản, thông qua một anh quản giáo tên Lợi. Có những tối, anh xuống lán của tôi ngồi tâm sự nhiều về đời anh, từ chuyện học hành cho đến chuyện yêu đương… Anh cũng mạnh dạn bảo lãnh cho tôi được ra khỏi trại để gặp em gái tôi từ Hà Nội vào thăm. Những giọt nước mắt chia sẻ của anh khi nhìn thấy hai anh em tôi ôm nhau khóc ròng trong lần đầu trùng phùng, đã đeo bám dai dẳng trong đầu tôi. Cả chục năm sau đó, tôi vẫn nhớ và viết về nhân vật này, một bộ đội trẻ, đảng viên, người giúp tôi có cái nhìn đầy đủ hơn về tình người.

Chuyện vừa học cải tạo ra, xin đi làm để rồi trở thành người biên chế của nhà nước cũng là một ngã rẽ quan trọng. Rồi chuyện tôi thi đậu vào lớp đại học báo chí của trường Tuyên huấn T.Ư cũng là một bước rẽ quan trọng không kém.



* Bước rẽ


Sau 30/4, Lưu Đình Triều được nhập học khoa báo chí trường Tuyên huấn Trung ương Đảng. sau đó anh về công tác tại báo Tuổi Trẻ Tp.hcm. Anh từng trải qua chức vụ: trưởng ban thanh niên, trưởng ban văn hóa - văn nghệ, tổng thư ký tòa soạn, anh nói, môi trường “không kỳ thị” ở báo Tuổi Trẻ đã chắp cánh cho anh hòa nhập...

Trong thời điểm xã hội còn kỳ thị với những người tham gia quân đội Sài Gòn, tại sao anh lại chọn nghề báo, một công việc được xem là sứ mệnh chính trị?

clip_image004

Hai ba con trong những ngày đầu sống bên nhau

- Ngay sau khi học cải tạo xong, ba tôi và tôi đã có một cuộc trò chuyện thẳng thắn. Ông hỏi tôi thích làm nghề gì, tôi trả lời: làm báo! Vì sao? “Vì từ nhỏ đến lớn con có một niềm say mê riêng đối với báo chí. Con đã từng đi xếp báo cho một sạp báo gần nhà chỉ để đổi lấy việc là được đọc nhiều loại báo miễn phí. Đi học, con cũng say mê viết  báo tường, giai phẩm của trường. Con  định ghi danh vào một trường báo chí của Sài Gòn, nhưng rồi không có đủ tiền đóng học phí nên phải chuyển qua học Luật. Ngay cả khi đi lính, con vẫn hay viết bài, làm thơ gửi các báo, tạp chí và cũng đôi lần được đăng…”.

Không ngờ ba tôi phán một câu lạnh lùng:

“Con không đủ tiêu chuẩn để đi làm báo. Là sĩ quan Sài Gòn con ăn chơi nhiều (oan cho tôi quá!) giờ phải đi làm công nhân để cải tạo thêm lối sống của mình…

Vài năm sau, khi đang làm ở Xí nghiệp Sắt tráng men - ở quận 8 TP.HCM, tình cờ đọc báo thấy tuyển sinh lớp Đại học báo chí, niềm say mê cũ trong tôi trổi dậy. Nhất là khi xem qua điều kiện dự  thi, tôi thấy mình có đủ các tiêu chuẩn cơ bản là tốt nghiệp trung học phổ thông, có ít nhất 3 năm biên chế,  là đoàn viên ưu tú (Trong thời gian làm nhà nước tôi nỗ lực tối đa trong công việc và phong trào nên đã được kết nạp Đoàn vào năm 1978). Lúc ấy tình cờ ba tôi lại dẫn một đoàn nhà báo nước ngoài vào công tác, tôi đến gặp và thưa với ông ý định của mình. Khi ba tôi nhắc lại ý trước đây là tôi không đủ tiêu chuẩn, tôi đưa tờ báo có đăng việc tuyển sinh ra và nói rằng con đã đủ chuẩn thì ông có phần hạ giọng: tùy con, cứ nộp hồ sơ thử xem sao.

Tôi nộp hồ sơ, đi thi và trúng tuyển nhờ sự… ngây thơ về chính trị của mình lúc ấy. Dù dư điểm đậu nhưng tôi vẫn không được nhập học liền mà chờ ý kiến của lãnh đạo Ban tuyên huấn, trong đó có kèm cả lời bảo lãnh của cha tôi: Đồng ý cho học nếu đủ điểm đậu!.

Anh gặp khó khăn gì trong quá trình học và sau đó gắn với nghề báo cho đến hôm nay?

Ta đến muộn đừng lo Người vẫn đợi
Với Bác Hồ, Người thương nhất kẻ đi sau

Đó là hai câu thơ của Hải Như mà tôi đã nắn nót ghi lại và dán trên bàn học ngay kế giường ngủ của tôi trong trường. Nó đã động viên tôi rất nhiều trong những năm đầu học tập. Chỉ cần một tuần sống và học trong một ngôi trường Đảng tôi đã nhận ra sự bất lợi của mình như một lời nhận xét của bạn học mà tình cờ tôi biết được. "Một sĩ quan ngụy mà vào được trường này chắc do dựa vào vị  thế của ông bố thôi". Nào ai biết chuyện tôi vào trường là một cuộc "đấu tranh" nội tâm mà tôi nghĩ rằng cũng rất cay đắng giữa một ông cha thương yêu con và một cán bộ cách mạng lâu năm muốn giữ sự nghiêm minh trong điều hành.

Tôi không thể thanh minh mà chỉ biết im lặng học và đọc thật nhiều để rồi kết quả học tập là một lời bào chữa hiệu nghiệm nhất. Theo thời gian, tôi cũng có được những người bạn học vừa chia sẻ vừa động viên những nỗ lực hòa nhập của tôi. Suốt gần 5 năm học tôi dần "bình thường hóa" được vai trò học viên của mình. Chỉ có một cú sốc cuối năm thứ hai: tôi được một số bạn đề cử vào BCH chi đoàn. Một cuộc họp sôi nổi diễn ra, mổ xẻ gốc gác của tôi và cho rằng một sĩ quan ngụy không thể nào lãnh đạo những người từng là chiến sĩ quân đội nhân dân. Giữa cuộc họp, tôi không chịu đựng được nữa, phải xin phép đi ra ngoài.

Trời mùa đông Hà Nội lạnh lẽo, tôi cứ bước đi mà không biết đi đâu và nước mắt cứ lặng lẽ chảy ra. Đến khuya  tôi quay về trường và sửng sốt khi thấy một đám đông- trong đó có bí thư chi bộ kiêm chi trưởng của lớp đang đứng trước cổng trường để chờ… an ủi tôi. Lòng tôi ấm lại. Niềm tin vào sự lựa chọn mới trong tôi càng lóe sáng.

clip_image005


Cùng các đồng nghiệp Tuổi Trẻ ra công tác tại Trường Sa giữa mùa giông bão tháng 7.1994

 

Ra trường, tôi may mắn được sinh hoạt và làm việc cùng tập thểâ báo Tuổi Trẻ. Nơi mà gần như không có sự phân biệt "kỳ thị" về gốc gác. Tôi thoải mái hành nghề như bao đồng nghiệp. Tất nhiên, ở những năm 80 định kiến về người chế độ cũ vẫn còn nóng bỏng, nên thỉnh thoảng một hai sai sót trong nghiệp vụ của tôi vẫn bị đem soi rọi cùng cái "quá khứ đen" . Được cái, lần nào cũng có những người bạn - có người từng hoạt động trong chiến khu, đứng cạnh, chia sẻ, động viên tôi như đêm nào giữa trời đông Hà Nội. Do công việc, tôi được đi nhiều nơi, từ Côn Đảo đến Điện Biên Phủ, Tân Trào, Trường Sa…

Tôi cũng được tiếp xúc gặp gỡ nhiều người, từ anh bộ đội trên chiến trường biên giới phía Bắc cho đến anh TNXP ở địa bàn Tây Nguyên… Chính những câu chuyện nghe được từ các địa danh lịch sử,  từ những người lao động, chiến sĩ bình thường đã giúp tôi trưởng thành hơn rất nhiều trong vai trò một nhà báo.

35 năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, anh nghĩ gì về "hòa hợp dân tộc"?

- Mới đây, ngày 20.4.2010, Bộ Quốc phòng và Thành ủy TP Hồ Chí Minh đã tổ chức hội thảo khoa học "Đại thắng mùa xuân 1975- sức mạnh đại đoàn kết dân tộc thời đại Hồ Chí Minh". Trong nhận thức của tôi, sức mạnh của sự đoàn kết dân tộc có khởi nguồn từ sự hòa hợp dân tộc. Đây cũng là một truyền thống lâu đời của Việt Nam. Sau ngày giải phóng không lâu, chính nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt cũng đã đề cập đến vấn đề này, khi nói  "Những định kiến rồi sẽ phải qua, nếu không thì cộng đồng dân tộc làm sao liền lạc, mạnh mẽ được" (Tuổi Trẻ Cuối Tuần, 31-5-2009).

35 năm đã trôi qua! Tôi tin rằng cái hố ngăn cách giữa những người Việt một thời đứng ở hai bờ chiến tuyến đã bị san lấp khá lâu rồi. Ở thế kỷ 21 này, "hòa hợp dân tộc" mang một thông điệp mới: người dân Việt, trong lẫn ngoài nước cùng đồng lòng chung tay, góp sức để xây dựng một đất nước ngày càng phát triển về mọi mặt.


Lê Minh Đức (thực hiện)





* Những tiếng chuông gọi người đến muộn

Thơ Lưu Đình Triều (nhân 30 năm giải phóng miền Nam)

1.

Tháng 4 lần 30
Đất nước vọng về những hồi chuông chiến thắng
Cay đắng ngọt ngào niềm vui sâu lắng
Vạn ngày đi vững chắc bước chân đời
Theo những hồi chuông tôi lại gọi lòng tôi
Trong vang vọng nỗi niềm ngày tháng cũ

2.

Ngày chiếc thẻ bài đè lên trang sách
Áo chiến binh rách nát tuổi học trò
Ba năm lính chán chường lê gót
Khiến tâm hồn mệt lả với âu lo
Lắng nghe tiếng chuông... Tôi miệt mài xóa, giũa
Tôi đổi đời tôi. Cùng đời sống hẹn hò...

3.

30 năm rồi còn vọng một hồi chuông
Tôi bật khóc gọi Cha gọi Mẹ
Lúc lọt lòng cũng là lúc chia xa
Phút gặp gỡ tim mình đau như xé
Ngày cải tạo. Đêm lại nằm lặng lẽ
Mơ giấc mơ độ lượng giữa đời thường

4.

Rung chuông lên hỡi hồi chuông gióng giả
Tôi - Công Dân- đang chập chững vào đời
Chân trời mới chưa nhiều đường rộng mở
Trên hành trình đi đến phía Ngày mai
Cứ dấn bước mặc âu lo trăn trở
Những lỗi lầm ngày cũ sẽ nhạt phai...
Rung chuông lên... Đi nhanh... Đi nhanh nữa
Con dốc dài chia sẻ những bước chân
Kéo quá khứ trở về cùng hiện tại
Tự trách mình và giận ai đó vô tâm
Cho bước chân thêm một lần nặng mãi
Lầm lỗi xưa gột xóa đến bao giờ?
Dẫu thế nào cũng nhủ lòng đi nữa
Tiếng chuông rung dìu dặt một câu thơ:
"Ta đến muộn đừng lo Người vẫn đợi
Với Bác Hồ, Người thương nhất kẻ đi sau" (*)
"Phút ngã lòng vịn câu thơ đứng dậy" (**)
Chẳng vịn đâu! Thơ đang ở trong đầu

5.

Rung chuông mau... Rung chuông mau
Tay xoải thẳng cùng đôi chân mạnh khỏe
Chỉ trường kỳ mài sắt mới nên kim
Dòng chảy cũ đời mình ngược bơi đâu phải dễ

6.

Rung chuông! Rung chuông! Lại rung chuông!
Nhịp chuông rung ầm ầm như sóng bể
Gõ ca nhôm cao giọng hát quân hành
Đêm Trường Sa đêm nhập hòa cùng lính trẻ
Côn Đảo thiêng liêng ngắm mãi trời xanh
Để chiêm nghiệm bao nỗi đau trần thế
Để khóe mắt ngỡ không còn nhỏ lệ
Sao cứ cay xè những câu chuyện hùng bi...

7.

Tháng 4 lần 30
Sâu lắng lòng tôi điệp khúc đổi đời
Dẫu cờ Đảng chưa một lần thề nguyện
Nhưng mắt môi cười đã "đồng chí tôi ơi"
Cùng góp chung niềm vui
"Ta đến muộn đừng lo Người vẫn đợi..."

LƯU ĐÌNH TRIỀU (nhân 30 năm giải phóng miền Nam)


(*) Thơ Hải Như
(**) Mượn ý thơ Phùng Quán

( Nguồn: Báo Sài Gòn Giải phóng 30.4.2005)


TỰ TRUYỆN của nhà báo LƯU ĐÌNH TRIỀU được nhiều người quan tâm, bởi số phận của anh là một trong những trường hợp tiêu biểu của thân phận trong cuộc chiến vừa qua. Trong quá trình sưu tập tư liệu, chúng tôi đã tìm được bài viết ký tên Hữu Hiệp (in báo Tuổi trẻ số ra ngày 26.8.1999) - ghi lại lời kể của nhà báo Lưu Đình Triều ngày tháng anh "học tập cải tạo". Qua đó, ta thấy hiện lên hình ảnh "anh quản giáo". Có thể, từ nhân vật Lợi này (tất nhiên còn nhiều yếu tố khác nữa) đã góp phần thay đổi nhận thức của anh. Tôi nghĩ, chung quanh ta vẫn còn có nhiều người tốt, dù họ đứng ở chiến tuyến nào. Có điều bây giờ, đi tìm người tốt như nhân vật Lợi - anh quản giáo sao mà khó quá chăng? Tôi post lại bài viết này, nhằm góp phần cho thấy sự thay đổi ở nhà báo Lưu Đình Triều - một cá nhân trong hàng vạn cá nhân có số phận như anh đã thay đổi suy nghĩ  như thế nào, từ đâu...

L.M.Q

(IV.2013)

 

Lần gặp anh đầu tiên, tôi ngạc nhiên: sĩ quan Việt cộng sao mà hiền và lờ đờ quá! Có lẽ do bề ngoài của anh - người gầy nhom lọt thỏm trong bộ quân phục bạc mùa, rộng thùng thình; mặt mai mái và cặp mắt một mí nhỏ xíu. Song tối đó lúc họp tổ, chúng tôi, anh lại rất khác, vẫn giọng nói trọ trẹ nhưng lời lẽ chắc nịch, rắn rỏi: “Dù động cơ có khác nhau, các anh vẫn là sĩ quan ngụy, là người có tội với nước với dân. Lần học tập cải tạo này là cơ hội cho các anh làm lại cuộc đời…” Đêm, nằm bên nhau trên sạp, thằng Trường, bạn thời sinh viên và bị tổng động viên vào lính cùng lúc với tôi, thì thầm: “Ông Lợi coi vậy chứ không hiền đâu. Nói chuyện mà như không hé môi, răng cứ sít vào nhau là ghê lắm đấy!”. Có lẽ Trường nói đúng. Mấy ngày sau đó ai mà 5 giờ sáng chưa chịu dậy xếp gọn mùng chiếu hoặc lên lớp học chính trị mà mắt nhắm mắt mở đều bị anh Lợi xạc tới bến”. Chỉ riêng chú Trung - người lớn tuổi nhất trong tổ - lại khẳng định: “Cha Lợi đó tốt bụng”. Đấy là do cái hôm chú bị sốt không lên lớp được, nằm ở phòng anh Lợi đã đến hỏi han rồi đi xin thuốc, và lúc tối khuya anh còn ghé chỗ chú nằm, đặt tay lên trán chú xem bớt nóng chưa.

Anh Lợi lớn hơn cánh trẻ chúng tôi chừng vài tuổi, biết cách nói chuyện, lại chẳng ra vẻ người chiến thắng được dịp trừng phạt kẻ thua trận nên chỉ sau vài tuần cánh lính gốc sinh viên thôi dị ứng với anh. Có tối, chúng tôi ngồi bên anh để nghe đủ thứ chuyện trên đời. Chuyện học sinh miền Bắc tìm mọi cách vào bộ đội, vượt Trường Sơn. Chuyện lần đầu anh về phép, đi xem phim cùng cô bạn gái, mới cầm tay cô mà người đã nóng ran… những lúc ấy anh thật gần gũi.

Với tôi, anh Lợi tiếp xúc, chuyện trò động viên nhiều hơn một số bạn khác. Có lẽ do anh xem hồ sơ, biết ba má tôi là dân tập kết (tôi được để lại cho bà ngoại nuôi). Một buổi trưa, sau giờ cơm anh kêu riêng tôi ra và đưa một lá thư: “Sáng nay bố anh lên làm việc với trại. Chúng tôi hỏi có cần gặp anh không, ông nói thôi, để nó tập trung học tập và gửi lại thư này”. Nghe thế tôi đã buồn và sau đó khi một mình ngồi đọc thư, tôi càng thêm tủi, giận. Ba đã vào tận đây mà không thăm tôi, lại còn viết thư “lên lớp” tôi: “Con tội lỗi nhiều, giờ phải cố học tập, cải tạo sửa mình…” Tôi nghĩ lan man, nhớ tới cái thời mới lớn như con thuyền không hướng, cặp bè cặp bạn đi đánh bài, ăn cắp trái cây… Lúc đó sao ba tôi không ở đây mà dạy dỗ, uốn nắn tôi như chú tôi phải từ miền Trung vào chấn chỉnh tôi kịp thời. Vậy mà giờ đây… Và chẳng suy nghĩ gì nữa, tôi xé toạc lá thư. Ngờ đâu anh Lợi vẫn đi theo tôi nãy giờ. Như đọc được ý nghĩ của tôi, anh nói: “Đừng giận bố anh làm gì.Ông thương anh, làm thế cốt chỉ muốn anh sớm nên người. Xé thư bố là bất hiếu đấy!”

Sau ba tháng trại được thăm nuôi. Suốt một tuần lễ cứ như ngày hội. Ai cũng vui ra mặt, chỉ trừ tôi, kẻ được gọi đùa “con bà phước”. Hết thời gian thăm, gửi quà, một sáng tôi đang trồng rau ngoài vườn, thằng Trường từ đâu hộc tốc chạy đến: “Chị mày lên kìa!”. Tôi lao ra phía cổng, đứng sát hàng rào dõi mắt nhìn: chị tôi đứng bên kia đường cùng một cô bé khoảng 13-14 tuổi mà linh tính báo tôi biết đấy là đứa em sinh ở miền Bắc của mình. Chẳng kịp nhìn lâu, cảnh vệ đã khoát tay kêu chị tôi về đi vì đã hết hạn thăm nuôi. Tôi vào, ngồi thừ bên cửa sổ thẫn thờ. Bất ngờ anh Lợi xuất hiện bảo tôi theo anh ra cổng. Sau một lúc lời qua tiếng lại, có khi hơi lớn giọng mà tôi nghe loáng thoáng “có gì tôi chịu trách nhiệm”, anh đưa tôi ra khỏi cổng. Em gái tôi ào tới ôm tôi, kêu hai tiếng “anh Hai” rồi khóc òa. Bà tôi lặng lẽ lấy khăn ra chậm nước mắt trên khuôn mặt già nua. Tôi cũng rưng rưng. Chuyện trò đâu chừng 10 phút, anh Lợi chào bà và bảo tôi đi vào. Bấy giờ không hiểu nghĩ sao em gái tôi níu chặt tay anh Lợi, giọng van lơn, lặp đi lặp lại: “Chú đừng phạt anh Hai cháu nhé”. Anh Lợi mím môi, gật đầu, quay mặt đi, nhưng tôi cũng kịp nhìn thấy mắt anh đỏ hoe…

Sau buổi ấy, trại viên chúng tôi chỉ còn gặp anh đôi ba lần rồi thôi. Có người bảo anh Lợi bị kỷ luật, phải chuyển trại khác. Người thì nói anh ấy hết hạn, về quê…

Hơn 20 năm đã trôi qua từ thời ấy. Hiểu một cách nào đó, với tình thương cộng sự nghiêm khắc của cha, với lo toan và chăm sóc của mẹ cùng em, tôi đã thật sự đổi đời. Theo thời gian cha mất, mẹ cũng qua đời. Chỉ còn lại mong ước của hai ông bà mà tôi chưa thể có được: trở thành đảng viên tiếp nối truyền thống gia đình. Dẫu sao mặc lòng, tôi biết rằng từ ấy đến nay chưa lúc nào tôi bước chệch khỏi hướng con đường mà mấy chục năm ba mẹ tôi từng đi bằng cả cuộc đời. Thêm một điều nữa, tôi hiểu mình chưa bao giờ quên được người đã mở lối, dìu dắt từng bước chân chập chững của tôi trên con đường ấy. Đó chính là anh - người quản giáo của đời tôi.

Hữu Hiệp

(nguồn: báo Tuổi trẻ 26.8.1999)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com