AN CHI: SÀI GÒN - THẾ GIỚI SÁCH CỦA TÔI

 

AN-CHI-SAI-GON-1-r

Nhà nghiên cứu AN CHI

Tôi sinh năm 1935 tại Sài Gòn. Cả quê nội lẫn quê ngoại của tôi đều thuộc P. 11, Q. Bình Thạnh, TPHCM hiện nay. Mẹ tôi sinh tôi tại nhà bảo sanh của một người cô họ, trong một con hẻm của đường Nguyễn Thị Minh Khai hiện nay, gần đầu đường Tôn Thất Tùng. Trong quãng đời học sinh của mình, tôi đã sống ở Gò Vấp, Sài Gòn và cả Chợ Lớn. Rồi chưa tròn hai mươi tuổi thì tôi vượt tuyến ra Bắc (1-5-1955).

Tôi rất nhớ thời học sinh vì đó là quãng thời gian thật đẹp của đời mình.

Thời trung học ở trường Chasseloup-Laubat, tôi gắn bó rất nhiều với sách và nhà sách. Tôi có thể cả quyết rằng không có nhà sách nào ở Sài Gòn mà tôi chưa đặt chân tới (thời đó nhà sách đâu có mọc lên như nấm, như bây giờ). Tôi còn có thể cả quyết rằng có nhà sách tôi biết mà nhiều người Sài Gòn không biết. Đó là Tous les livres. Tất cả những người tôi đã hỏi đều biết Albert Portail, một nhà sách danh tiếng trên đường Đồng Khởi hiện nay, nhưng, cũng trên con đường này, Tous les livres thì không ai biết đến. Nhà sách này nằm ở tầng trệt của Grand Café de la Terrasse ngày xưa, nay là cao ốc 10 tầng của khách sạn Caravelle, ngay góc Công trường Lam Sơn và Đồng Khởi.

Từ ngoài bước vào Tous les livres thì có thể dễ dàng nhìn thấy bên phải của tủ quầy, cao khoảng trên 1m, đặt ở giữa nhà, là bộ sách đồ sộ Les hommes de bonne volonté (Những người có thiện chí) 27 quyển của Jules Romains, nhiều năm không thấy ai mua. Tại đây tôi đã mua quyển Jean-Christophe của Romain Rolland. Tôi đã xin mẹ tôi 500 đồng để mua. Mẹ tôi hỏi sách gì mà mắc dữ vậy. Tôi nói là mua nhiều cuốn. Biết tôi là học sinh, cô nhân viên đã trừ cho tôi 1% nên tôi chỉ phải trả 495 đồng. Quyển này cực đắt vì là ấn bản thượng hảo hạng (édition de luxe).

Thời đó, tôi còn biết đến một nhà sách “hoạt động đột xuất”, nghĩa là trong một thời gian ngắn rồi dẹp, là tiệm sách Việt Nam, cách rạp Nguyễn Văn Hảo chừng năm, bảy căn, trên đường Trần Hưng Đạo hiện nay. Tiệm này chỉ có một cái tủ nhỏ treo tường và chỉ bày bán sách của NXB Hier et Aujourd’hui, là sách tiếng Pháp thiên về hiện thực xã hội chủ nghĩa, nói chung là thiên tả.

Chẳng phải trước khi vào học trường Tây thì tôi không mua sách, đọc sách. Nhưng sau khi vào học ở đây thì việc đó mới thực sự bắt trớn mạnh và trở nên thường xuyên, khởi đầu bằng việc chấp hành lời dặn của giáo sư chủ nhiệm lớp đầu cấp là mỗi học sinh phải góp một quyển vào tủ sách của lớp. Tôi đã góp quyển Oliver Twist của Charles Dickens, mua tại nhà sách Vĩnh Bảo, lúc đó chưa dời về Lê Lợi hiện nay mà còn ở góc đường Pasteur và Lý Tự Trọng. Tại đây, tôi còn mua nhiều quyển khác, trong đó có Việt Nam văn học sử trích yếu (2 tập) của Hạo Nhiên Nghiêm Toản.

Nhiều người tưởng rằng thời Pháp thì ở Sài Gòn, người ta không thể tìm được sách thiên tả, hoặc sách hiện thực xã hội chủ nghĩa bằng con đường công khai, nghĩa là ở những hiệu sách. Lầm to! Năm 15 tuổi, tôi đã có dịp đọc Ma vie d’enfant (Thời niên thiếu của tôi) của Maxime Gorki, không phải do cán bộ kháng chiến cung cấp, mà mua tại Albert Portail. Tôi cảm thấy một niềm sung sướng thầm kín rất khó diễn tả vì lần đầu tiên mình được đọc một tác phẩm của Nga, mà lại là Nga cách mạng nữa và bây giờ, sau 66 năm, tôi vẫn còn nhớ như in câu nói của ông ngoại với Alexis: “Tu n’es pas une médaille que je puisse porter à mon cou. Va-t’en plutôt par le monde!” (Cháu không phải là cái mề-đai ta có thể đeo [mãi] ở cổ. Tốt nhất [cháu] hãy dấn bước vào đời.)

Sau Thời niên thiếu, Gorki còn có tiếp En gagnant mon pain (Trên đường kiếm sống), rồi Mes universités (Những trường đại học của tôi). Hai quyển này, tôi cũng mua được ở Portail. Cũng tại đây, tôi đã mua được tạp chí Les Temps Modernes (Thời hiện đại), số đặc biệt về Việt Nam, tháng 8-9 năm 1953 (số 93-94). Tờ tạp chí này do Jean Paul Sartre và Simone de Beauvoir chủ trương. Số này có 3 phần lớn. Phần I là “Une guerre pourrie” (Một cuộc chiến tranh thối nát). Phần II là “Le Viet-nam libre” (Nước Việt Nam tự do) trong đó có mục “Chinh Huu, Poèmes et chansons de la résistance”, giới thiệu thơ ca kháng chiến của Chính Hữu.

Trước khi ra Bắc, cũng tại Portail, tôi đã mua được Les saisons (Các mùa) của Vera Panova, mà sau khi ra Bắc thì mới biết đó là món xét lại. Còn hai quyển La mère (Người mẹ) và Thomas Gordeiev của Gorki thì tôi mua ở nhà sách Khai trí. Cũng tại đây, và cũng của Gorki, tôi đã mua La vie de Klim Samguine (Cuộc đời của Klim Samguine) dày cộp, chưa kịp đọc thì đã đi ra Bắc. Một quyển khác của tác giả Xô-viết là La jeune garde (Đội thanh niên cận vệ) của Alexandre Fadeev thì tôi mua được ở tiệm sách Văn Đàn, đường Hồ Tùng Mậu hiện nay.

Vì cũng yêu mến các nhà văn tiến bộ của Pháp nên gặp quyển Le silence de la mer (Sự im lặng của biển) của Vercors thì tôi mua liền. Vercors là một nhà văn kháng chiến (chống phát xít Đức) và đồng sáng lập viên của NXB Minuit. Quyển này, tôi mua tại Bích Vân thư xã, trên đường Trần Hưng Đạo hiện nay. Đây là nơi tổng phát hành của NXB Minh Tân bên Pháp; ở đây tôi luôn luôn được trừ 5% vì tôi là khách hàng - học sinh, mà lại quen đến … nhẵn mặt. Tại đây, tôi đã mua, cũng do Minh Tân xuất bản: Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Đông Á trên trường chính trị quốc tế của Lê Văn Sáu, Con đường văn nghệ mới của Triều Sơn, Triết lý đã đi đến đâu của Trần Đức Thảo, v.v..

Gia đình tôi là cơ sở kháng chiến nên từ sớm, khoảng mười ba, mười bốn tuổi, tôi đã thích sách thân kháng chiến hoặc có nội dung chống Pháp. Hồi đó, tôi rất thích Cái chết của anh tiểu đội trưởngNgười vợ tù của Bùi Nam Tử, Nam Bộ chiến sử của Nguyễn Bảo Hóa và nhiều quyển khác cùng loại. Rồi sở dĩ sau đó tôi thích văn học thiên tả là do chịu ảnh hưởng của nhóm Chân trời mới mà nòng cốt là Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc. Nhóm này chủ trương xu hướng “tả chân xã hội”.

Tôi có hầu như tất cả những tác phẩm chính của nhóm này, do nhà Nam Việt xuất bản, như Văn nghệ và phê bình của Tam Ích, Nghệ thuật và nhân sinh của Tam Ích, Thiên Giang & Thê Húc, Tìm Hiểu Biện Chứng Pháp do Thê Húc & Thiên Giang dịch từ sách của Georges Politzer, Lao tù của Thiên Giang, Tia nắng (truyện ngắn dịch của nước ngoài) của Thê Húc, Chị Dung của Hợp Phố. Tôi đã tìm đọc hoặc mua được những tác phẩm chính của nước ngoài mà nhóm này giới thiệu và đề cao như Le Talon de Fer (Gót sắt) của Jack London, Les Raisins de la Colère (Những quả nho của sự phẫn nộ) của John Steinbeck, La Mère (Người mẹ) của Maxime Gorki, Tom Paine của Howard Fast.

Có lần, khi giáo sư Pháp văn ra đề luận đại ý là “Hãy thuật lạivà nhận xét về một quyển sách mà em đã đọc” thì tôi đã thuật quyển Les raisins de la colère rồi kết luận rằng giấc mơ viếng thăm nước Mỹ của tôi đã tiêu tan. Bà giáo sư đã nhận xét nguyên văn như sau: “Il ne faut pas juger catégoriquement un pays d’après un livre.” (Không nên phê phán gay gắt một đất nước qua một quyển sách).

Tôi biết đến nhiều con đường ở Sài Gòn - Chợ Lớn là nhờ việc đi tìm sách mà tôi cho là một nhu cầu về tri thức hơn là một cái thú chơi sách. Nhưng cũng có khía cạnh thuộc về… thú chơi sách. Chẳng là với những quyển sách mà tôi khoái dữ thì tôi đều đem đóng bìa da, mà còn chơi “bọc trụm” nữa, chứ không chỉ bọc gáy và bốn góc bìa. Nhớ lại mới thấy thời học sinh mình mua sách thoải mái thật vì ăn chưa no lo chưa tới, không nghĩ đến chuyện làm ra tiền có vất vả hay không hoặc vất vả như thế nào.

Thời đó, mẹ tôi phát tiền tuần cho tôi; số tiền đó đủ cho tôi ăn quà và mua sách. Tôi đã mua được tất cả những tác phẩm trong tủ sách “Cổ văn Việt Nam” của NXB Tân Việt, từ Truyện Thúy Kiều, Truyện Hoa tiên, cho đến Lục súc tranh công, Hoa điểu tranh năng, Bần nữ thán, v. v.. Tôi cũng mua được nhiều quyển trong tủ sách “Les pages immortelles” (Những trang bất hủ) thuộc Nxb Corréa, như những trang của Diderot, Descartes, Marx, v.v..

Tôi không thể kể hết tên những quyển sách tôi đã mua. Tuy tủ sách của tôi hồi đó chỉ là của một học sinh trung học nhưng nghĩ đến nó, lúc nào tôi cũng cảm thấy hãnh diện.

A.C

(nguồn: Báo Phụ Nữ  ngảy 17.6.2016)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com