Vài thông tin về tờ ĐĂNG CỔ TÙNG BÁO - Thơ ca

Mục lục
Vài thông tin về tờ ĐĂNG CỔ TÙNG BÁO
I. Sơ lược về tờ báo ĐĂNG CỔ TÙNG BÁO
Nhời Đàn Bà
Thơ ca
CÙNG MỘT CHỦ ĐỀ
Tất cả các trang


2. THƠ, CA


THƠ THẦY ĐÁNH MÁY CHỮ.
Tíc tắc, tích tắc, sớm lại trưa,
Máy chữ nay thầy đánh như lưa.
Hai chục đồng lương thừa bảnh chọe,
Ở nhà u nó liệu muối dưa.   
Xe máy, đồng hồ, giày với gậy,
Cơm tây, nhà séc thực say sưa.
Chữ nghĩa cần cho còn phải học,
Răm tiếng lang sa tíc tắc thừa.
Số 1(793), ngày 28/3/1907

KHÔNG ĐỀ.
Hỏi đâu đâu thế sét ngang đầu
Tỉnh tỉnh dậy ra trống gọi nhau.
Xác vẫn đồng văn tên tuổi báo,
Hồn là đăng cổ mặt da trâu.
Người hai mươi triệu nghe cho chữa?
Đất bốn nghìn năm tưởng đã lâu!
Hay dỡ cạy tay tòm cắt tỏm;
Tửng tưng ta góp một đôi câu.
Tri huyện Nguyễn Thiện Kế
Số 3(795)ngày 14/4/1926.
Tri huyện Nguyễn- Thiện- Kế

KHÔNG ĐỀ
Người là người đó cũng là ta,
Nghĩa chữ đồng bào cắt rộng ra,
Sắc có tráng vàng cho khác giống
Cầu xoay non nước vẫn quanh nhà,
Thử xem dân chủ Pháp và Mỹ
Cho biết quân thuyền Thanh với Nga,
Tuần báo mấy lời lòng phải động,
Tùng tùng tiếng trống nghĩ đâu xa.
Đốc học tỉnh Vĩnh Yên
Kiều- Oánh- Mậu
Số 4 (796), ngày 18/4/1907

KHÔNG ĐỀ
Suy mới biết thế vô nan sự
Chỉ nhân tâm do dự bất kiên.
Ngẫm trong thế giới ba nghìn
Trời riêng ắt hẳn có riêng ai nào.
Kể từ lúc ra đầu bàn cổ
Ai cũng đều ở lỗ ăn lông,
Sao nay trời dễ chiều lòng
Kẻ hay dò biển người thông do trời
Xưa thế ấy, nay thời thế ấy,
Cuộc biến dời, lấy đấy mà suy.
Loài đểu thú, giống vô tri
Bẩm sinh cũng có công kia việc này,
Huống là người tinh hay mọi cách
Hẳn có tài luyện thạch bổ thiên,
Nghĩ mình đương độ thiếu niên
Lại thêm ở đất thánh hiền sinh ra.
Nay đương lúc sơn hà biến cải,
Tính làm sao cho quốc thái dân an!
Vui chi võng ngựa rủ tàn,
Một thân vinh để muôn ngàn đắng cay.
Aáy cuộc thế đã bày ra đó
Anh em ta nên cố làm sao.
Nam lang là đất Á châu,
Sức tài so sánh mấy Aâu tương đồng.
Dao ít mài, dao không làm sắc,
Chí chẳng nên, chí đặt thêm ngu.
Càng nhìn cuộc thế càng lo
Thế này cứ mãi lệ nô muôn đời.
Kìa Nhật bản của người được mấy
Mà sao nay lừng lẫy toàn cầu?
Mình nay có khác chi đâu,
Có câu khéo bảo được nhau thì thành.
Người nước mình thì mình phải sót;
Con một nhà em út nên thương.
Ngoài ra kỹ nghệ muôn đường,
Văn minh học tập, nông thương chuyên cần
Nay Đại Pháp ra tâm mở trí,
Nghề nào hay chăm chỉ cố xem,
Nghề đú sắt, cách làm gièm
Phép thu điện khí, cách tìm mỏ khai.
Nghề hấp bát, đúc chai, làm giấy
Chế xà phòng, cách lấy dầu tây
Aáy là tóm mấy điều hay,
Tài kia học được nước nay hẳn giàu.
Việc cơ khí là đầu bách nghệ
Phải tinh tường mấy thế kinh doanh.
Đâu to hơn nước đại Thanh
Quá suy cũng phải bỏ kinh theo quyền
Đương làm thày, phải xuống làm tớ
Biết cơm thiêu đói qúa phải ăn
Chuyện đời nghĩ cũng cơ mang
Chưa ai tôi mọi lầm thang tới già
Nhục có lúc, vinh hoa có lúc
Sự năng thường bĩ cực tắc thông
Nay tàu đã sớm khởi công
Mười lăm năm ắt non sông vững vàng
Nếu cón giữ thói lang chẳng đổi
Trong mười năm tang hải biết tay
Thôi mừng mát mặt cho ai
Cha con vinh hiển, vua tôi tưng bừng.
Xem nước nhà ra chừng muốn thịnh,
Đã nhiều nơi quy chính cải tà
Tự mình mình biết xấu xa,
Tuy roi chẳng đánh mà da cũng lằn.
Tiếng ăn ở với Tần ngày tháng,
Dạ bồi hồi nhớ Hán không khuây
Vua hèn, nước phải đắng cay,
Vì quan tham nhũng, dân nay siêu tàn.
Tàn như thế mà an mới giỏi
Bĩ như ta mà thái mới kỳ.
Hãy xin thói cũ bỏ đi,
Điêu ngoa là nghịch, khinh khi là tà
Thôi ta lại vì ta một thể
Kẻ xuất tiền, mấy kẻ xuất công
Làm người giỏi chẳng hưu không
Có công ắt hẳn đền công có ngày.
Lũ chúng ta ơn dày hậu bổng
Làm sao cho danh vọng muôn đời.
Rủ nhau góp tháng một vài,
Cắt người đi học lấy người ngoại hương.
Nay nhà nước mở đường chung hậu,
Muốn cho mình nối dõi Thái Tây
Tớ khôn đẹp mặt cả thày,
Ơû lâu quen việc, đỡ tay chủ nhà,
Sách có chữ kiến cơ nhi tác
Nên mau mạc ghi tạc lòng vàng.
Cho người sang học tây ban
Tốn bao ta chịu, miễn mang được nghề
Khi cách trí trở về tổ quốc
Chiếu Việt Nam mượn đuốc đồng bào
May ra vét để bằng ao,
Lấy tay bỏ nạn, gương cao chống trời
Can chi phải im hơi, nín tiếng,
Mà giả danh thì chuyện mới thành
Lù xù khăn gói một mình
Nay Thanh, mai Nhật, kia Anh khó lòng.
Bụt chùa nhà sao không cầu cúng
Phải ra đường bái tụng Thích ca?
Quê người lẽo đẽo đường xa,
Thuyền nan chống với phong ba được nào?
Nọ tiêm la chư hầu ta trước,
Bởi vì ai nên nước có tên
Mà nay ra cảnh vững bền,
Nên trong vạn quốc đua chen hiệu cờ.
Aáy chẳng qua phụng thờ thày chẻo
Nên Hồng mao khôn khéo điều đình
Mà ta chung quốc oai danh,
Bắc, Nam, Lục tỉnh, ba kinh rộng dài.
Sao nỡ chịu khoanh tay thúc thủ
Để cho người thứ lữ chê khen?
Nước trong còn phải đánh phèn,
Người hay phải có học rèn mới hay.
Suy muôn việc bởi tay người cả,
Duy thịnh suy mới ở tại trời.
Kìa như thu khí thu lôi,
Aáy sao trời cũng chịu lui thế mà.
Than ôi, kể muôn xưa nhầm lỗi.
Sinh dị đoan mà dới muôn dân
Cho nên đóng cửa ngồi ăn
Kẻ khóc số tốt, người rằng mà hay
Aáy ta phải dốt lâu vì thế
Nên ngày nay nô lệ cha con
Nay đà hết dại thêm khôn
Văn minh có gắng, dã man nên chừa
Nào những kẻ đương mơ giấc ngủ,
Nên tỉnh tinh mà khu sửa chuyện đời.
Nôm na xin niệm đôi lời.
Aáy ai nguyện thiện thời trời chứng tri.
Vương- Bích- Đào
Số 5(797), ngày 25-4-1907

BÀI CA CHÊ NGƯỜI HÀO PHÚ NƯỚC NAM
Oâng hào phú biết chưa, chưa biết?
Có của mà đừng nghiệt mới hay.
Kẻ trong thường dạy xưa nay
Người làm nên của, cửa xây nên người
Người có của việc đời dễ giúp
Của ở người chi tốt tiêu pha.
Ngắm xem nông nỗi nước nhà,
Còn không biết dụng thật là ngu si
Kìa những kẻ kỳ kỳ cục cục
Giữ khăng khăng thóc mốc tiền chôn.
Để giành cho cháu cho con,
Chẳng lìa tơ tóc còn khôn nỗi gì!
Cũng có kẻ vụng suy vụng nghĩ
Của trời cho ta để ta chơi.
Nào là cờ bạc dông dài
Nào là bợm đĩ tiêu hoài biết bao.
Hoạ có kẻ biết điều biết nhẽ,
Cửa luân hồi cũng phải vả vung
Lại đem tô tượng , đúc chuông,
Lại đem cúng cấp thập phương chùa chiền.
Vất bỏ đi hầu dễ thấy tăm,
Đêm đêm thử vắt tay nằm.
Tiêu mà tiêu thế, tiền nhằm đến đâu.
Nọ dân xã nay sưu mai dịch,
Nọ đồng tiền nắng nỏ mưa rầu.
Biết bao kẻ đói người sầu,
Sao không giúp đỡ cùng nhau chút nào?
Kìa già yếu ốm đau bệnh não.
Kìa trẻ thơ thất giáo càng thương
(mất một câu)
sao không góp của lập trường dạy cho?
Phúc trước mắt, phúc to chẳng cố,
Phúc lâu lâu, phúc lố thì ham
Từ nay việc nghỉa nên làm
Giúp công giúp của xin đem bụng vào.
Thế mới phải là hào là phú
Thế mới là có của có tâm
Ai ơi! Nghĩ lại kẻo nhầm
Của trời có lẽ tay cầm nãi chăng!
Tam Sơn lai kiểu
Số 26(818), ngày 19-9-1907

THƠ NGHỊ VIỆN
Nghị viện há phải chuyện con con
Nước có quyền dân nước mới còn.
Dầy được mở mồn nên nhức óc;
Ai mà bóp dẹp cũng vê tròn.
Thay ba vạn rưởi người ăn nói;
Mở bốn nghìn năm mặt nước non.
Ghi chúc duy tân hai chữ mới:
Đúng như sôi thịt lũ quan hòn.
Bến nễ tứ
Số 28(820), ngày 3/10/1907



Add comment