Ngày xưa, những người con đi xa, nhà nghèo, lo làm lụng, chí thú làm ăn với hy vọng dành dụm được chút ít tiền xây cho bố mẹ cái nhà khang trang hơn. Từ ngàn đời, “nhà ngói cây mít” vẫn là ước mơ cháy bỏng của người Việt. Chỉ dám ước mơ thế thôi, nào dám nghĩ đến “nhà gỗ xoan, quan tiến sĩ” xa vời quá. Nhà gỗ mít là tốt lắm rồi.
Lẫn thẩn nghĩ rằng, có lẽ, “mít” là một từ thuần Việt, rất Việt. Âm vang của từ đó, vừa đánh vần xong, đọc to lên ắt sẽ nghe vọng lại sự quê kiểng, dân dã, bình dị biết chừng nào. Ai cũng thích ăn mít ráo, còn gọi “mít dai” vì múi dai, ráo nước; ngược lại là mít ướt, còn gọi “mít mật” do ngọt đậm nhưng múi nhão, mềm, ướt. Nhưng trong câu nói: “Chà, cô X mít ướt một cây”, phải hiểu nhằm chỉ người đó hay khóc, mau nước mắt, chỉ phật ý một chút là đã “giọt lệ sầu, giọt lệ thảm” tuôn ra dào dạt! Yêu phải cô nàng “mít ướt” phải dỗ dành nhiều, mệt lắm đây.
Lại nghe: “Cậu ta mít lắm. Hỏi đâu mít đó”. Mít trong ngữ cảnh này kín lắm, không hở, không chữ nghĩa gì có thể lọt vào đầu óc bã đậu. Tương tự, khi nghe câu nói: “À, chuyện thơ văn, cậu ta mít đặc”. “Mít đặc” hoặc “mít mịt” là nhằm chỉ sự ngu dốt, mù tịt không biết gì. Do đó, nhằm chê bai ai đó, chẳng dại gì toạt móng heo, chỉ cần nói “đầu óc mít đặc” là đủ.
Trong quyển Kiều bình dân học vụ, không phải ngẫu nhiên, tác giả Nguyễn Văn Trinh mở đầu: “Có nhà Tổng Mít họ Vương/ Giấy tờ ngày vẫn thường thường in tay”. In tay: cách “ký tên” của những người không biết chữ là dùng ngón tay cái lăn qua mực rồi ịn lên trang giấy, gọi là “điềm chỉ”. Thành ngữ “chữ nghĩa không đầy lá mít”, ý muốn nói chẳng hề có được chữ i, chữ tờ làm vốn lận lưng. Cũng nghĩa đó, lại có câu “chữ nghĩa không đầy nắp nghêu”; rồi khi người Pháp sang, sản xuất ra cái chai nước ngọt có đóng nắp, lại thấy có cách nói “chữ nghĩa không đầy nắp khoén”, đại khái thế, nghĩa của nó vẫn không thay đổi.
Trong lời ăn tiếng nói của người Việt có nhiều câu liên quan đến từ “mít” như: Nhọn gai mít dai, tẹt gai mít mật; Mặt dại như mủ mít; Mít tròn, dưa vẹo, thị méo trôn v.v… Về kinh nghiệm trồng trọt, có câu “mít chặt cành, chanh chặt rễ” ý nói với mít cần chặt bỏ cành con, với chanh thì chặt đi rể phụ, nếu muốn chúng mau ra quả. Ngay cả xơ mít cũng “nổi tiếng” với các cô cậu học trò khi bị thầy cô bắt “quỳ xơ mít”. Gai nhọn, đau phải biết! Ăn uống kém vệ sinh, biết đâu có ngày bị “sán xơ mít”!
Với những chứng cứ nêu trên, lâu nay tôi vẫn nghĩ “mít” là từ thuần Việt. Chẳng phải đâu, đó là từ vây mượn từ tiếng Phạn! Nói có sách mách chứng. Nguyệt san Giác Ngộ (số Xuân Đinh Sửu -1997) giải thích: “Jek” - một từ Sanskrit có nguồn gốc từ Ấn Độ nhằm chỉ một loại cây rất hữu dụng. Tại Ấn Độ, giới tu hành đặt tên cho “jak” biệt danh cây “Pàramità”. “Khi sang Việt Nam, do lối nói tắt của người Việt mà từ “Pàramità” biến thành từ “mít” (tr.92).
Có lẽ không đơn giản như thế, Từ điển Phật học Hán- Việt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (NXB Khoa học Xã hội-1998) cho biết thuật ngữ “Pàramità” phiên âm thành “Ba la mật”. Người Việt gọi tắt là “mật” và từ tiếng “mật” (Hán-Việt) đó, ta Việt hóa thành “mít”. Theo Tầm nguyên từ điển Việt Nam (NXB TP.HCM-1993), nhà ngôn ngữ học Lê Ngọc Trụ giải thích: “Tiếng “mật”, “đường mật”, tiếng Phạn là “madhu” có nghĩa là ngọt ngào êm ái. Tiếng “madhu” cho ra tiếng Trung Hoa cổ là “miệt”, tiếng Quảng Đông là “mạch”, tiếng Quan Thoại là “mi-í”... Ta đã Việt hóa tiếng “mật” (Hán-Việt) thành “mít” (trái mít do tiếng Ba la mật)” (tr.52). Nhân đây cũng nói luôn, ngày xưa, giới tu hành đã băm nhỏ cành mít bỏ vào nồi hầm kỹ để lấy sắc vàng nhuộm áo cà sa.
Chỉ mỗi từ “mít” mà đã rắc rối, nhiêu khê thật.
Như đã biết “mật” có nghĩa gốc “ngọt ngào êm ái” nên trái cây sên với đường mật gọi là “mứt”. Loại cây lau sậy có chất nước ngọt dùng làm đường gọi là “mía”, theo cụ Lê Ngọc Trụ: “Tiếng “mía” biến thể tiếng mi-í của Quan Thoại, thêm âm a cuối (mí+a = mía)”. Và từ “mật” ấy đã đi vào thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt một cách ngọt xớt. Vậy trong tiếng Việt có bao nhiêu từ nhằm chỉ cấp độ của ngọt? Này nhá: ngọt bùi, ngọt lịm, ngọt lừ, ngọt lự, ngọt ngay, ngọt như đường, ngọt như mía lùi, ngọt gắt, ngọt ngọt (hơi ngọt)…
Với câu “mật ngọt chết ruồi” là cảnh giác cái hình thức bề ngoài, ta dễ sập bẫy như chơi ví như tin ai đó mau mồm dẻo miệng, “nói ngọt lọt đến xương”, nói như rót mật vào tai. “Mật ít ruồi nhiều” là chỉ cái trò đời nhố nhăng, nhân tình thế thái chẳng ra làm sao, chỉ có chút tẹo tèo teo bổng lộc mà lắm kẻ chõ mũi vào xâu xé, kiếm chác. Để chê trách kẻ quên ơn, cái thuở khố rách áo ôm được người ta giúp đỡ chu đáo, ngọt ngào như mật, thế nhưng sau đó trả lại những thứ cay, đắng như gừng nên thành ngữ có câu: “Cho mật, trả gừng”. Tương tự, “Ăn mít bỏ xơ” là trách kẻ vong ân bạc nghĩa, thay dạ đổi lòng chẳng khác gì “ăn cháo đá bát”. Ca dao có câu: “Trách ai ăn mít bỏ xơ/ Ăn cá bỏ lờ, ở dạ trắng đen”. Chơi thế, chơi với ai?
Ta đã biết “mít” là kín, không hở; nào ngờ “mật” cũng có nghĩa tương tự là kín, cần phải giữ kín, không để lộ ra. Truyện thơ Nôm Nhị độ mai có câu: “Ghé tai tâu mật mọi đường/ Xin làm như thế mới tường đầu đuôi". Chưa hết, mật là ngọt nhưng còn đồng âm dị nghĩa với “to gan, lớn mật”, “đắng như mật cá mè”, “tốt vàng son, ngon mật mỡ”… Khi nghe câu nói: “Thằng chả nhậu say bí tỉ đến độ nôn mật xanh mật vàng”, ắt hiểu nôn ra, ói ra cho bằng hết. Nếu “thanh lịch” (!?) hơn, có thể dùng cụm từ “cho chó ăn chè”!
Ơ hay, “chè” phải ngọt, chứ nhũng thứ hẫu hốn đó sức mấy mà ngọt? Vậy thì, “chè” trong “thành ngữ” trên đã có một hàm nghĩa khác hẳn. Sự lý thú của tiếng Việt còn là chỗ đó.
L.M.Q
(nguồn: Báo Tuổi Trẻ Cười 1.3.2016)
< Lùi | Tiếp theo > |
---|