BÁO CHÍ Lê Minh Quốc viết LÊ MINH QUỐC: Xỉa răng cọp, vuốt râu hùm

LÊ MINH QUỐC: Xỉa răng cọp, vuốt râu hùm

 

xiarangcopvuotrauhum1-R

 


Lâu nay, từng nghe nói, “long, ly, quy, phụng” là bốn con vật thuộc loại “tứ linh”. Rất oai phong lẫm liệt. Con cọp đừng hòng có cơ hội xía vô. Thế nhưng, tôi dám quả quyết rằng, cọp là con vật được người Việt đặt cho nhiều cái tên nhất. Tại sao như thế? Câu trả lời cụ thể ra làm sao, tôi không dám lạm bàn, nay chỉ “khảo sát” các tên gọi đã tồn tại xưa nay. Khi nói, “xỉa răng cọp, vuốt râu hùm”, “cầm gươm đằng lưỡi, cỡi hổ đằng đầu” ai cũng thừa biết nhằm chỉ một hành động táo bạo một cách dại dột, liều lĩnh và nguy hiểm, ú a ú ớ có thể “tan bành xác pháo” như chơi.

Với tên gọi là “cọp”, có thể tìm thấy qua các câu như Dữ như cọp cái; Thả cọp về rừng; Rừng nào cọp nấy; Cọp về làng như Thành hoàng về miễu; Ky cóp cho cọp nó xơi; Cọp tha, ma bắt; cáo đội lốt cọp v.v… Thời khẩn hoang ở Nam bộ “dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um” ắt có nhiều pha đánh cọp ác liệt. Nhân đây, nói luôn “um” là mô phỏng tiếng gầm của cọp, hoàn toàn khác với “um” có nghĩa là “hầm” (nấu nhỏ lửa và đậy kín cho chín nục) như “lươn um bắp chuối”, chẳng hạn. Mà cũng lạ, “um” lại biến âm qua “om”, khi nói “om sùm”, “um sùm” thì cũng cùng nghĩa. Kinh nghiệm của các ông thầy võ là “cọp đực đánh dái, cọp cái đánh nây”. Còn như,“Đánh hổ mà đánh tay không/ Thà về xó bếp giương cung bắn mèo”.

Thay vì nói, “được voi đòi tiên”, còn có cách nói “được đầu voi, đòi đầu cọp”. Trên đời có nhiều kẻ ba hoa, bốc phét cỡ như: “Chạy ù xuống bể lôi tàu lại/ Chạy tuốt lên non bắt cọp về”; hoặc “Xuống sông hốt trứng sấu/ Lên rừng vuốt râu cọp” - khoác lác như thế, nay gọi là “nổ văng miểng”. Chê trách những kẻ bội bạc “có đó bỏ đăng/ có lê quên lựu, có trăng quên đèn” ắt bị mắng như “Đứa nào được Tấn quên Tần/ Xuống sông sấu bắt, lên rừng cọp tha”. Đó là câu rủa độc địa.

Khi từ “copier” tiếng Pháp du nhập vào vốn từ tiếng Việt, lập tức nó trở thành “cóp pi/cọp pi”. Lâu nay, vẫn thường nghe “đọc cọp/coi cọp/xem cọp”…  chính là xuất phát từ “copier” nêu trên, nhằm chỉ hành động “ăn ké”, “ăn theo” y chang như người ta mà không tốn một xu teng nào. Cụm từ đó, hoàn toàn không dính dáng gì đến cách giải thích là thời khẩn hoang, bà con xem bội trên sông, lúc vãn hát, họ thất kinh hồn vía khi phát giác từ nẩy đến giờ có ông cọp lặng lẽ ngồi đàng sau cũng xem/coi hát bội! Từ đó, câu nói “xem/coi (hát kiểu như) ông cọp kia” - tức là không tốn bỏ tiền mua vé mà vẫn ngồi xem, được thu gọn thành “xem/coi cọp”! Mà cũng lạ, như đã biết, “copier” vừa phiên âm “cóp pi/cọp pi” nhưng “đùng một cái”, con dê bị lôi tuột đứng chung hàng với con cọp! Khi nói “cọp dê” cũng được hiểu như nghĩa “cọp py” đấy thôi. Đúng là tiếng Việt! Lắt léo đến… thần sầu quỷ khốc!

Rồi nếu cần, không thèm gọi cọp, ông bà ta còn gọi nó là hùm. Chẳng hạn, Miệng hùm, gan sứa; Vẽ hùm thêm cánh; Vai hùm, lưng gấu; Rống to như hùm theo cái; Hùm thiêng sa cơ; Dựa hơi hùm, vểnh râu cáo; Rừng rậm có hùm, sông sâu có sấu; Lon ton như hùm con xuống núi v.v.. Có câu dặn dò phải cảnh giác “hang hùm, nọc rắn”, “chui vào hang hùm” - ý muốn những nơi ấy cực kỳ kỳ nguy hiểm, phải tránh xa, chớ dại mon men tới gần, mất mạng dễ như bỡn. Thế nhưng trong câu thơ của Hồ Xuân Hương: “Này này chị bảo cho mà biết/ Chốn ấy hang hùm chớ mó tay”, cần phải hiểu theo nghĩa khác. Nghĩa khác như thế nào? Thì hãy nghe Chiêu Hổ trả lời: “Hang hùm ví bẵng không ai mó/ Sao có hùm con bế chốc tay?”. Cái sự ví von này ngộ quá, láu lỉnh quá, bèn tủm tủm cười một mình là vậy.

Thay vì nói, “tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa”, còn có cách nói “tránh hùm gặp hổ”. Nếu không cần gọi hùm, ông bà ta gọi là hổ. Hổ lui, lang tới; Hổ già cao mưu; Hổ mọc thêm cánh; Thả hổ về rừng; Oai như hổ giấy; Ăn như hổ đói; nếu “chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng” thì “hổ cậy gần rừng”; Nhảy như hổ gặp ổ kiến càng; Hổ nằm trong cũi vẫn còn oai v.v… Trong việc kinh doanh làm ăn, có câu dặn dò chớ dại “Buôn chung với đức ông”. Đức ông là bà con thân thuộc với nhà vua, có uy quyền lừng lừng lẫy lẫy nên lúc chia chác ắt được phần hơn, còn mình chịu phần lép; tương tự có câu “Làm bạn với vua như đùa với hổ” là cũng phải nên dè chừng, cẩn trọng.

Có người hỏi, ai sinh ra Thúy Kiều? Tất nhiên “Có nhà viên ngoại họ Vương”, không, chính là… hổ! Bằng chứng là cụ Nguyễn Du đã viết rành rành: “Hổ sinh ra phận thơ đào/ Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong”. Hổ trong câu Kiều này đồng âm với hổ theo nghĩa tủi thân, tủi hổ, hổ thẹn. Tương tự, “Chó gầy hổ mặt người nuôi” hiểu theo nghĩa “xấu mặt”. Còn “bảng hổ danh đề” lại là bảng công bố danh sách thi sinh thi đậu trong khoa cử ngày xưa. Có lẽ có món thuốc liên quan đến hổ khiến thiên hạ mê tít thò lò chính “cao hổ cốt”. Nhưng “họa hổ, họa bì, nan họa cốt”, nào ai biết cốt hổ thế nào nên mua nhầm cốt cẩu, cấu ngưu ắt cũng là sự ngốc dại vậy!

Thật là oách xà lách, khi hổ còn được gọi là kễnh. Kễnh có nghĩa là to kềnh, to phình ra, có phải nó được đặt tên theo nghĩa đó không? “Mèo tha miếng thịt thì đòi/ Kễnh tha con lợn mắt coi chừng chừng; Dạy con, con chẳng nghe lời/ Con nghe ông kễnh đi đời nhà ma; Nhà bây chết lợn, toi gà/ Năm ba ông kễnh viếng nhà tối nay; Răng khễnh ông kễnh phải gờm”… Cũng từ cái âm “k” đó, ông Kễnh còn được gọi ông kẹ! Về sau, “ông kẹ” nhằm để chỉ người quyền thế, có những việc làm ngang ngược khiến kẻ khác phải sợ, né tránh, oán ghét.

Mà nào đã xong đâu, ông kẹ còn gọi là ông cả, chúa sơn lâm, ông vằn, ông thầy, ông ba mươi: “Ông ba mươi nhát đười ươi/ Đười ươi vắt vẻo tươi cười cành cao; Đường rừng nhất ông ba mươi/ thứ hai rắn độc, đười ươi đời tàn”... Ở xứ Nghệ, nó còn có tên là “khái”. Tục ngữ có câu: “Chưa qua truông trật lọ cho khái”, sực nhớ đến câu cũng cùng nghĩa “Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng”. À, “ông nghè, hàng tổng” thì dễ hiểu rồi, còn “lọ” nghĩa nó ra làm sao? He he.

L.M.Q
(nguồn: TTC số Tân niên 15.2.2016)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com