KỴ & HẠP TRONG VĂN HÓA TÂM LINH DÂN GIAN VIỆT NAM
1/ Khái niệm chung bấy lâu nay:
Nước ta có địa lý thuộc vùng châu Á gió mùa nhiệt đới, thuận lợi cho việc trồng lúa nước và các cây trái cần nguồn nước phong phú....Với khả năng " lịch sử thuần nông buổi đầu" như vậy, trải qua thời gian… khi mưa thuận gió hòa (= phong hòa thủy tú !) hay khi hạn hán, bão lũ..., dân ta đã có tâm lý chung (như bất cứ quần cư dân tộc khác trên thế giới !) là ÁI CÁT TƯỜNG/ KỴ HUNG HỌA (= thích điều lành, lánh việc dữ); hệ quả là phát sinh ra khá nhiều LỄ HỘI DÂN GIAN tương thích với từng bản địa dân cư hình chữ S nước nhà....,đây là biểu tượng những MONG ƯỚC THẦM KÍN, nhưng mãnh liệt/ bền bỉ....
Có thể nói vắn tắt hơn:
- Lễ hội dân gian là thành tố cơ bản (fond de base) của TÂM LINH văn hóa dân gian (prémonition de folklore-culture), đơn giản vì nó là những KHÁT VỌNG SỐNG SAO CHO SƯỚNG tuy ẩn tàng mà lại thường xuyên hàng năm/ thậm chí cả hàng ngày, của mỗi vùng dân cư… nói chung (và cho mỗi cá thể nói riêng!)
Người viết tản tản văn này (LHVKD) mạn phép trình bầy chủ đề KỴ& HẠP (gíác độ tâm linh thế tục là chính), bằng những kiến giải chủ quan đa chiều (trong năng lực giới hạn của mình), xin tạm coi như là các "giả thuyết" ở mỗi lãnh vực khi tiếp cận để giải thích.
Đây là CHUYÊN ĐỀ RỘNG & MỞ, rất cần đuợc nhiều người cùng quan tâm/ nghiên cứu và kết luận nghiệm lý chuẩn mực hơn...
2/ Tổng quan giới thiệu trước các chủ điểm/sujets cần mạn đàm chung:
Trong phạm vi RỘNG và MỞ của hai chữ KỴ & HẠP, người viết sẽ lần luợt trình bầy như sau:
- 2.1- Giải thích về nội hàm tâm linh dụng ngữ KỴvà dụng ngữ HẠP.
-2.2- Thuật ngữ KỴ& HẠP áp dụng trong Dịch lý học (thể âm dương/ dụng ngũ hành vận động).
-2.3-Thuật ngữ KỴ & HẠP trong y học cổ truyền (hàn, nhiệt, hư thực...) và ẩm thực dưỡng sinh.
-2.4 - Thuật ngữ KỴ& HẠP trong thuật phong thủy/bát quái địa lý âm phần, địa lý dương trạch.
- 2.5- Thuật ngữ KỴ & HẠP trong 12 trực khởi (trường phái tam tông miếu, trường phái ngũ hành).
- 2.6- Thuật ngữ KỴ& HẠP trong tập tục quan/ hôn/ tang/tế của cộng đồng.
3/ Bàn riêng về ý nghĩa KỴ & HẠP trong học thuật Linh khu thời mệnh lý.
4/-Ý nghĩa hai chữ KỴ và HẠP:
Theo sách Hán Việt Từ Điển của tác giả ĐÀO DUY ANH (NXB Trường Thi/Saigon 1957):
- KỴ là xung khắc, là tránh né vì sợ hoặc vì ghét bỏ..., là cấm đoán.
- HẠP là giống nhau, là hợp tác có lợi hơn, là cần hội tụ để thêm tiện nghi....
Căn nguyên người đời "hạp cát - kỵ hung" (= vui vẻ đón nhận điều lành, ghét sợ tránh né việc xui rủi) Theo tâm lý xã hội học (phần nghiên cứu tâm lý bầy đàn, tâm lý đám đông...), thì phần úy kỵ là do người ta SỢ SỨC MẠNH của tự nhiên giới (= khí hạo nhiên chí đại chí cương!) mỗi khi "thiên tai" ập đến (lũ quét, bão táp, sóng thần, hạn hán ...) mà cho đến bây giờ (thế kỷ 21 rồi) khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất vẫn chưa thể "cải tạo, uốn nắn" được các hiện tượng ví như "cơn giận dữ bất thường" của thiên nhiên chỉ thuộc thái dương hệ thôi.
Mà quần thể thái dương hệ có trái đất chúng ta, vẫn chỉ như "hạt bụi" trong một giải thiên hà/ galacsie nào đó trong vũ trụ bao la vô lượng vô biên....). Mặt khác, phần tiếp thụ cát tường (tiến đón điều may mắn có lợi hơn) cũng là do tâm ý mong cầu được sống dài lâu hơn, được sống "bớt khổ" một cách lâu bền... hay nói cho văn vẻ hơn: được sống một cuộc đời có nhiều "chỉ số hạnh phúc/ coeufficient de bonheur" hơn người khác....
5/ KỴ và HẠP áp dụng trong Dịch lý học:
- 5.1- Bản THỂ của Dịch học: là thuyết chẻ đôi (nhị phân cực) một THỰC THỂ VÔ LƯỢNG VÔ BIÊN (= một thực chất không thể diễn tả bằng ngôn ngữ đo đếm, nó tồn tại vĩnh hằng từ vô cùng nhỏ đến vô cùng lớn, tạm gọi là Thái Cực, lão giáo cũng gọi tạm là ĐẠO/ Staô) thành hai trạng thái vừa đối lập tính chất với nhau, vừa "ôm ấp" quyện vào nhau để sinh sinh hóa hóa các thực thể khác (từ hữu hình cho đến vô hình trong khả năng nhận thức của loài người ), sách cổ tạm gọi là Âm và Dương.
-5.2- Pháp DỤNG của Dịch học: là thuyết vận động quay vòng "không đầu không đuôi" khẳng định cho ý tưởng "hoàn vô đoan" (= chu kỳ khép kín không xác định điểm khởi đầu lẫn điểm cuối cùng) của bất cứ thực thể nào cần có "sự sống" (hiểu theo nghĩa: gìn giữ, bảo vệ nhau để tồn tại....) sách cổ gọi là Ngũ Hành. Hợp phần của Ngũ Hành gồm 5 thành tố quay vòng: kim, thủy, mộc, hỏa, thổ, kim... (theo ý nghĩa bảo vệ nhau, đùm bọc nhau) hoặc: kim, mộc, thổ, thủy, hỏa, kim... ( theo ý nghĩa trông chừng nhau, uốn nắn nhau, nhắc nhở nhau...).
-5.3- Thế nào là KỴ trong Âm/Dương? Đó là ÂM (hiểu nghĩa cơ bản đời thường, là nhận vào) PHẢI RA ÂM, DƯƠNG PHẢI RA DƯƠNG (hiểu theo nghĩa đời thường, là xuất ra), cho nên sự việc/ sự vật gì có hành vi "không rõ là CHO hay NHẬN" thì là hàm nghĩa CẤM KỴ sử dụng.
-5.4- Thế nào là HẠP trong Âm/ Dương ? Từ suy diễn ở điều cấm kỵ vừa nêu, thì hàm nghĩa chữ HẠP là nên sử dụng thực thể Âm (chính danh: nhận vào) ghép cặp với thực thể Dương (chính danh: xuất ra), để sự việc/ sự vật đó có thêm sinh sinh hóa hóa phong phú khác nữa.
6/ KỴ và HẠP trong y học cổ truyền:
Nền tảng BIỆN CHỨNG bệnh trạng và LUẬN TRỊ bệnh tật là 2 thuyết cổ trong Dịch lý học:
- Thuyết Âm Dương quan niệm: khi quan hệ tương giao Âm/ nhận vào - Dương/ xuất ra không thăng bằng (nghĩa là bị rối loạn), thì phát sinh ra bệnh tật...
Thuyết Ngũ Hành (kim, mộc,thủy, hỏa, thổ) dùng để làm "phác đồ chữa bệnh" cho người bệnh (đây là chỉ định thuần lý của đông y học); khi người bệnh bị thương tổn ở tổ chức nào trong cơ thể, thì người thầy lang cổ truyền đã có ngay kế hoạch:
☆Một mặt kê toa thuốc (hoặc huyệt vị châm cứu) trực tiếp điều chỉnh "rối loạn âm- dương" ở tạng/ phủ đang bị tổn thương...( gọi là tả pháp), theo bảng qui chiếu cơ quan đang có bệnh thuộc hành gì? mà dùng thuốc (hay huyệt châm cứu) có tính dược thuận lợi nhất cho hành của tạng phủ đang bị bệnh đó. Thí dụ: hành mộc / can, đởm bị bệnh, thì dùng thuốc (hay huyệt châm cứu) thuộc tính duợc mộc...( gọi là HẠP).
☆ Một mặt dùng luật ngũ hành tương thích với tổ chức tạng/ phủ đang bị bệnh, mà bổ sung thêm các vị thuốc (hoặc huyệt châm cứu) có tính chất "tương sinh", nhằm tiếp sức thêm cho cơ quan đang bệnh mau hồi phục; cũng có thể dùng "tuơng khắc" để hạn chế cho cơ quan đang bị bệnh không bị tổn thương thêm... (gọi là bổ pháp).
Thí dụ trên: hành mộc/ gan, mật bị bệnh, thì hoặc là "tương sinh" bằng các vị thuốc (hay huyệt châm cứu) có tính dược hành thủy (= thủy sinh mộc!) cũng gọi là HẠP; hoặc là "tương khắc" bằng cách tránh né sử dụng các vị thuốc (hay huyệt châm cứu) có tính dược hành kim (= kim khắc mộc), trường hợp này gọi là KỴ, người thầy thuốc cổ truyền nào cũng phải biết KỴ và HẠP mỗi khi kê toa chữa bệnh (hay châm cứu).
7/ KỴ và HẠP trong ẩm thực nhiếp sinh:
Nhiếp sinh có nghĩa là nắm giữ cho được sự sống (khác với dưỡng sinh, là nuôi sự sống, duy trì cách sống), y học cổ đại phương đông chú trọng nhiều lãnh vực "ẩm thực nhiếp sinh", với quan niệm rất thực tế: ăn và uống thường ngày cũng là THUỐC (= thực phẩm chức năng?). Do vậy mà hai thuật ngữ KỴ, HẠP thường được nhắc nhở trong đông y học:
- Hàn/ nhiệt; hư/ thực là chuẩn mực sơ khởi cho đồ ăn- thức uống hàng ngày...
- Thời tiết lạnh (= hàn) thì ăn uống món nóng (= nhiệt), cũng có thể dùng món "thật lạnh" (= cực hàn) để tạo ra nội nhiệt (= cực hàn sinh nhiệt).
- Thời tiết nóng/ thử (= oi bức), thì ăn uống món mát lạnh (= hàn lương)....
Hai trường hợp trên gọi là HẠP!
Còn nói về KỴ trong ẩm thực nhiếp sinh, thì khá phức tạp và nhiều công phu lý đoán bệnh cảnh hệ tiêu hóa mỗi người... Ăn uống thấy khó chịu (đầy hơi, trướng bụng, táo bón, phân lỏng...) thì phải xem "thực bệnh" hay "hư bệnh"?
Thực bệnh là cơ quan ruột già bị tổn thuơng, KỴ dùng thuốc " bồi bổ" ngay; Hư bệnh là cơ quan đại trường bị xáo trộn chức năng, thì KỴ dùng thuốc "công phạt" mà tốn tiền lại không hết bệnh !
8/ Kỵ và Hạp trong phong thủy (géomancie traditionelle):
- 8.1- Phong thủy dương trạch (nhà ở): quan trọng là vị trí của bếp (táo tòa) và của hố xí (nơi phân tụ về = hố chứa phân, hầm cầu tiêu) phải đúng thế Hạp như sau:
- Bếp ở phía tay long (bên tay trái, từ trong nhà nhìn ra ngoài đường) và ở cách xa huyền vũ (bức tuờng cuối nhà).
- Hố xí ở phía tay hổ (bên tay phải, từ trong nhà nhìn ra ngoài đuờng) và ở gần huyền vũ hơn.
Còn huớng ngôi nhà (theo bát quái cung, tính theo năm sinh âm lịch của chủ nhà theo quẻ dịch lý) chỉ là phần tham khảo thêm....; nếu thuận cho tuổi sinh (tuổi đông trạch gặp nhóm cung: ly, khảm, chấn, tốn; hoặc tuổi tây trạch gặp nhóm cung: khôn, càn (= kiền), đoài, cấn gọi là Hạp. Nếu như không được như vậy, cũng không quan ngại (Kỵ) gì lắm (miễn là căn nhà đã đúng thế bếp tay long, hầm cầu tiêu tay hổ).
-8.2- Phong thủy âm phần (mộ phần): cần chú ý định hướng Hạp cho ngôi mộ, tức là minh đường (phía chân người quá cố = phần trước mộ) và huyền vũ (phía đầu người quá cố = phần sau mộ) theo tuổi năm sinh của nguời chết, tính theo bát quái cung:
- Tuổi tây trạch, cần gối đầu hướng: cấn, kiền (càn), khôn, đoài (huớng huyền vũ).
- Tuổi đông trạch, cần gối đầu về huớng: chấn, tốn, ly, khảm (huớng huyền vũ).
Còn phía minh đường (= phía chân của người quá cố), nếu không được thuận "tây trạch gặp tây trạch, đông trạch gặp đông trạch", thì cũng không gọi là Kỵ, vẫn ổn định "kiết tuờng" cho mộ phần!
Người nghiên cứu phong thủy truyền thống Việt Nam, nên tìm đọc thêm biên khảo NGHIỆM LÝ PHONG HÒA THỦY TÚ (NXB Tổng Hợp TP.HCM - 2007) của dòng họ Lê - Lã tỉnh Hưng Yên xưa; nên nhớ điều căn bản: minh đường thì phải thấp hơn huyền vũ! Nếu minh đường cao hơn huyền vũ là đại Kỵ!
- 9/ Kỵ và Hạp trong trực khởi: có 2 cách tính trực khởi:
- Người Tàu/Trung hoa cổ, xếp 12 trực khởi theo 24 tiết khí hàng năm, tuần tự là các trực: thành, thâu, khai, bế, kiên, trừ, mãn, bình, định, chấp, phá, nguy...rồi quay vòng lại: thành, thâu, khai...
- Người Việt Nam xưa (chủ yếu các tỉnh phía bắc nước ta) lại căn cứ vào qui tắc "nạp âm can+ chi " mỗi ngày để luận ra ngũ hành của ngày đó, rồi căn cứ vào BẢNG PHÂN LOẠI 12 TRỰC KHỞI THEO NGŨ HÀNH (đã giới thiệu trong Linh hoa tuệ đàn số 7, xuân Bính Thân 2016) mà biết đuợc trực khởi của ngày đó! Vì mỗi trực khởi đều có đủ tính ngũ hành (kim, mộc, thổ, thủy, hỏa), trong lúc 12 trực khởi của người Tàu không có tính chất ngũ hành (là nguyên lý vận động của thế giới vũ trụ tự nhiên, nguyên lý của Dịch lý học).
Luận bàn về việc Hạp hoặc Kỵ để chọn ngày TRỰC KHỞI TỐT khá công phu, như sau :
- Hạp là trực khởi ngày đó phải có hành tương sinh với hành bản mệnh của mình (tính theo năm sinh âl), đồng thời còn tùy theo ý nghĩa của công việc dự kiến tiến hành (thí dụ: chọn ngày làm hàng rào, thì chọn trực BẾ, ngày làm lại căn nhà = phá bỏ nhà cũ chọn trực PHÁ...).
- Kỵ là trực khởi ngày tiến hành công việc, không được xung khắc ngũ hành (giữa hành bản mệnh với hành của trực khởi), thí dụ: tuổi ất mùi hành kim mà tuy chọn ngày trực khởi đẹp nhất (thành, thâu, khai, mãn) thuộc hành hỏa, thì cũng chẳng cát tuờng gì! vì hỏa khắc chế kim!
Cũng cần nhắc lại 2 qui tắc tương sinh (hạp) và xung khắc (kỵ) của nguyên lý ngũ hành vận động, như sau:
- Tương sinh: kim (sinh) thủy (sinh) mộc (sinh) hỏa (sinh) thổ (sinh) kim....
- Xung khắc: kim (khắc) mộc (khắc) thổ (khắc) thủy (khắc) hỏa (khắc) kim.,..
10/ Kỵ và Hạp trong tập tục Quan/Hôn/ Tang/ Tế dân gian:
- 10.1- QUAN là công chuyện làm ăn, thi cử, danh phận... người xưa dùng 12 trực khởi của ngày là chính, do đó chỉ chọn trực khởi đẹp nhất (thành, thâu, khai, mãn), và tránh kỵ các ngày trực khởi xấu (bế, trừ, chấp, phá, nguy... Tất nhiên vẫn phải là ngũ hành tương sinh (như đã nêu ở phần tiểu mục 9 bài viết này) cho tuổi của chủ thể công việc.
- 10.2- HÔN là việc dựng vợ gả chồng (cuới, hỏi, trạm ngõ) trong phong tục hôn nhân xưa. Tuy ngày nay, theo luật hôn nhân tiến bộ: nam nữ yêu thương nhau mới tiến hành cưới hỏi, nhưng thực tế trong dân gian: nhiều gia đình cũng muốn cuộc hôn phối được bền vững, nên "tâm linh hóa" vài qui tắc giản đơn, thiết tuởng cũng nên bàn chuyện Kỵ -Hạp:
- Hạp: chọn ngày trực khởi đẹp và có ngũ hành tương sinh thuận lợi cho cả chú rể lẫn cô dâu... Giờ đón dâu thì chọn giờ "tam hợp tuổi" của cô dâu (không chọn giờ tam hợp tuổi chú rể).
-Kỵ: không chọn người có tuổi mà cuộc sống cô quả dẫn đầu đoàn nhà trai đi đón dâu (không dùng từ "ruớc dâu"), dù người này có chức vị cao...
-10.3- TANG CHẾ: mỗi khi nhà có người qua đời, thì 2 việc cần chú ý nhất là chọn giờ "nhập quan" và giờ "hạ huyệt” cho người chết như sau:
- Giờ nhập quan, chọn giờ "tam hợp tuổi "của nguời chết, thí dụ: người chết tuổi TÝ (hay thìn, hoặc thân), thì chọn 1 trong 3 giờ tam hợp là giờ tý / giờ thìn/ giờ thân; người chết tuổi SỬU (hay tỵ, hoặc dậu), thì chọn giờ sửu/ giờ tỵ / giờ dậu ; người chết tuổi DẦN (hay ngọ, hoặc tuất), chọn giờ dần/ giờ ngọ/ giờ tuất; người chết tuổi MẸO (hay mùi, hoặc hợi), thì chọn giờ mão/ giờ mùi / giờ hợi
- Giờ hạ huyệt (nên dùng vào các ngày có trực khởi: bế, trừ, phá, nguy) thì hàng thân tộc ruột thịt (của người chết) có năm sinh thuộc "tam hợp tuổi" với nguời chết: cần tránh mặt lúc thao tác đưa quan tài xuống huyệt (đợi khi quan tài đã an vị xong), thì mới tiến hành tham gia rải hoa / rải đất như mọi người.,,.
-10.4- TẾ LỄ, chủ yếu là các ngày giỗ chạp ông bà, cha mẹ, thân thuộc trực hệ... Đất lề quê thói của người Việt cổ xưa rất trân trọng mỗi khi làm mâm cơm cúng tế người đã khuất/ hàng năm....nhất thiết phải làm đúng vào ngày chết của người thân (gọi là giỗ chính ngày!), không nên làm giỗ trước hay sau chính ngày, người xưa tin "linh khí người chết" sẽ không được phép về thụ hưởng lễ vật dương gian khi không đúng ngày chết của mình.
Ông bà ta khi xưa có niềm tin "rất nhân văn hậu hĩnh": ngày giỗ dù có làm mâm cao cỗ đầy, cũng không bằng làm vui lòng linh hồn người chết trong ngày giỗ: khi có thật đầy đủ họ hàng thân tộc xa gần về tụ họp vui vẻ !
Mùa hè Bính Thân 2016
LÊ HƯNG VKD,
(Viết tặng riêng cho người học trò có "tâm bồ tát" NVT)
< Lùi | Tiếp theo > |
---|