BÁO CHÍ Lê Minh Quốc viết LÊ MINH QUỐC: HÁT MẤY CÂU GIẢI SẦU CHƯ VỊ

LÊ MINH QUỐC: HÁT MẤY CÂU GIẢI SẦU CHƯ VỊ

HAT-MAY-CAU-GIAI-SAU-CHU-VI

 

Lâu rồi không phở với nhau

Tâm tình chín, tái, nạm, gầu, sụn, gân

Tiêu, hành, tỏi, ớt… kinh luân

Mỗi ngày mỗi phở là xuân mỗi ngày

Kinh Luân là tên riêng, một đồng nghiệp; cũng là một phần của câu 2.452 trong Truyện Kiều: “kinh luân gồm tài”. Sáng nay, nhớ phở, thèm phở nhưng rồi cũng không thể. Bấy lâu nay, mỗi sáng và mỗi chiều phải đi ăn với một người. Chữ “phải” nghe ra tủi thân quá nhỉ? Chẳng hề gì, đôi khi con người ta phải thay đổi thói quen vì một ai đó. Mà lấy làm hả hê. Sung sướng. Có kỳ quặc không? Chỉ làm hài lòng một người thôi. Là đủ. Không gì dẫn đến thất bại nhanh chóng bằng cách muốn lấy lòng, được lòng tất cả mọi người.

Như thói quen không thể bỏ. Mỗi lúc ăn, nếu ngồi một mình, bao giờ cũng cắm mặt xuống trang báo. Sáng nay, trong lúc chờ một người đến, tranh thủ đọc vài tớ báo mới. Tự nhiên bật cười với bài báo Di tích 317 tuổi chờ... sập in trên Báo Thanh Niên. Đồng nghiệp Lê Công Sơn viết về đình Thông Tây Hội được xây dựng vào năm 1698 (107/1 Nguyễn Văn Lượng thuộc P.11, Q.Gò Vấp - TP.HCM); năm 1998, được xếp hạng Di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia.

Thời mới chân ướt chân ráo vào nghề báo, y đã có lần viết một bài tương tự về đình này. Còn nhớ, một ấn tượng khiến y khó quên là nơi góc đình còn có tượng thờ ông Tà, phủ vải điều. Đó là một cục đá tròn lẳn, trông như như con lợn con rất đẹp mắt. Sờ thấy bóng loáng. Lúc ấy, ngôi đình này đã xập xệ lắm rồi. Không ngờ, gần ba mươi năm sau, một đồng nghiệp thế hệ sau lại viết tiếp. Có nghĩa, mọi việc vẫn không có gì thay đổi. Nhà báo cứ viết, dòng đời cứ trôi.

Nghĩ mà buồn.

Bèn nghĩ đến chuyện vui. Rằng, ngày 12.5.2015, Bộ trường Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã báo cáo kết quả lấy ý kiến nhân dân về việc góp ý dự thảo Bộ Luật dân sự (sửa đổi), trong đó đáng chú ý là ý kiến đề xuất họ, tên và chữ đệm của công dân Việt Nam không được vượt quá 25 chữ cái. Hiện nay, “kỷ lục” người có tên dài và độc đáo nhất Việt Nam thuộc về ba người con của ông Lê Văn Bốn và bà Nguyễn Thị Tư (ngụ xã Phước Kiểng, huyện Nhà Bè, TP.HCM): Lê Hiếu Nghĩa Đệ Nhất Thương Tâm Nhàn, Lê Hiếu Nghĩa Đệ Nhất Thương Linh Phượng và con trai út Lê Hoàng Hiếu Nghĩa Đệ Nhất Thương Tâm Nhân. Nhân đây xin hỏi, từ cái tên của ông bà Lê Văn Bốn - Nguyễn Thị Tư, thử đặt câu hỏi lúc nào sử dụng "bốn", lúc nào sử dụng "tư"? Trước đây, có một người tên "Tư Bốn" rất nổi tiếng trong chuyên án chống tội phạm Nam Cam!

Đã vui, phải vui tiếp. Chẳng hạn, báo chí đưa tin ầm ầm về vụ anh Nguyễn Sự - Bí thư Hội An bất ngờ xin nghỉ hưu trước tuổi. Tết năm mọ, y có buổi trò chuyện với anh tại Hội An. Rất thú vị. Sổ tay ghi chép có nhiều chi tiết hay, chưa khai thác. Sẽ viết sau. Nay, y kể thoáng qua chuyện này: Một tập đoàn đầu tư nọ nhờ có sự can thiệp trực tiếp của anh, vượt qua nhiều trở ngại về thủ tục "hành chánh" nên đã xây dựng đúng thời hạn một khu nghỉ dưỡng. Sau đó, ban  giám đốc có đến tư gia và tặng riêng anh một số tiền rất lớn thay lời cảm ơn. Nếu anh nhận, họ chỉ mất một số tiền là 1. Tuy nhiên, anh đã không nhận, thẳng thắn từ chối và nói rằng số tiền anh cần đến là 100. Choáng chưa? Mà số tiền đó nhằm xây dựng một công trình công cộng. Cảm phục sự liêm khiết, trong sạch của anh, tập đoàn kinh tế đó đồng ý. Họ đã bỏ ra số tiền lớn hơn rất nhiều lần và tự hào đã có đóng góp cho nhân dân Hội An. Công trình này, vẫn còn sờ sờ đó.

Chính những người trong cuộc đã kể lại chuyện này. Không viết cụ thể các chi tiết khác, chưa phải lúc. Đánh giá về một con người là khó. Tuy nhiên, nếu cán bộ, quan chức nhà nước nào cũng có cách ứng xử như trên Dân đỡ khổ biết bao nhiêu. Đỡ khổ là vui.

Lại có chuyện này vui nũa nè: Cái quán ăn đối diện với Thảo Cầm Viên, đi sâu vào con hẻm nhỏ, quán lạ, nhưng tại sao y lại có cảm tình? Chỉ vỉ cái thực đơn thiết kế như trang nhã như một tờ báo. Ca dao, hò vè liên quan đến Hà Nội 36 phố phường, đã đọc, đã nghe nhiều rồi. Bây giờ mới biết thêm bài ca dao về Nam Định. In ngay trang đầu tiên của thực đơn:

Thành Nam cảnh trí an bài
Phố phường trên bộ, vạn chài dưới sông
Nhất thành là phố cửa Đông
Nhất lịch Hàng Ghế, Hàng Đồng, Hàng Thao
Hàng Giầy đẹp khách yêu đào
Muốn tìm quốc sĩ thì vào Văn Nhân
Ba năm một hội phong văn
Lại lều lại chõng về thăm Cửa Trường
Ngọt ngào lên đến Hàng Đường
Say sưa Hàng Rượu, phô trương Hàng Cầm
Hàng Tiện, Hàng Sũ, Hàng Mâm
Gặp nhau Bến Gỗ, vui sân một nhà
Hàng Cót, Hàng Sắt bao xa
Ai về Bến Ngự rẽ qua Khoái Đồng
Vải màn nhỏ chỉ, nõ bông
Hàng Cấp dệt lĩnh, Hàng Song buôn thừng
Hàng dầu, Hàng Lạc, Hàng Vừng
Hàng Nâu tươi vỏ đỏ lòng vốn quen
Hàng Vàng lắm bạc nhiều tiền
Hàng Sơn  gắn bó gần bên Hàng Quỳ
Trăm năm nghĩa bạc tình ghi
Hàng Đàn, Hàng Ghế chung nghề thủ công
Cột Cờ lên đó mà trông
Đò chè lơ lửng bến sông cắm sào
Phố Khách buôn bán vui sao
Lợi quyền chểnh mảng nỡ trao tay người
Hàng Dầu, Hàng Mã, Hàng Nồi
Hàng Trống, Hàng Thiết lên chơi Hàng Thùng
Hàng Cau, Hàng Nón tưng bừng
Thành Nam văn vật lẫy lừng là đây

Thành Nam là tên gọi thành phố Nam Định. Hai câu: “Phố Khách buôn bán vui sao/ Lợi quyền chểnh mảng nỡ trao tay người” cho thấy lúc ấy, đã sự cạnh tranh buôn bán với giới Hoa kiều. Đọc một văn bản, căn cứ vào từ ngữ, cách diễn đạt có thể suy luận thêm một vài thông tin cần thiết. Chẳng hạn, khi cái gì sắp mất đi thì người ta lại càng tiếc nuối, muốn ghi chép lại cho đời sau, mà cũng là một cách thể hiện tình cảm của riêng mình. Vì thế, đọc xong bài ca dao này, nghĩ rằng, có lẽ nó xuất hiện trước hoặc cùng lúc với Hà Nội 36 phố phường.

Cụ thể xuất hiện trong thời điểm nào?

Y nghĩ chỉ có thể vào thời người Pháp mới sang. Sự thay đổi cấu trúc chính trị, va chạm văn hóa, tâm tư tình cảm đã khiến nhiều người thở dài qua những câu vần vè gửi gắm nỗi niềm. Suy luận thế có đúng không? Trả lời câu hỏi đó, chiều nay bèn đọc lại quyển Thành Nam xưa của Vũ Ngọc Lý (Sở VHTT Nam Định) xem sao. Đọc lướt qua, mới biết còn có một dị bản khác. Dị bản này có nối thêm vài chục câu nữa, đã cho thấy suy luận trên là đúng:

Hàng Cau, Hàng Nón tưng bừng
Thành Nam văn vật lẫy lừng là đây
Lang Sa có mặt từ ngày
Đỏ đèn Bến Củi đọa đày hồng nhan
Hàng Thao tấp nập canh tàn
Tám nghề, bảy chữ mở hàng phấn son…

Thân phận, nàng Kiều đã xuất hiện. Tại Sài Gòn cũng không khác gì, vào thời điểm đó. Đọc Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca của Nguyễn Liên Phong (1909) cũng nghi nhận: “Những trang con gái các nơi/ Đem thân lưu lạc về chơi Sài Gòn/ Tiếng Tây tập nói cũng dòn/ Sửa dời nhan sắc phấn son sạch đời”. Mà “cửa hàng phấn son” thuở ấy cụ thể ra làm sa? Ông Nguyễn Liên Phong miêu tả: “Lầu xanh chỗ khách vô ra/ Treo đèn lồng hiệu trước nhà nhởn nhơ/ Giọng ngâm, giọng hát ngẩn ngơ/ Trêu hoa, trêu nguyệt phỉnh phơ ấp yêu”. Đại khái thế. Về bài Vè Thành Nam, câu kết như sau:

Non xưa nước cũ tan tành
Nào ai phá lũy, dâng thành là ai?

Câu hỏi này xin dành cho các nhà nghiên cứu lịch sử Nam Định. Nhờ đọc cái thực đơn của quán ăn nọ mà có vài suy nghĩ lan man này. Vậy hóa ra, ăn nhậu đôi lúc cũng lý thú đấy chứ? Cũng có thể lắm. Trước kia, đã có lần về miền Tây lai rai, lúc đã có chút men, tự dưng khoái ca hát văn nghệ văn gừng, anh em liền bảo ở Nam bộ có “hò sạo”. Ngạc nhiên quá, “sạo” hay “xạo”?

Bèn cầu cứu anh bạn Nguyễn Hữu Hiệp ở An Giang, anh giải thích rằng: “Hò ở đây chỉ là một sự “đẩy đưa cho vừa lòng bạn”, chuyện đối đáp đúng hay sai, có lý hay không có lý không thành vấn đề. Cái chính là phải thể hiện sự thông minh, nhanh nhạy có duyên và tạo được sự hứng thú chung. Vì thế, khi nghe ca từ của một cuộc hò đối đáp, người ta không bao giờ dựa vào sự “thổ lộ tình cảm” mà “đánh giá” các cô thôn nữ đầy nghệ sĩ tính ấy. Và, hơn ai hết, những chàng trai thông minh kia khi đã “đáp” (bắt) được lời hò “bỏ” (buông) của người đẹp, anh ta không vội nghĩ rằng mình sẽ gặp duyên nợ, hoặc được... vợ. Hò Sạo mà!”.

Vẫn còn thắc mắc, “sạo” hay “xạo”? Anh Hiệp giải thích: “Hò sạo hay hò bắt quàng là điệu hò ngẫu hứng mà “xuất khẩu thành văn”. Đặc điểm của hò sạo là cùng “trò chuyện”, kẻ “buông” người “bắt” cho vui, lấy vui là chính, cốt cho rôm rả cuộc hò:

Hát mấy câu giải sầu chư vị,
Việc hát hò có ý cầu vui!

Thành ra hò sạo đích thực là hò “đối chơi cho vui dạ”, là “có ý cầu vui” mà thôi, đúng như chính những người trong cuộc đã nói rõ trong câu hò, hát của mình. Nói cách khác, lời lẽ của đôi trai gái đối đáp nhau trong cuộc hò cũng giống như đôi đào kép diễn tuồng trên sân khấu hát cải lương. Họ tỏ ra như vợ như chồng, yêu nhau đắm đuối, có khi ôm, hôn rất thắm thiết, nhưng khi đã vãn tuồng, chuyện hoàn toàn không phải như thế. Chính vì vậy nên “hò sạo” còn được gọi là “hò môi mép” (hay hò môi, hò mép). Đã là chuyện ngoài môi thì không lấy gì làm chắc như lời lẽ của ca từ, nhưng không có nghĩa là láo, dối. Nó gần như xạo nhưng không phải xạo! (vì xạo là xạo xự, rộn ràng, không đứng đắn, bậy bạ). Mà chính xác là Sạo, bởi vẫn theo Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của, “sạo” là khua miệng, nói chuyện trò, học đi học lại cùng nhau, nói truyền ngôn, không có điều chắc chắn”.

Tâm phục khẩu phục. Sực nhớ ngày trước, lúc cả nước Kỷ niệm 300 năm Sài Gòn -TP.HCM, y và anh Nguyễn Hữu Hiệp chung tay soạn quyển Thơ Thầy Thông Chánh, Sáu Trọng, Hai Miêng (Lưu hành tại Nam Kỳ đầu thế kỷ XX). Há chẳng phải cái duyên đó sao?


L.M.Q

(nguồn: Kiến Thức Ngày Nay số  929 ngày 1.6.2016)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com