BÁO CHÍ Lê Minh Quốc viết LÊ MINH QUỐC: CHUYỆN TÌNH CỦA NGƯỜI NỔI TIẾNG - 3. Tình đầu là tình cuối của Nguyễn Tuân

LÊ MINH QUỐC: CHUYỆN TÌNH CỦA NGƯỜI NỔI TIẾNG - 3. Tình đầu là tình cuối của Nguyễn Tuân

Mục lục
LÊ MINH QUỐC: CHUYỆN TÌNH CỦA NGƯỜI NỔI TIẾNG
1. Lê Văn Trương và hai người vợ yêu
2. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn và vần thơ se duyên
3. Tình đầu là tình cuối của Nguyễn Tuân
4. Duyên tiền định của học giả Nguyễn Hiến Lê
5. Những người đàn bà đi qua cuộc đời Trần Tấn Quốc
Tất cả các trang


 Tình đầu là tình cuối của Nguyễn Tuân

vo_chong_nha_van_NGUYEN_TUAN

Vợ chồng nhà văn Nguyễn Tuân

Nguyễn Tuân (1910-1987) là một gương mặt độc đáo trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Từng con chữ dưới ngòi bút của ông đều tươi roi rói và lấp lánh sự sống. Càng đọc Nguyễn Tuân, ta càng khâm phục khả năng sử dụng tiếng Việt của một nhà văn bậc thầy. Sinh thời, trên tạp chí Tác phẩm mới (số 8.1990) ông từng phát biểu: “Tôi không có kỷ niệm đẹp về thời thơ ấu và tuổi thanh xuân. Tôi chưa có tuổi trẻ thì đã thành ông cụ non rồi. Tôi viết Vang bóng một thời và Thiếu quê hương từ những năm 29, 30 tuổi, như vậy thì làm gì có tuổi trẻ”. Và mối tình đầu của nhà văn Nguyễn Tuân, do chính ông kể lại, chúng ta cũng không tìm thấy được ở đó những hẹn hò, tình tứ, thơ mộng của tuổi mới lớn.

Nguyễn Tuân sinh năm 1910 tại phố Hàng Bạc (Hà Nội) là con trai của cụ Nguyễn An Lan (tức ông tú Hải Văn), một nhà nho bất đắc chí nhưng rất mực tài hoa. Thời niên thiếu, ông theo gia đình sống nhiều nơi ở các tỉnh miền Trung, Bắc. Năm 1929, học Thành chung ở Nam Định, ông kể: “Học đến năm thứ hai trung học tôi đã cưới vợ. Vợ tôi là con gái Hàng Bạc, cũng là chỗ môn đăng hộ đối, do gia đình lựa chọn cho. Tôi cưới vợ sớm vì hồi đó bố tôi ốm nặng, sợ không qua khỏi, tôi là con trưởng, hai gia đình quen biết nhau đã lâu nên bà cụ muốn cưới sớm”.

Vợ của nhà văn Nguyễn Tuân là bà Vũ Thị Tuệ. Sau khi cưới vợ, Nguyễn Tuân vẫn còn đi học. Ông kể tiếp: “Mẹ tôi lấy cho một bát họ, để tôi mở hiệu sách. Tôi làm đại lý cho các báo Trung Bắc tân văn, Thanh Nghệ Tĩnh, Tiểu thuyết thứ bảy... Được vài năm tôi phá gần sạch vốn, đành đưa vợ con về sống bám vào thầy mẹ tôi”.

Lúc này, bà Tuệ mới sinh con trai đầu lòng được hai tháng, Nguyễn Tuân “nổi máu giang hồ” cùng bạn bè rủ nhau trốn đi Thái Lan, vừa chân ướt chân ráo đến Băng Cốc thì bị bắt và giải về Hà Nội. Được thả về, ông làm chân giữ kho ở Nhà máy đèn Thanh Hóa: “Một hôm chủ sở bắt gặp tôi đang đánh máy - đây không phải là công việc của tôi - nó hỏi tôi đánh máy cái gì, bạn bè chung quanh nói anh ấy đang làm thơ, thằng chủ sở tức mình, xách cả cái máy định ném vào đầu tôi, may mà tôi tránh được, thế là tôi bỏ việc”.

Bà Tuệ kể tiếp:“Không được bao lâu, nhà tôi lại xách va ly ra đi. Tôi không hề ngăn cản nhà tôi trong những chuyến đi. Rất yêu quí và phục ông ấy, tôi không muốn làm phiền ông mặc dù xa ông, tôi buồn biết bao nhiêu”. Biết làm sao được, khi mà Nguyễn Tuân là người tôn thờ “chủ nghĩa” xê dịch và thèm đi “giữa buổi Tây Tàu nhố nhăng làm lạc mất của quan niệm cũ, làm tiêu mất bao giá trị tinh thần” (Vang bóng một thời). Chính trong thời đi giang hồ, ông có gửi về cho vợ... bài thơ ! Ấy là lúc ông theo đoàn làm phim của Nguyễn Doãn Vượng sang Hồng Kông đóng phim Cánh đồng ma. Bài thơ viết vào dịp cuối năm nơi đất khách quê người mới não ruột làm sao: “Bốn bể cũng là nhà/ Tết này lại ở xa/ Hồn quê theo lá rụng/ Đất khách đóng trò ma/ Gió bụi quên ngày tháng/ Biển hồ gặp xông pha/ Đừng cho đàn trẻ biết/ Rối ruột khách thiên nha”.

Và bà Tuệ còn kể thêm một chi tiết khá thú vị: “Lúc sắp sửa đẻ đứa thứ sau, nhà tôi viết thơ về hẹn đưa tôi đi sinh. Tôi sung sướng chờ đợi. Nhưng đợi mãi, nhà tôi vẫn không về. Ngay một bức điện, một bức thư đưa tin cũng không có. Đã đến ngày sinh, tôi buồn rầu thui thủi một mình vào nhà hộ sinh. Không tránh khỏi có phần tủi thân và thầm oán trách sự vô tâm của nhà tôi”. Không những vô tâm, ông còn đểnh đoảng nữa. Đạo diễn Đình Quang cho biết: Có lần Nguyễn Tuân dẫn con vào rạp xi nê xem chiếu bóng, tan phim, ông mải theo bạn bè đi chơi tiếp, bỏ quên con đang nằm ngủ chèo queo trong rạp! Đến khi nhớ lại, ông vội chạy đến rạp, thấy vắng hoe, lo cuống lên, không ngờ bà Tuệ đã đến dẫn con về tự lúc nào rồi!”.

Nói về vợ mình, Nguyễn Tuân tâm sự: “Chúng tôi sống với nhau hòa hợp cho đến bây giờ cũng là lúc đầu bạc răng long rồi chứ còn gì nữa. Chung quy phải nói là do ở nơi bà ấy cả. Tôi là thằng phá đình phá chùa, vì vậy cái người chịu đựng được tôi lại còn chung thủy và tận tụy săn sóc mình thì cũng như người tô tượng đúc chuông chứ còn gì nữa. Không hiểu bà ấy quý tôi về cái nỗi gì, chứ tôi phá bà ấy nhiều đận đến là điêu đứng”.

Bà Tuệ thành thật bộc bạch: “Hơn 50 năm trôi qua, sống với nhau, xa nhau nhiều, nhưng chỉ có đến tuổi già mới có điều kiện gần nhau. Tính cách hai chúng tôi rất khác nhau, nhưng sao vẫn hợp nhau. Nhà tôi khó tính, rất khó tính. Càng lớn tuổi, càng khó tính. Nhưng tôi vẫn cố chiều được”.

Năm 1986, Nguyễn Tuân ốm nặng, tướng không qua nổi, bèn nói vui với vợ: “Bà với tôi thì nên ai đi trước?”. Không ngờ bà Tuệ trả lời một câu mà Nguyễn Tuân nhận xét là rất... “tình tứ": “Nếu ông đi trước thì tôi sẽ buồn lắm, nhưng tôi mà đi trước thì ông sẽ rất khổ vì không ai săn sóc ông được như tôi. Và như vậy, tôi chết cũng không đành”.
Nếu không có sự nhẫn nại, chịu đựng của bà Vũ Thị Tuệ, liệu chúng ta có được những trang tuyệt bút về Vang bóng một thời (1940), Một chuyến đi (1941), Tàn đèn dầu lạc (1941), Tùy bút (1943), Chùa đàn (1946) rồi Tình chiến dịch (1950), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), v.v...

Về cuối đời, bà Tuệ cho biết thêm: “Nghĩ lại, từ khi lấy nhau cho đến lúc có bảy mụn con, chúng tôi xa nhau luôn. Biết bao khó khăn vất vả. Nhưng cứ mỗi lần nhà tôi đi xa về thấy các con khôn lớn, ông rất vui, tôi cũng thấy mát lòng, và quên đi những phiền muộn vất vả. Đối với tôi, nhà tôi lúc nào cũng chu đáo. Nhà tôi chưa hề nặng lời với tôi lần nào. Mặc dầu xa nhau luôn, nhưng tôi vẫn tin ở nhà tôi. Hồi trước Cách mạng, nhà tôi cũng theo bạn đi hát ả đào. Tôi còn nhớ, có lần có người đến gõ cửa báo tin cho mẹ con tôi biết là nhà tôi đang ở nhà này, nhà nọ. Tôi cứ để mặc. Dưới mắt tôi, nhà tôi bao giờ và lúc nào cũng là một người có suy nghĩ”.

Sực nhớ đến câu ca dao xưa: “Lấy chồng hay chữ như soi gương vàng” - có lẽ đây là niềm tự hào của bà Vũ Thị Tuệ đối với Nguyễn Tuân – một người chồng, là nhà văn bậc thầy. Và chúng ta cũng tự hào có nhà văn Nguyễn Tuân trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

L.M.Q

(nguồn: Thanh Niên 16.11.2016)

Tài liệu tham khảo:

Nhà văn qua con mắt những người thân (NXB Hội Nhà văn - 1994); Hỏi chuyện nhà văn Nguyễn Tuân - (Tạp chí Tác phẩm mới số 8-1990).



Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com