“Chúng ta không thể nào đếm hết / Những cái tên cao quý nơi này / Khắc trên đá để những ai đến đây / Chăm chú đọc những dòng tên vĩnh cửu / Không ai bị lãng quên, không gì bị quên lãng”. Đó là những câu thơ của nhà thơ Nga Olga Berggols đã trở thành thành ngữ nói về sự tưởng niệm đối với những người hy sinh trong chiến tranh Vệ quốc. Sự tưởng niệm này đã trở thành lẽ sống thường trực trong tâm trí những người lính trở về. Những cuộc gặp mặt diễn ra hàng năm, những lần trở lại chiến trường xưa, những cuộc kiếm tìm hài cốt đồng đội… như những ánh đèn pha, rọi vào quá khứ. Những người lính còn viết hồi ký, làm thơ, vẽ tranh, viết nhạc… ghi lại những tháng năm gian khổ nhưng vô cùng sáng đẹp của đời quân ngũ. Trong thời đại internet, họ làm blog, viết facebook, làm youtube… để kể chuyện chiến trận. Hàng trăm trang mạng ra đời song vẫn chưa kể hết những ký ức trận mạc.
Trong phạm vi bài này, tôi chỉ có thể viết một phần về những trang hồi ức của các cựu chiến binh sư đoàn 307 của tôi.
Những trang hồi ức của các cựu chiến binh chiến trường K đều có điểm chung là rất chân thực, rất sinh động. Đọc lên, cảm thấy các trận đánh như vừa xảy ra hôm qua. Bởi họ viết bằng chính sinh mạng của mình. Những người đồng đội viết bình luận như những nhân chứng chân chính. Họ xác nhận từng chi tiết, bổ sung cho bài viết đầy đủ hơn, tin cậy hơn. Và tất cả các cây bút, từ cấp tiểu đội đến sư đoàn đều có chung một ý nghĩa: viết không phải để trở thành nhà văn; viết để những con người, năm tháng và cuộc đời không chìm vào sự quên lãng mà luôn chói sáng giữa dòng đời cuộn trôi.
Tôi rất thích đọc hồi ức của cựu chiến binh Lê Minh Thư - một lính cối ở tiểu đoàn 7, trung đoàn 29. Anh kể chuyện lần đi cáng thương. Hai người một cáng. Hai lính gày ốm è cổ cáng một thương binh béo mập. Đang đi, bỗng rơi vào ổ phục của địch. Tiếng hỏa lực B40 cùng AK nổ đanh bên tai. Thư cùng đồng đội chưa kịp tìm chỗ nấp, bỗng thấy cáng nhẹ tênh. Thì ra, chàng thương binh to con kia đã vội nhảy xuống, biến nhanh vào rừng. Khi trận đánh dứt, mãi sau mới tìm thấy. Dưới bài viết, lính tráng thi nhau bình luận: “Thương binh nhảy là đúng. Có kinh nghiệm dính thương rồi. Hehe…”; “Mình biết, anh thương binh này. Khi về S’tung T’reng, vết thương lành. Ra dân, tán gái như khướu”.
Không những kể về các trận đánh, Thư còn ghi lại những ấn tượng khó quên trên đất bạn. Đây là đoạn anh viết về tiếng gọi gà của người Kh’mer: “R... Rú… ú ú mọ ọ ọ!... Tiếng gọi gà của dân Campuchia đó. Nghe nó cứ hay hay, đểu đểu, buồn cười. Cuối năm 1982, tôi nhận được lệnh đi học sỹ quan lục quân 3. Một mình đi qua phum Choăm Sre, đến cuối phum có một cây gỗ bắc qua dòng suối nhỏ. Đang bước trên cây gỗ bỗng nghe tiếng R… RÚ... MỌ của người dân gọi gà vang ra. Tôi giật mình trượt chân ngã xuống suối, cằm va vào cây gỗ dớm máu thành vết sẹo ở cằm. Tôi đứng dậy, mỉm cười và vẫn thấy tiếng gọi gà hay hay, đểu đểu, buồn cười của người dân Campuchia. Đó cũng là tiếng gọi gà cuối cùng tôi được nghe trên mảnh đất đầy gian khổ ác liệt cách đây trên bốn chục năm”. Một chi tiết thật và cảm động của người lính ở chiến trường, phải trải quá mới có thể cảm nhận, chứ nào phải viết từ trí tưởng tượng.
Trên Facebook “Hồi ức chiến binh F 307” có nhiều bài viết của tác giả Dương Văn Y. Anh là lính của đại đội hỏa lực. Anh kể nhiều chuyện đi tuần, đi phục, nhiều khi rơi vào bẫy địch trên con đường lên chùa Preach Vihia rất gay cấn. Rồi những chuyện lên chốt biên giới Campuchia - Thái Lan, lính tráng chiến đấu lỳ lợm ra sao. Đây là đoạn anh viết về khoảng thời gian nghỉ trên đỉnh dông 600 của trung đội thiếu: “Nửa tháng sáu, trời thấp hơn. Mưa nhiều. Đá bốc hơi. Sương trắng dày đặc bao phủ núi rừng, sáng sớm tầm nhìn chỉ vài chục thước. Chiều về, mặt trời chưa lặn, sương mù đã là đà sát đất. Trời tối liền liền. Gặp ngày mưa xem như ngày cũng như đêm, ngồi trong hang đá mù mờ, âm u, ẩm ướt. Chẳng biết làm gì cho hết thời gian, chúng tôi xách súng len lỏi theo lối mòn uốn lượn dưới chân vách đá, chắc trước đây là đường ống để đi tuần tra của địch. Ban đầu đi gần, lần sau đi xa hơn để may ra gặp con chồn, con cheo, tỉa về nấu giả cầy. Núi đá có nhiều kỳ đà sinh sống, loại này trúng vài phát đạn vẫn trơ trơ ôm chặt thân cây, có lúc phải trèo lên gở xuống. Hôm nọ đi đã khá xa, chúng tôi thấy sát đường còn phơi nguyên bộ xương. Không thấy vũ khí, áo quần gì. Chỉ còn lại cái quần đùi gói bộ xương chậu và cái mũ lính Pol Pot bị thủng…
Tác giả Phương Trần là bút danh của người lính vận tải Trung đoàn 95. Sau khi giải ngũ, anh vào đại học. Tốt nghiệp, làm thầy giáo. Song, dù kể nhiều chuyện về quê hương, tuổi thơ… Phương Trần vẫn đau đáu kỷ niệm đời lính. Đây là đoạn văn anh viết về một trận đánh của đơn vị anh bên sông Mekong, lúc Thanh làm theo lệnh của trung đội trưởng:
“- B40! Bắn!
Sau phát đạn của anh, gần như tức thì là phát B40 của địch đáp trả. Có lẽ quân địch đã giương súng sẵn sàng nên phát đạn quá nhanh và chính xác. Tôi và Thanh đã phải kéo vạt áo lên để dập lửa đang cháy trên tóc anh. Quả đạn đã xé nát hông, vắt ngược chân lên vai. Mặc cho tiểu đoàn trưởng Nho thúc, quân C 6 vẫn không lên nổi. Tôi thấy tiểu đoàn trưởng Nho chỉa súng vào đầu anh Trang:
- Trang, mày có cho lính lên không?
… Vẫn không lên được, tiểu đội đi đầu thương vong gần hết, hỏa lực quân ta rời rạc, vừa lộ hỏa điểm là đạn địch tập trung dội vào, những tràng 12 ly 7 khóa tầm quét sát mặt đường tựa như một lưỡi dao dài phạt ngang bất kỳ vật cản nào nó gặp. Có lẽ đến lúc này các vị chỉ huy mới tỉnh ra, lệnh cho quân nằm yên chờ tăng T54 lên. Bọn tôi được lệnh lui xuống để tăng khai hỏa, tôi đang lom khom chạy xuống thì nghe tiếng quát rất to lẫn trong tiếng gầm rú của xe tăng:
- Nằm xuống!
Tiếng đề pa của pháo 100 trên tăng T54 thật uy lực, rung chấn xuống mặt đường dội vào ngực. Phát đầu tiên vượt tầm vài chục mét, phát thứ hai dội ngay vào hầm tung cả xác địch và cả khẩu 12 ly 7 lên không. Thêm mấy quả pháo 100 nữa, cày nát vị trí chốt của địch…”.
Còn rất nhiều những trang viết của các cựu chiến binh khác như Nguyễn Thủy, Nguyễn Minh Toàn, Châu Ngọc Văn, Hạnh Nguyễn, Thái Hạnh, Xửng Cồ, Trần Đào Hiền Nhân, Trần Tuấn Bảo… mà dung lượng bài viết này không thể trích. Đặc biệt, tác giả Nguyễn Tuấn, lính trinh sát tiểu đoàn 8, người phụ trách Facebook “Hồi ức chiến binh F307” không những là nhà điêu khắc có tiếng, anh còn là cây viết chủ lực của trang. Những câu chuyện được anh tập hợp thành cuốn truyện có tên là Cỏ cháy vùng biên. Tự in kiểu photcopy rồi tặng đồng đội, bạn hữu trên Facebook. Anh dí dỏm kể chuyện lính ăn thịt kỳ đà ra sao; chuyện lính hút nhầm tài mà, cả đêm truy quét, nằm ngay bên địch mà có anh say thuốc cứ cười khùng khục; chuyện con hổ vấp mìn bị chết, nhưng lính ta mò vào lấy răng hổ, râu hổ lại bị vấp mìn tiếp; chuyện cả tiểu đội trinh sát ăn cá bị say đứ đừ vì cá ăn hạt mã tiền; chuyện thương binh trên chốt dài cổ chờ trực thăng xuống, nhưng “thiên thần” đến lại không dám hạ cánh…
Và, Tết này thật gợi cảm khi tôi đọc lại mẩu ký ức anh viết về Tết của cánh lính bọn tôi ngày trai trẻ ấy: “Tôi phát hiện sau nhà sàn có bụi dong giềng lớn, rủ thêm Tâm Lùn và thằng Song vác quốc đào được một bao tải dong củ rửa sạch đặt lên nồi luộc ngay. Sẵn có tệp bìa giấy đóng bao bì để chất đống trong góc nhà , chúng tôi căng lên cầm than viết thêm chữ “Chúc mừng Xuân mới 1979” đặt ngay khoang chính giữa của nhà sàn nhìn tương đối đẹp mắt. Đêm đó tât cả chúng tôi quây quần bên mẹt dong giềng, giao lưu văn nghệ giữa hai miền Nam Bắc. Rồi bao nhiêu bài hát được đưa ra. Từ nhạc vàng rồi sang nhạc đỏ, từ nhạc lính sang nhạc xanh... vừa liên hoan ca nhạc vừa thưởng thức món dong giềng luộc thật thú vị. Phía xa xa vang lên tiếng súng bắn tắc cú. Chúng tôi hiểu giây phút Giao thừa đã đến, nồi cháo gà được bắc lên có cả hành hoa, ngò tây. Một bát cháo gà đón giao thừa đầu tiên của đời lính chúng tôi. Một Giao thừa giao hòa hai miền Nam Bắc, tạo cho chúng tôi hiểu biết nhau nhiều hơn, thân tình nhau hơn và khoảng cách vùng miền được xóa bỏ. Một sự đồng cảm của những thanh niên đang chiến đấu xa quê hương, xa Tổ quốc”.
Mỗi câu chuyện như một mảnh ghép làm thành bức tranh toàn cảnh khốc liệt nhưng rất đẹp của những chiến binh tình nguyện trẻ tuổi trên chiến trường K. Mỗi người lính, từ góc độ của mình, góp những câu chuyện mà mình chứng kiến, mà mình trải qua. Những câu chuyện ánh lên vẻ đẹp nguyên chất. Vẻ đẹp của sự thật. Vẻ đẹp của sự trung thực. Vẻ đẹp của sự tin cậy giữa bạn đọc và người viết. Dẫu đôi chỗ họ còn viết sai chính tả, nhưng những trang viết của họ vẫn là vàng ròng. Bởi họ viết từ chính máu xương của họ đã đổ ra trên quê hương Tình nguyện. Họ không những góp công tiêu diệt chế độ diệt chủng mà còn giúp nhân dân xứ sở Chùa Tháp hồi sinh và phát triển.
Và, trang viết của họ như một cách để ký ức rực sáng, không lãng quên, chứ không phải nhằm trở thành nhà văn. Thế nhưng nhà văn chuyên nghiệp nếu viết về năm tháng đó chắc chắn cần tham khảo, đọc lại những gì họ đã viết…
Đ.T
(nguồn: Báo ANTG giữa tháng - số 169 tháng 2.2022)
< Lùi | Tiếp theo > |
---|