Trương ca Hành trình của con kiến
00:01 | Thứ ba 26/09/2006 (GMT+7)
Hành trình của con kiến
Ở đất Sài Gòn sôi động, hối hả, dòng người và xe cộ cuồn cuộn chảy trên những con phố ngày càng trở nên nhỏ hẹp, thử hỏi có chỗ nào để mà nghe đọc thơ? Ấy vậy mà có. Vào lúc 15 giờ ngày mai 27.9, tại quán cà phê Dòng Thời Gian (104 Cao Thắng, Q.1, TP.HCM), sẽ diễn ra cuộc gặp gỡ, giao lưu giữa Lê Minh Quốc - tác giả tập thơ Hành trình của con kiến do NXB Trẻ mới phát hành - với bạn đọc yêu thơ.
http://tim.vietbao.vn/L%C3%AA_Minh_Qu%E1%BB%91c/2/
Một bước mới trong thơ và trường ca
Tập thơ "Hành trình của con kiến", tác giả Lê Minh Quốc, Nhà Xuất bản trẻ ấn hành tháng 9/2006. Cũng là thơ mới hiện đại, viết khác hẳn các bài thơ trước đây. Tuy nhiên các tập trước đây của anh tôi chưa được đọc, mà chỉ đọc một số bài . Thơ anh Quốc viết theo lối cũ( truyền thống) tôi rất thích, viết rất hay, truyền cảm,dễ say lòng...Ở tập thơ này cũng hay nhưng theo kiểu khác. Thơ ca truyền thống thường dễ tiếp nhận hơn vì dễ hiểu, có vần điệu, đọc nó khoai khoái, lâng lâng, bay bay...Còn thơ hiện đại khó hiểu lắm, hiểu được từng con chữ là cả một vấn đề trầy da tróc thịt chưa chắc đã nên công cán gì. Nhưng khốn nỗi con người ta lại khoái đi tìm cái mới, cái hiện đại, cái khác người mới yên cơ. Cũng chính đáng thôi.Đó là sự khám phá mang giá trị toàn cầu. Nếu như thơ ca truyền thống hay ở một bề nổi, phần ngọn, dễ chịu, sảng khoái hơn, thì thơ ca hiện đại hay ở một "tầng chìm dưới đáy", phần gốc, rễ, cội nguồn, bao hàm cả tính truyền thống, tuy nhiên nó nặng nề hơn nên mấy ai thích đọc. Lẽ dĩ nhiên, nó rộng sâu, tiềm tàng nội lực, quý giá. Vấn đề nan giải là ở công việc nhận thức cảm thụ thơ mới như thế nào để đạt được thành công...
Xin được đi vào chi tiết toàn bộ tập thơ "Hành Trình Của Con Kiến":
Giống như một tự truyện hoặc một tiểu thuyết viết bằng thơ, vì nó có nhân vật, thời gian và không gian, có tình tiết, mâu thuẫn, có cả nhật ký thơ. Thường thì đã gọi là thơ, thời gian bị xóa nhòa, mà ở đây, ngày tháng năm, tên tuổi rõ ràng chả giấu vào đâu...Đương nhiên trường ca là một thể loại rộng lớn của thơ, không giới hạn câu chữ, nội dung, tưởng tượng...Ở tập thơ này, nhân vật chính là tác giả Lê Minh Quốc, là người mẹ, người yêu người vợ, là những "con kiến", những kẻ đi rong, hay nói cách khác là nhừng nhà báo, cụ thể là bản thân tác giả trong cuộc sống sự nghiệp hôm nay, là những đoạn trường thử thách của con người. Anh tự vấn, anh mâu thuẫn, anh muốn thoát ra khỏi cái tôi cá nhân để đến với nhân loại. Anh tràn ngập tình yêu cuộc sống...Anh là con kiến li ti với khát vọng đi vòng quanh thế giới, vô vọng, đau thương, ước mơ thì tuyệt đích...thế giới lại muôn trùng bất tận, kiến vẫn cứ đi, dạn dày...Nghị lực của con người là vô biên...
Tác giả tự vấn tác giả về cái kiếp con kiến của mình, tự vấn về tình yêu, gia đình, lẽ sống với cái kiếp nhân sinh đầy mâu thuẫn, ước mơ, bản ngã, rất đời thường...nhưng mấy ai đã bỏ công ra tự vấn mình như thế rồi đem vào thơ, trải lòng mình ra với nhân loại ?Chỉ có hắn, một gã trai "mạnh mẽ, ngang tàng, thich bông phèng và dễ bị chìm đắm ", gã thích"đi bộ " "đút tay túi quần" hoặc "chạy mải miết"chỉ với mục đích duy hất: đến với thơ. Bởi thơ là trái tim, là nhiệt huyết của con người.Gã là nhà thơ Lê Minh Quốc đang đích thân đi tìm cái thế giới mới đi tìm giá trị sống mới, đi tìm tình yêu và hạnh phúc. Gã đang mơ...hay thực? Tôi không biết! Tập thơ như một câu chuyện về một cuộc đời kết thúc có hậu sau bao đớn đau thăng trầm, hồ nghi, bể khổ. Phải chăng tất cả điều đó là...của...chính tác giả? Tôi không biết. Vì tôi chưa hề biết tác giả bao giờ. Nhưng tôi nghĩ đó là những suy nghĩ của chính tác giả, sự kiện, li dị, chia tay cũng là của tác giả, nhưng cái kết có thể chỉ là một giấc mơ về hạnh phúc gia đình, về tình yêu đích thực. Bởi chỉ có thể thực sự có những tuyệt vọng, những cô đơn cùng cực mới có thể có những trang thơ bi ai như thế, mới thu phục lòng thương cảm nơi người đọc như thế. Đọc thơ Lê Minh Quốc, tôi xúc động về một con người...chứ không riêng gì thơ...Một trái tim lớn đang đau với niềm đau nhân loại...Anh tự vấn bản thân, đi tìm cái sâu nhất của bản thân, cái hay, cái dở, cái xấu cái tốt để vùng vẫy thoát ra khỏi bản thân mình ...Đó là cái bản thể có thật của mỗi cá nhân tửơng chưa được mỗi người mổ xẻ khơi sâu...
Chính vì nhưng lẽ trên mà tôi khi đọc Hành Trình Của Con Kiến tôi đã khóc vì còn hy vọng một cái gì đang còn ở phía trước mà mỗi người cần phải bước tới ...chiếm lĩnh cuộc sống của chính mình trong thế giới vô cùng ...cần được khám phá ...không ngừng...
Riêng về cấu trúc và ngôn ngữ trong thơ, tất cả đều rất mới...có phần hài hước. Qua lời bạt của nhà văn Trần Nhã Thụy, tôi cứ hình dung ra một lê Minh Quốc quảng đại, trào lộng, trẻ trung vui tính, dám nghĩ dám làm, nhưng khi có một mình thì đầy tâm trạng và trăn trở...Một Lê Minh Quốc hiện đại giữa Việt Nam, nổi lên trên văn đàn thi ca...
Ta hãy đi vào trang thơ đầu tiên "Trình bày":
"Tôi mê tôi hết thảy mọi người"
Chỉ mê riêng mình thôi sao, còn tất cả... bị ra dìa? Tôi cũng nghĩ thế...Nhưng nghĩ sâu thêm một tý thì ta phải hiểu "tôi" đây không phải cái TÔI cá nhân tác giả, mà là cái tôi của mỗi cá thể trong nhân loại, những cá thể ấy tạo nên những thế giới...
"Mỗi con người là một cõi bao la
Là vũ trụ trong ba ngàn thế giới"
Do vậy những cái TÔI cần phải được tôn vinh, được trọng vọng. Mỗi người cần phải biết yêu chính mình, vì chỉ có chính mình mới làm nên sáng tạo, mới tạo nên thế giới muôn màu. Ta chỉ có thể tin tưởng chính ta, chứ không thể ỷ vào người khác. Đó là lẽ sống tự thâncó hiệu quả lay chuyển...nhất . Chúng ta quan tâm ưu ái cá nhân, chính là quan tâm đến cái...toàn thể...
Ở chương 1: Nghề đi rong.Sự nghiệp của nhân vật chính:
"Cọc cạch chiếc xe đạp trật sên
gió thổi ngược chiều
mím môi trợn mắt
gồng người vượt dốc
thở hồng hộc"
Giọng thơ khôi hài làm người đọc vừa cảm thông, vừa yêu thương, vừa tủm tỉm cười, vừa muốn xẻ chia công việc với anh chàng nhà báo làm thơ...
Ở chương 2: Nhịp điệu ngày ngày:
Từ sáng thứ 2:
"Tìm lại dấu chân em
còn hằn vết trên đường đời trăm ngả" (chắc hắn đang đi bộ đút tay túi quần)
Đến sáng thứ 3:
"Hắn như một thằng điên
trước lúc tiếng gà vút cong qua ngọn sao mai" (hắn đang chạy thục mạng)
Chẳng khác gì tính cách Lê Minh Quốc!
Sáng thứ 4:
"Vậy thơ ở đâu
thơ đi chỗ khác chơi"
Hắn đi tìm thơ , thơ trốn mất rồi, người ta không thích thơ? Nên thơ sợ thơ trốn đi chơi chỗ khác?
"Cánh cửa lòng anh đã khép rồi
thao thức với những điều rất thật"
Không thấy thơ đâu, hắn buồn, hắn bơ vơ, hắn khép cánh cửa trái tim lại, nhốt mình, thao thức, hắn mơ về thơ, thơ là tình yêu, là cuộc đời, không có thứ ấy, hắn đêm ngày khắc khỏai, chờ mong...
Sáng thứ 5:
"Từng ngày đầy lên trong tôi tình em bội bạc. Từng ngày cô đơn đầy lên trong miệng, tôi thở ra thơ, tôi ngủ mớ ra thơ, thơ cũng đầy lên những nhịp điệu thất thường
Và tôi trở thành thi sĩ" (thơ viết lối văn xuôi)
Làm được thi sĩ phải trả giá như vậy đấy...Phải không em, phải không thơ, phải cô độc, đớn đau...phải trằn trọc không ngủ, phải làm thơ như điên ngay trong giấc mơ...
"Nếu một ngày bạn thiếu khí trời để thở, thiếu trầm trọng niềm vui thì đừng quên tôi"
Hắn sẵn dang tay chia sẽ những niềm đau, vì:
" Chính tình yêu sẽ mở ra sự sống". Và tự vấn: "Bạn cần gì/ Chẳng lẽ cần thơ?"
Sáng thứ 6, hắn tự hỏi: "Tôi yêu thơ thơ chẳng đẻ ra tiền?"
Tiền cũng cần mà thơ cũng cần. Mâu thuẫn...
Sáng thứ 7:
"Tuổi 18
lồng ngực còn đập nhịp hẹn hò lãng mạn
lá thư tình viết dở dang"
Hắn cứ mãi đam mê một mối tình đầu, thủa 30 năm về trước... vô vọng...
Sáng chủ nhật:
"về nhà thôi Quốc ơi
chẳng còn chỗ nào để đến"
Ngõ cụt cuộc đời...
Chương 3: Vòng Quay của kim đồng hồ
"Nghiến răng để mà quên
quên những dòng nhật ký
quên những câu thơ dự báo cuộc tình buồn"
và tự vấn:
"Trong tình yêu con người
không gì khó hơn một chồng một vợ"
và"đặt bút ký vào đơn li dị /tôi đã bắn vào sọ tôi"
và "không gì dễ dàng bằng tình chung lang chạ"
Những mâu thuẫn giằng xé giữa sự đời, ước mơ và sự thật đã làm khổ con người...
Chương 4: Hoa trái còn xanh
Ỏ chương này, là thơ viết lối nhật ký, tâm tư tình cảm từng ngày, giờ, phút giây. Từ nỗi nhớ (nhật ký 1) đến gặp lại người tình ( nhật ký 2), đến khát khao tình mẹ( nhật ký 3). Tự nguyện ước lãng quên cơn đau đời ( nhật ký 4), đến tuyệt vọng niềm vui không đến ( nhật ký 5). Rồi ký ức tình yêu(nhật ký 6) đến vẫn không em ( nhật ký 7). Từ vết thương tình yêu(nhật ký 8) đến nỗi đau nhắn tin(nhật ký 9). Nhật ký 10: giấc mơ về tình yêu. Nhật ký 11: Ai tung giấc mơ xáo trộn cuôc sống của anh, làm anh chạy trốn...
Nhật ký 12: Cơn mê tình.
Nhật ký 13; Em tôi đâu?khát vọng tình yêu đích thựcTập thở để đón chờ tình yêu
Có thể hiểu từ "em" là người con gái, hay người yêu, người vợ, hay là hạnh phúc?hay "em' là một giấc mơ trong đáy sâu mỗi con người? Em và tôi cùng có ngày sinh 24/12, ngày Chúa ra đời, tại sao tác giả lại dùng điều này trong thơ. Có lẽ tác giả muốn nhắn tới chúng ta một thông điệp: em và tôi và mẹ là những con người trong tổng thể...của giấc mơ mà nhân loại đang mổ xẻ, khám phá, dựng xây?
Chương 5: Trái tim vẫn còn tươi tốt: niềm hy vọng trong ta vẫn còn sau bao nghi ngờ, tuyệt vọng
Phần tái bút: cuộc hành trình đi tìm tình yêu, hạnh phúc, đi tìm thơ, lẽ sống , đi tìm chính mình, khám phá chính mình với khát vọng làm mới thế giới, làm mới nhân loại, đem đến hạnh phúc cho kiếp nhân sinh đã hoàn thành trong mơ... trong thơ...trong trái tim... nhà thơ đầy nổi trôi Lê Minh Quốc...
Hoàng Giao
http://yume.vn/hoangthi_giao/article/doc-hanh-trinh-cua-con-kien-cua-le-minh-quoc.35D64B46.html
Một hành trình xe đạp
Nguyễn Thuỵ Kha
Vài năm đầu thế kỷ mới, tôi vẫn in và đọc trường ca của bạn bè cùng thế hệ. Hay hoặc chưa hay thì vẫn thấy có chung một giọng điệu của thời chống Mỹ- thời tràn đầy chất anh hùng ca và trữ tình của thế hệ dâng hiến và hy sinh trọn vẹn. Vẫn chưa thấy trường ca của hôm nay, của thế kỷ mới. Thật mừng khi bây giờ đang có trong tay trường ca “Hành trình của con kiến” của Lê Minh Quốc. Đọc và thấy vui vì đây đích thị là tường ca của hôm nay, của thế kỷ mới.
Khác với các trường ca khác mình, trường ca của Lê Minh Quốc hướng về cái đời thường của con người giữa thời đại hội nhập, toàn cầu hoá. Bởi vậy, trong khúc khởi nhạc “Trình bày” của “bản giao hưởng đời thường” này, Lê Minh Quốc đã khẳng định ngay:
Tôi có đồng hương. Nhưng tình đồng hương không bằng nghĩa đồng bào
Nghĩa đồng bào cùng đập nhịp trong tình yêu nhân loại
...
Vậy trái đất? Trái đất ư? Trái đất trong tôi không phân chia biên giới
Muôn màu da chỉ một tiếng oa oa
...
Và tình yêu ư? Tình yêu ư? Chẳng bao giờ biến mất
Nhân loại yêu nhau để trái đất hoà bình...
Đọc toàn bộ trường ca, thấy Lê Minh Quốc đã chọn nhịp điệu cho bản giao hưởng này là nhịp điệu xe đạp-một chiếc xe đạp cà tàng thường trật sên (trật xích). Hãy nhập vào nhịp điệu ấy cùng tác giả:
Cọc cạch chiếc xe đạp trật sên
Gió thổi ngược chiều
mím môi trợn mắt
gồng người vựợt dốc
thở hồng hộc
hì hục
mệt nhọc
mồ hôi quánh từng giọt
Nhân vật trữ tình của trường ca là một người bình thường làm một nghề bình thường-nghề làm báo- như bao người khác để kiếm sống giữa đời thường hôm nayđầy ắp, tràn ngập những thông tin đa chiều. Thông tin nhiều đến nỗi khiến con người bị hoang mang chẳng khác gì hoang mang về sự sống và cái chết trong chiến tranh, trong lạc hâu. Sự hoang mang giữa thông tin bề bộn đã khiến cho con người bình thường như anh gồng mình chống chọi để khỏi bị biến thành “người máy” để được làm con người có những giấc mơ bình thường:
Anh lại mơ về cỏ mượt ven sông
thanh thản ngả lưng ngắm sao trời
bằng tình yêu đơn độc
bằng gió lạnh ướt môi
anh ru phù sa lắng lại
đặng tâm hồn trẻ dại
làm bạn với thơ...
phải gồng mình chống chọi để thoát khỏi:
Ngọn gió điên cuồng trong nháy mắt
lôi tuột anh xuống cơm áo gạo tiền
nhấn chìm anh về phía vũng bùn
ti tiện tranh giành lục tặc tam bành những ganh cùng ghét
sắc, hương, thanh, vị, xúc, pháp...
phải gồng mình chống chọi để:
xa lánh những bài báo bôi đen nhăng cuội
khiến tâm hồn chán nản
anh ngã quỵ như vừ trúng đạn
giữa dòng tin đen ngòm...
như roi quất vào mặt
như dao đâm qua tròng mắt
anh chết ngất
từ những dòng tin...
Cái nhịp điệu xe đap- nhịp trường ca- tự nhiên khiến cho người đọc cảm thấy một diễn tả khác lạ, một diễn tả chứa đầy hàm lượng thông tin nhưng không khô khan, vẫn ẩm ướt đâu đó một cảm xúc đang được kìm nén.
Có vẻ như nhịp điệu xe dạp ày là nhịp điệu cho con người hôm nay tìm đến chốn Phật Thiền thanh thản nhưng trong từng thời gian mặc định của Chúa từng tuần bảy ngày. Mỗi ngày, nhịp điệu lại thốt lên một tâm sự của một kiếp đời “Con kiến, cái sâu” luôn cố gồng mình sau khi “Cơn say chìm xuống đáy chai rượu” của cuộc đời:
Say quắc cần câu
Tôi ngầy ngật ngất ngư như cọng bún
vắt ngang qua ngã tư đường
Cố gồng mình để nhận ra nhân thế:
hắn vẫn biết sự giả dối có thể an ủi vết thương
sự phản trắc có thể tạo nên chất men trong suy tư triết học
sự đua đòi có thể tạo nên model thời thượng
sự thành thật có thể tạo nên thất bại
sự mù quáng có thể tạo nên đức tin
sự ngây thơ có thể tạo nên thánh thiện
sự ngoại tình có thể tạo nên hạnh phúc
Trong nhịp điệu này Lê Minh Quốc tìm ra:
bản chất của sự sống
là điên
điên không có nghĩa là mất trí
điên là mê điên
chơi như điên
ăn như điên
dục vọng như điên
tột cùng cơn điên sẽ làm nên sáng tạo
sẽ làm nên giong bão
là niềm vui hoan lạc giữa cuộc đời
Cũng chính vì gồng mình trong nhịp điệu này mà Lê Minh Quốc nhận thấy sự mong manh của thơ giữa một thời đại chật chội công nghệ, kỹ thuật lấn lươt nghệ thuật, “sống mà không cần mơ mộng”. Mong manh nhưng thơ không thể chết, thơ chỉ đổi khác hình hài và thời trang để sẵn sàng “hoà nhập nhưng không hoà tan”. Và thơ phải thật hơn, phải đúng là thơ thì mới tồn tại, dù chỉ là tòn tại mong manh vì “Đặng an uỉ những tâm hồn lương thiện - Không gì hơn âm điệu của thi ca”.
Vượt qua cả sự tự ý thức, Lê Minh Quốc nhìn rõ thân phận đời thường:
Trong sáu ngày tạo dựng ra thế giới
Tôi chỉ là con kiến nhỏ li ti
*
Con kiến đo từng ki-lô-mét
Bao giờ đo cho hết quả địa cầu?
Giọt sương sớm hữu hình trong nháy mắt
Tiếng chuông nào vọng đến ngàn sau
Với sự hướng về cái đời thường, Lê Minh Quốc nhìn lại ký ức chiến tranh của mình cũng khác những tác giả trước anh. Thanh Thảo đã thật hay khi viết về tuổi trẻ tự ý thức trong chống Mỹ:
Mười tám hai mươi sắc sảo như cỏ
dày như cỏ
yếu mềm và mãnh liệt như cỏ
...
chúng tôi đi không tiếc đời mình
(nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?
cỏ sắc và ấm quá, phải không em.
Nhưng đến Lê Minh Quốc, người lính tình nguyện ở mặt trận Căm-pu-chia tuổi mười tám, đôi mươi đã phải tìm đến sự “siêu tự ý thức” để mà tồn tại vì cuộc chiến tranh này không phải là cuộc chiến tranhđể gỡ đi “dây thép gai đâm nát trời chiềuo” như thời chống Pháp trong thơ Nguyễn Đình Thi mà là “đi về phía hoàng hôn trúng đạn”, nơi “giấc mơ ngày ngày bị bắn lén”, nơi:
đồng đội tôi chết lúc hoàng hôn cắt tiết
lúc bình minh xám xịt
lời tử biệt
máu trên môi đỏ rực một màu son...
Đó là ký ức của một “tuổi mười tám muôn trùng thơ dại” vừa đau đáu, vừa nuối tiếc vô bờ.
Sống trong đời thường là phải biết chấp nhận “từng ngày tẻ nhạt- sự tẻ nhạt cũng giống một vết thương”. Mỗi con người là thương binh trong chính đời thường của mình. Nhưng trong tẻ nhạt ấy, tình yêu đã cứu rỗi tất cả. Viết về tình yêu trong đời thường, Lê Minh Quốc cũng đắm đuối thật riêng biệt:
Ngày viếng mộ đầu xuân
tiếng cười em rúc rích núp sau lưng
hương tóc em núi đồi Thiên ấn
ngoài trời đang đổ xuống cơn mưa
tôi trốn vào đâu cũng gặp cơn mưa
em là một cơn mưa bất tận.
Thật mới, những câu thơ năm chữ viết về trái tim:
đập từng nhịp khoẻ khắn
hào hứng như cánh diều
bay giữa trời cao rộng
nếu ném nó lên cây
quả đang xanh hoá ngọt
nếu đặt nó lên môi
môi bật ra tiếng hát
nếu thả nó xuống sông
sông bỗng thành rượu ngọt
Thật Lê Minh Quốc- một con ma men, một con sâu rượu, khi viết về cơn giận của người yêu:
Cơn giận xanh như rượu vang, hồng như rượu chát, đen như rượu thuốc, trắng như rượu đế đã làm anh mê sảng tháng ngày dài...
Bằng nhịp điệu xe đạp, Lê Minh Quốc đã có một cuộc hành trình trong đời thường của kiếp người như “con kiến, cái sâu” vừa thong dong, vừa nhọc nhằn bằng một âm điệu riêng, trẻ trung cuốn hút người đọc vào một âm hưởng rất dư vang, từ truyền thống hát bài chòi của xứ Quảng quê anh. Có vẻ như âm hưởng ấy đã từng dư vang trong trường ca của người đàn anh đồng hương Thu Bồn mà Lê Minh Quốc ẩn tuổi con Hợi. Thu Bồn là tác giả trường ca tầm vóc. Lê Minh Quốc là một bắt đầu của sự nối tiếp, sự phát huy truyền thống trường ca Việt Nam còn khá non trẻ. Khi Thu Bồn viết trường ca “Căm-pu-chia hy vọng” cũng là khi Lê Minh Quốc nhập vào đoàn quân tình nguyện mà Thu Bồn từng ca ngợi:
Người tình nguyện quân khêu lửa lên và hát
anh hát cho tôi nghe về những bàn chân
Bây giờ, người tình nguyện quân ấy đã bước ra từ trường ca Thu Bồn, đã trở thành nhà thơ Lê Minh Quốc. Và anh đã hát lên bài ca của chính mình bằng nhịp điệu xe đạp trong “Hành trình của con kiến” với một giọng điệu mới mẻ./.
(nguồn: Tin Tức Cuối Tuần số 40 (5.10- 11,10.2006)
Ngôn ngữ nghệ thuật của trường ca Việt Nam hiện đại
(Tạp chí Nhà Văn – Hội Nhà văn VN – số tháng 1.2011)
Nguyễn Thị Hậu
1. Ngôn ngữ nghệ thuật – một yếu tố quan trọng của thi pháp trường ca.
Hiện nay, khi nói đến một phương diện của thi pháp học, người ta hay nói đến ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm văn học. Khi bàn đến những vấn đề thi pháp của Dostoevski, Bakhtin cũng đã dành một chương để bàn về “Ngôn từ của Dostoevski”. Có thể nói đây là một phương diện quan trọng của việc nghiên cứu tác phẩm văn học nói chung và nghiên cứu trường ca Việt Nam hiện đại nói riêng.
Việc nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật trong trường ca có thể có nhiều cách tiếp cận. ở đây chúng tôi tiếp cận từ góc độ người phát ngôn để phân loại. Người phát ngôn trong trường ca có thể là tác giả hoặc nhân vật. Tuy nhiên, với tư cách là một thể loại thiên về chất trữ tình, trường ca hiện đại nhiều khi không có nhân vật. Cho nên, ngôn ngữ thông thường của trường ca Việt Nam hiện đại là ngôn ngữ tác giả chứ ít khi có ngôn ngữ nhân vật. Như vậy, xuất phát từ góc độ người phát ngôn, trường ca có thể có các loại hình ngôn ngữ sau đây: Ngôn ngữ kể chuyện, ngôn ngữ biểu cảm, ngôn ngữ đối thoại, ngôn ngữ phản tư.
2. Các loại hình ngôn ngữ trong trường ca Việt Nam hiện đại
2.1. Ngôn ngữ kể chuyện
Ngôn ngữ kể chuyện là một đặc điểm quan trọng của trường ca, vì nó thể hiện một đặc trưng của trường ca là đặc trưng tự sự. Đây là một đặc trưng được kế thừa của sử thi, và cho dù trường ca có xu hướng thiên về chất trữ tình, thì đặc trưng tự sự cũng sẽ không bao giờ mất hẳn. Vì thế, ngôn ngữ kể chuyện vẫn đóng một vai trò rất quan trọng để dẫn dắt trường ca.
Trong một bản trường ca, ngôn ngữ kể chuyện thường được đặt ở ngôi thứ ba. Kiểu ngôn ngữ này chiếm vị trí nổi trội ở giai đoạn đầu của trường ca Việt Nam hiện đại (1935-1875). Điều này làm cho trường ca gần với truyện thơ. Chỉ có khác là truyện thơ phải có cốt truyện, còn trường ca không nhất thiết phải có cốt truyện.
Đối với một số trường ca có cốt truyện giống với truyện thơ, như Du kích sông Loan và Nguyễn Văn Trỗi, thì ngôn ngữ kể chuyện của tác phẩm thật sự giống như ngôn ngữ của tiểu thuyết văn xuôi. Nó được kể bằng một giọng văn đôi khi rất hồn nhiên, ngây thơ và trần trụi:
Nhạn đang dở làm phân,
Bỗng chạy ù ra bãi, cuống đôi chân.
(Xuân Hoàng, Du kích sông Loan)
Rồi Anh đi khuất khuất dần
Nay Quyên nhớ lại, lòng ân hận hoài
(Lê Anh Xuân, Nguyễn Văn Trỗi)
Còn ở những trường ca không có cốt truyện thì vẫn có ngôn ngữ kể chuyện. Đó là vì trường ca vẫn đòi hỏi phải có một cái sườn sự kiện. Vì thế, trường ca vẫn phải có một ngôn ngữ kể chuyện để dẫn dắt các sự kiện. Một điều cần lưu ý là ngôn ngữ kể chuyện không hề được coi là ngôn ngữ tuỳ tiện của tác giả, mà nó phụ thuộc vào đối tượng kể chuyện. Và vì trường ca được định nghĩa như là một thể loại có tầm cỡ nội dung hoành tráng cùng với những cảm xúc lớn lao, cho nên đối tượng của trường ca cũng thường là những sự kiện hào hùng nhưng cũng có thể là bi tráng.
Như vậy, đối với những bản trường ca Việt Nam hiện đại thuộc giai đoạn đầu, thì ngôn ngữ kể chuyện thường là ngôn ngữ cảm thán, với những ngôn từ gây ấn tượng mạnh đến người đọc, có chức năng truyền cảm và thuyết phục. Khi đối tượng là lá cờ đỏ của nước Việt Nam mới, Xuân Diệu đã dành những điệp từ, điệp ngữ gợi những làn sóng tình cảm tự hào và cảm xúc hào hùng trào dâng để kể về sự xuất hiện của lá cờ trong “tráng khúc” Ngọn quốc kỳ như: Gió reo, gió reo, mây bay, mây bay; gió hát, gió ca.
Gió reo, gió reo, gió Việt Nam reo;
Mây bay, mây bay, mây hồng tươi sáng,
Gió ca trên non, gió ngợi trên đèo;
Gió hát trên đồng: máu đỏ cao treo.
Đúng là ngôn ngữ kể chuyện, nhưng là kể chuyện theo cách cảm xúc chứ không phải là kể chuyện thông thường. Cái ngôn ngữ kể chuyện đó mang đậm cảm xúc lớn lao của tác giả và tác giả luôn tìm những từ ngữ gợi cảm để truyền cảm xúc của mình cho người đọc. Những từ ngữ gợi cảm đó cho chúng ta thấy ngay quan điểm và tình cảm của tác giả đối với đối tượng kể chuyện. Đó cũng chính là đặc trưng truyền cảm của trường ca, kể cả trường ca có cốt truyện lẫn trường ca không có cốt truyện. Mở đầu trường ca Nguyễn Văn Trỗi, Lê Anh Xuân đã không thể giấu giếm tình cảm của mình đối với người anh hùng của dân tộc bằng những từ ngữ cứa vào gan ruột người đọc:
Tàu đi chiều xuống não nề
Tiếng kêu trên bến tái tê lòng người.
Những từ “não nề” và “tái tê” đã được dùng theo chủ ý của tác giả ngay từ đầu. Cho nên, nhìn chung, ngôn ngữ kể chuyện của trường ca thiên về tính chủ quan. Đó là đặc điểm chung của ngôn ngữ kể chuyện của trường ca hiện đại.
Đặc biệt, kiểu ngôn ngữ kể chuyện chủ quan đó càng được bộc lộ rõ hơn trong trường ca thiên về trữ tình. Trong trường ca thiên về trữ tình không có cốt chuyện, nhưng chúng vẫn có cái sườn sự kiện. Trong những trường ca đó, cái tôi trữ tình chiếm vị trí quan trọng. Vì thế, giọng điệu kể chuyện của tác giả mang tính biểu cảm trực tiếp hơn, cái nhìn chủ quan rõ nét hơn. Nhưng đó lại chính là những suy nghĩ chủ quan chân thật của tác giả-nhà thơ:
Đất đi qua biển thì mau
Người đi qua nỗi khổ đau thì dài
(...)
Quê ta ngày hội đất
Đất đi đến đâu quê hương theo đến đấy
Quê hương đi đến đâu máu đi theo đến đấy...
(Hữu Thỉnh, Trường ca biển)
Sứ mệnh ấy là gì?
nếu trái tim hoá đá chai lỳ
sứ mệnh ấy đội nón ra đi
nếu vô cảm trước những dòng nước mắt
s
ứ mệnh ấy đội nón ra đi.
(Lê Minh Quốc, Hành trình của con kiến)
Tuy nhiên, cái ngôn ngữ kể chuyện trong trường ca không phải lúc nào cũng tuân thủ một quan điểm chủ quan như vậy, kể cả ở những trường ca có cốt truyện lẫn ở những trường ca thiên về trữ tình phi cốt truyện. Mà đó là một kiểu ngôn ngữ độc thoại đa dạng, xen lẫn nhận định chủ quan của người kể với lời thuật khách quan, làm cho trường ca trở thành một thể loại phức hợp trong nghệ thuật diễn đạt ngôn từ thơ ca.
2.2. Ngôn ngữ đối thoại
Trong sử thi và truyện thơ, đối thoại là một kiểu thể hiện phổ biến của ngôn ngữ nghệ thuật. Tính chất cốt truyện chặt chẽ đã làm cho sử thi và truyện thơ được triển khai như một câu chuyện khách quan, có hệ thống nhân vật phong phú và đa dạng, có hợp tác và xung đột giữa các nhân vật. Và một khi có hợp tác và xung đột, thì đối thoại là một trong những hình thức diễn tả sự hợp tác và xung đột đó. Tuy nhiên, chất sử thi hào hùng lại quy định người kể chuyện phải thể hiện quan điểm và tình cảm chủ quan dành cho các nhân vật và sự kiện. Đam San là một sử thi được kết cấu dựa trên các đoạn đối thoại khách quan xen lẫn những đoạn đánh giá của người kể chuyện, nhưng đối thoại giữa các nhân vật chiếm phần lớn câu chuyện.
Ở trường ca hiện đại, đối với những tác phẩm có cốt truyện được kết cấu gần giống với truyện thơ, hệ thống nhân vật được xây dựng khá chặt chẽ và vì thế đối thoại giữa các nhân vật được diễn ra theo diễn biến câu chuyện. Điển hình cho loại tác phẩm này là Du kích sông Loan và Nguyễn Văn Trỗi.
Nhưng khi cốt truyện không còn có ý nghĩa bắt buộc, thì nhân vật và đối thoại giữa các nhân vật có còn tồn tại nữa không?
ở những bản trường ca không có cốt truyện nhưng vẫn có cái sườn sự kiện và mang tính tự sự, đôi khi cũng có các đoạn đối thoại giữa các nhân vật. Đây là sự tiếp nối truyền thống của sử thi và truyện thơ, nhưng, khác với truyện thơ, đối thoại của trường ca hiện đại phi cốt truyện không nhằm mục đích triển khai và dẫn dắt câu chuyện (vì thực tế nó không có câu chuyện để mà dẫn dắt), mà là để gợi mở, bộc lộ và nhấn mạnh thái độ và tình cảm của tác giả. Chính vì thế, các nhân vật trong những trường ca đó cũng chỉ là những nhân vật ước lệ. Và đối thoại như thế, trên thực chất cũng chỉ là độc thoại. Đây là một đoạn đối thoại như thế trong Khối vuông rubíc:
“Tôi xoay những ô vuông. Đôi khi, những đồ vật đã che khuất chúng ta.
- Còn sự thành đạt ?
- Đôi khi, nó cũng là một thứ đồ vật.
- Như một chiếc áo đẹp, một căn phòng đầy đủ tiện nghi?
- Nó làm ta thấy dễ chịu.
- Thấy mình hơn những người khác
- Hơn cả những đồng đội của mình đã chết?”
Trường ca biển của Hữu Thỉnh có chương mở đầu được đặt tên là “Đối thoại biển”. Đó là cuộc đối thoại giữa người lính và biển cả khi người lính bắt đầu ra đảo làm nhiệm vụ bảo vệ vùng biển đảo của Tổ quốc. Đây là một cuộc đối thoại giữa một nhân vật người thực với một sự vật được nhân cách hoá, nó giống như một màn chào hỏi, một cuộc đón tiếp dành cho người lính mới đến vùng đảo xa để bảo vệ biên cương đất nước. Tuy nhiên, cuộc đối thoại tưởng tượng đó thực chất chỉ là một cuộc độc thoại của tác giả, như Trần Đình Sử đã nói, đó chỉ là “sự phân thân giản đơn của cái tôi trữ tình của tác giả”(1).
Có thể nói, nếu như trong truyện thơ, và một phần trong trường ca hiện đại có cốt truyện, khi đọc đối thoại chúng ta có thể đoán trước được sự việc và hành động kế tiếp của nhân vật, thì ở trường ca hiện đại phi cốt truyện, đối thoại luôn làm cho khoảng cách giữa tác phẩm với người tiếp nhận được kéo dài ra. Chúng ta không thể đoán được diễn biến sự việc qua những đoạn đối thoại mang thực chất độc thoại mở của những trường ca như Khối vuông rubíc, Trường ca biển, hay Hành trình của con kiến...
Như vậy, ta có thể coi những đoạn đối thoại trong trường ca hiện đại phi cốt truyện như là một kiểu ngôn ngữ độc thoại gián tiếp của tác giả. Đây là điều làm cho trường ca khác biệt với truyện thơ.
2.3. Ngôn ngữ biểu cảm
Trong văn học, ngôn ngữ biểu cảm là ngôn ngữ bày tỏ tình cảm và cảm xúc của tác giả hay của nhân vật. Nếu như ngôn ngữ kể chuyện là sự thể hiện của đặc trưng tự sự, thì ngôn ngữ biểu cảm là một sự thể hiện của đặc trưng trữ tình. Vì thế ở đây sở dĩ chúng tôi quan tâm đến ngôn ngữ biểu cảm của trường ca là vì trong trường ca, đặc trưng trữ tình đang có xu hướng lấn át, tình cảm và cảm xúc cũng đang có xu hướng nổi trội so với yếu tố tự sự, vì thế trong trường ca Việt Nam hiện đại, ngôn ngữ biểu cảm cũng là một hình thức diễn đạt nghệ thuật chủ chốt, ít nhất là ngang bằng với ngôn ngữ kể chuyện.
Hơn nữa, theo định nghĩa, trường ca là một tác phẩm thơ ca có nội dung hoành tráng và có cảm xúc lớn lao, thì trường ca lại càng cần đến ngôn ngữ biểu cảm để thể hiện những cảm xúc lớn lao đó. Vì thế, trong trường ca Việt Nam hiện đại, ngôn ngữ biểu cảm là một hình thức nghệ thuật quan trọng bên cạnh ngôn ngữ kể chuyện.
Trong trường ca, cảm xúc của tác giả phụ thuộc vào đối tượng miêu tả của trường ca. Khi trường ca là những tác phẩm ngợi ca đất nước, ngợi ca lãnh tụ, thì cảm xúc được thể hiện bằng ngôn ngữ biểu cảm trang nghiêm, hào hùng. Đó là những bản trường ca viết về các sự kiện trọng đại của đất nước thời kỳ cách mạng của Xuân Diệu (Ngọn quốc kỳ, Hội nghị non sông); là những bản trường ca viết về Bác của Tố Hữu, Lê Đạt, Lê Huy Quang (Theo chân Bác, Bác, Hồ Chí Minh); là những bản trường ca viết về những người anh hùng như Võ Thị Sáu, Nguyễn Văn Trỗi, Hùng, Rin (Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo, Nguyễn Văn Trỗi, Bài ca chim Chơ-rao); là những bản trường ca viết về những người mẹ Việt Nam anh hùng, về người lính và người thanh niên xung phong... Đây là những bản trường mang đậm tính sử thi-tự sự của giai đoạn trước 1975 và trong những năm đầu của giai đoạn sau 1975.
Trong những bản trường ca nói trên, khi nói về các sự kiện và con người vĩ đại của Việt Nam, các tác giả như muốn dốc hết tâm can và nhiệt huyết của mình vào các con chữ của ngôn ngữ nghệ thuật. Kho từ vựng mỹ từ của tiếng Việt đã phải được huy động đến tối đa để diễn đạt tình cảm của nhà thơ và của cả dân tộc trước những sự kiện lớn lao trong một bản trường ca ngắn như Ngọn quốc kỳ và Hội nghị non sông của Xuân Diệu: oanh liệt, huy hoàng, ánh vừng dương, ngọn sóng triều ngùn ngụt, vầng chói sáng, hùng vĩ, vinh quang, sáng muôn năm..., hân hoan, thiêng linh, bừng lên Bắc Đẩu, gầm sóng dội, triều ánh sáng, tưng bừng, chói lọi...; dấu chấm than xuất hiện với tần suất cao. Đó là cảm xúc của dân tộc, và cũng là tinh thần cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Đối với Bác Hồ, các tác giả đã dành những từ ngữ gợi lên những tình cảm thân thương sâu lắng từ đáy lòng: Muốn oà nức nở bên em nhỏ/ Nước mắt ta đành nuốt, lặng im (Tố Hữu, Theo chân Bác). Có khi nhà thơ phải mượn các hiện tượng tu từ ẩn dụ, hoán dụ để biểu cảm tấm lòng của mình đối với Bác: Đất/ Trời/ rung/ khóc Người dữ dội// Một tuần mưa.../ Một tuần mưa.../ Một tuần mưa...; Buổi sáng mất Bác Hồ/ tôi gội mưa/ dọc đê Sông Hồng/ dòng dòng nước mắt (Lê Huy Quang, Hồ Chí Minh).
Song trường ca không chỉ có những ngôn từ biểu cảm “ca ngợi”. Trong xu hướng đa dạng hoá trường ca, khi trường ca đi vào cuộc sống đời thường với những con người bình thường như “con sâu cái kiến”, thì cảm xúc lại được thể hiện bằng ngôn ngữ thông tục. Đặc biệt, qua trường ca Hành trình của con kiến, Lê Minh Quốc dường như là người đầu tiên muốn kéo trường ca từ địa hạt cao cả xuống địa hạt của cái bình thường. Ngôn từ biểu cảm của anh thực sự là ngôn từ giao tiếp hàng ngày, với những từ ngữ thuộc khẩu ngữ rất đời thường. Mở đầu trường ca này, Lê Minh Quốc đã bày tỏ tấm lòng của một người đi tìm sự thật để làm thơ bằng những ngôn từ thô ráp, rất đời thường: Mím môi trợn mắt/ Gồng người vượt dốc/ thở hồng hộc/ hì hục/ mệt nhọc/ ...; mặt đạo mạo/ đi láo nháo/ tìm sục sạo bở hơi tai /.../ lại đôn đáo/ ...
Thế rồi trong suốt bản trường ca, tác giả bộc bạch những suy tư về cuộc sống đời thường bằng ngôn ngữ đời thường. Có những lúc tác giả bộc bạch bằng những ngôn từ trang nghiêm, trau chuốt: Thơ đòi hỏi sự tinh khiết của ngôn ngữ/ Có thể là sương hồng trên cánh sen/ Hoặc giọt nước mắt nũng nịu môi em/ ..., nhưng ngay sau đó lại là những từ ngữ rất thông tục, đời thường: thập thò trước cửa/ (...)/nhùng nhằng lăn trên phố/ Chợt gặp thơ hở rốn với quần jean/ ... Và đến chương cuối cùng thì Lê Minh Quốc lại quay về với giọng biểu cảm thơ ban đầu, với lối diễn đạt ngôn từ như một bài vè dành cho trẻ con, với lối nói hình tượng, ẩn dụ, ngạn ngữ: sau những trò múa may quay cuồng trên sân khấu/ vẽ nhọ bôi hề/ thọc gậy bánh xe/ ba que xỏ lá/ đá cá lăn dưa/ xập xí xập ngầu/ xỏ xiên ba rọi/ ném đá giấu tay/ trở cờ lật lọng/ ...; õng à õng ẹo/ theo đóm ăn tàn/ xúng xa xúng xính/ ...
Lê Minh Quốc còn dùng cả những ngôn từ thô tục thậm chí cả những lời chửi đổng xen vào để biểu đạt tâm trạng, bực bội bởi cái màu đen: Tôi xoay những ô vuông. Bố khỉ cái màu đen cứ lởn vởn trong tâm trí; Nhưng nó cần quái gì! Miễn nó và bạn nó cùng ăn kẹo...; ...tôi thích: tỉnh táo, tỉnh khô, tỉnh bơ, tỉnh như sáo (Thanh Thảo, Khối vuông rubíc).
Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng lối diễn đạt, biểu cảm bằng ngôn ngữ đời thường chỉ là một bút pháp chủ ý của Lê Minh Quốc để phục vụ cho ý đồ nghệ thuật của tác giả, chứ không phải là tác giả thiếu vốn ngôn từ trong diễn đạt. Đằng sau cái bút pháp đó chúng ta thấy ẩn tàng một tâm hồn thơ thanh tao. Tâm hồn đó được thể hiện khi nhà thơ dành tình cảm và dành thơ cho “mẹ”, cho “em”:
may mà còn có em
hơn cả thế, may còn có mẹ
không gì vui hơn quay về còn có mẹ
chỉ ánh mắt bao dung, chỉ cái nhìn lặng lẽ
đã đẩy lùi mọi tai ương
ra khỏi cửa...
Những câu thơ như thế có khá nhiều trong Hành trình của con kiến, và đó là những câu thơ biểu cảm tuyệt vời của Lê Minh Quốc, đủ để làm cho nhiều người phải ghen tị với anh, một nhà thơ của cái đời thường.
Có thể nói, ngôn ngữ biểu cảm là một thế mạnh của trường ca trữ tình. Nó cũng là một hình thức biểu đạt nghệ thuật góp phần khu biệt trường ca với truyện thơ, qua đó khẳng định tư cách thể loại của trường ca Việt Nam hiện đại.
4. Ngôn ngữ phản tư
Khi cuộc sống đang còn đặt ra cho các nhà văn nhà thơ nhiều câu hỏi không dễ giải đáp, thì tác giả tự đặt ra những câu hỏi như là tự vấn, được gọi là “phản tư”. Sau 1975, khi chiến tranh đã qua đi, các nhà thơ bắt đầu có thời gian chiêm nghiệm về cuộc sống, về nhân tình thế thái. Những suy tư, bộc bạch, những câu hỏi được đặt ra trước muôn vàn vấn đề nan giải của đất nước. Những điều này đã được các tác giả đưa vào văn học nói chung và trường ca nói riêng. Và thế là xuất hiện một kiểu diễn đạt mà chúng tôi tạm gọi là ngôn ngữ phản tư, tức ngôn ngữ tự vấn, được coi là một kiểu diễn đạt phù hợp với đặc điểm suy tư triết lý trong một số trường ca hiện đại giai đoạn sau 1975.
Nói suy tư triết lý chỉ là một cách đặt tên cho một xu hướng, thực tế các nhà thơ của chúng ta không phải là những nhà triết học. Họ chỉ là những người muốn cho thấy mình có trách nhiệm với dân tộc, với Tổ quốc. Họ bộc bạch những suy tư về những vấn đề thuộc nhân tình thế thái của những người dân đất Việt.
Như chúng tôi đã nói, mầm mống suy tư triết lý đã xuất hiện ngay từ những trường ca của những năm cuối thập kỷ 1970. Và trên cơ sở đó các nhà thơ đã bắt đầu sử dụng ngôn ngữ phản tư. Nói một cách khác, ngôn ngữ phản tư là ngôn ngữ tự vấn. Trong Những người đi tới biển, sáng tác ngay sau 1975 (xuất bản năm 1977), Thanh Thảo đã đặt một câu hỏi cho mình và trong đó đã bao hàm câu trả lời, đó là câu hỏi về
Lẽ sống của con người Việt Nam. Đó cũng là đặc điểm của ngôn ngữ phản tư:
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
(Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?
Trong Đường tới thành phố, Hữu Thỉnh đã đặt ra những câu hỏi cho thơ và cho người lính:
Thơ không phải những dây bìm trang trí
Kéo nhoè đi những rễ cây tứa nhựa
Bão động rừng sao thơ chỉ rung rinh?
Trời ơi nếu kẻ thù chiếm được
Chỉ một gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằn
Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc?
Tuy nhiên, trong những bản trường ca ở giai đoạn này, giai đoạn mà chất sử thi vẫn còn hiện diện như là một sự kế thừa còn lưu lại của sử thi, thì những câu hỏi chưa mang tính day dứt như sau này. Những câu hỏi đó liên quan đến lẽ sống, đến lý tưởng sống của con người cộng đồng thời chiến tranh, nên tự chúng đã hàm ý câu trả lời. Nhưng đến giai đoạn sau, giai đoạn của trường ca thiên về trữ tình, thì những câu hỏi mới đặt ra một cách nhức nhối, nhiều khi không có câu trả lời. Đó là những câu hỏi trong trường ca Hành trình của con kiến của Lê Minh Quốc.
Trong Hành trình của con kiến, Lê Minh Quốc đã đặt ra rất nhiều câu hỏi về nghề viết, về sứ mệnh cầm bút, về thơ. Nói về sứ mạng nghề viết, nhà thơ đã có những câu hỏi rất day dứt:
nghề của anh là nghề biết viết
thế nào là biết?
thế nào là viết?
thế nào anh - anh biết viết những gì?
Đặc biệt, có lẽ Lê Minh Quốc là người duy nhất có những câu hỏi của cái tôi bơ vơ nhuốm màu hiện sinh tự vấn về mình rất nhức nhối và nghiệt ngã:
Tôi chẳng biết từ đâu tôi đã đến
Đến làm gì trong cái cõi người ta?
(...)
Tôi chẳng biết về đâu. Chẳng biết
Lửng lơ làm hạt bụi giữa không gian...
Có thể nói, Lê Minh Quốc là người khởi xướng loại thơ tự vấn. Cùng với các nhà thơ khác, ông đã đưa ra một loại ngôn ngữ phản tư, góp phần đổi mới trường ca theo chiều hướng nội tâm hoá, qua đó khẳng định tư cách thể loại độc lập của trường ca.
Tóm lại, chúng tôi muốn nói rằng ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong việc xác định đặc trưng thể loại của trường ca. Ngôn ngữ trường ca có sự vận động từ đơn giản đến phức hợp, tiến tới tương xứng với “nội dung hoành tráng và cảm xúc lớn lao” của trường ca, góp phần xác định những đặc điểm mới của trường ca, khẳng định vị thế độc lập của trường ca hiện đại với tư cách là một thể loại.
(Nguồn: HoinhavanVN)
Hành trình của con kiến và Hành trình của nhà thơ…
Hình ảnh con kiến và hình ảnh người làm thơ có mối liên hệ gì với nhau, thưa anh?
- Từ cõi mây nhìn xuống trần gian này, ta sẽ thấy dòng người ngược xuôi ngoằn ngoèo như những đàn kiến đang hành quân. Hành quân nhưng không mang theo vũ khí để tự vệ, ngoài sự lương thiện. Đó là hành trình của những thân phận phải “đổ mồ hôi sôi nước mắt” kiếm sống; là thân phận của “con ong cái kiến” trong xô bồ và hỗn độn của cuộc sống từ một ngày đến một đời. Và cứ thế, cuộc đời đi qua, không để lại một dấu vết rõ rệt. Hình ảnh ấy khiến tôi nghĩ đến hình ảnh lặng lẽ, lầm lũi của nhà thơ trên hành trình trong cõi dâu bể của thi ca. Đó là một hành trình tự nguyện và tự nhận thức về mình, với sự ám ảnh: Con kiến đo từng ki lô mét / Bao giơ đo cho hết quả địa cầu? / Giọt sương sớm hữu hình trong nháy mắt / Tiếng chuông nào vọng đến ngàn sau?
Cứ cho là như thế đi. Vậy khi anh bảo: “Chỉ riêng tôi mới cảm nhận được cô đơn thuần túy”, thì phải hiểu thế nào là “cô đơn thuần túy” của một nhà thơ?
- Khi viết “cô đơn thuần túy”, tôi muốn nói đến một điều sâu kín nhất, riêng biệt nhất của mỗi con người (chứ không riêng gì nhà thơ) mà chỉ tự họ mới cảm nhận được chứ không thể chia sẻ với ai khác, ngoại trừ chia sẻ với chính mình.
Ai cũng biết thơ đang trong thời kỳ “lạm phát”. Anh cũng tự biết thân biết phận “làm thơ không phải để cạnh tranh”. Thế thì tại sao vẫn cứ mải miết “suốt đời chạy theo thơ” để rồi tự chuốc lấy “dấu ấn của sự thất bại não nề của những giấc mơ không bao giờ đạt đến”?
- Đó là số phận. Số phận của một kẻ ngốc nghếch luôn sống trong ảo trưởng của cái cõi thơ không bờ bến. Dù ảo tưởng hay dù ý thức được sự thất bại não nề, nhưng vẫn lao vào thì đó là bản lĩnh của một kẻ “chịu chơi”. Dám chơi. Mà ý nghĩa đích thực của cuộc đời, của cái sự chơi là gì? Là chơi. Chứ không phải chuẩn bị chơi hoặc đạt được gì sau khi chơi. Làm thơ thì cũng vậy thôi. Nó không còn một sự lựa chọn nào khác.
Ngông nghênh, ồn ào, khoa trương; vừa làm thơ vừa viết sách “hàng chợ” để kiếm ăn…; để rồi ngày ngày lại “dằn vặt”, “tự vấn” và “soi gương tự tát vào mặt mình”. Lê Minh Quốc - nhà thơ là thế à?
- Trong cái sự “ngông nghênh, ồn ào” của y, ai là người nhận ra những tiếng thở dài não nuột? Trong “viết cả sách hàng chợ” của y, ai là người nhìn thấy những giọt mồ hôi thấm qua từng con chữ? Hãy thương nhà thơ. Hãy nhìn họ qua thơ họ. Qua thơ họ hãy nhìn khoảng trống giữa hai dòng chữ để hiểu họ…
Từ Trong cõi chiêm bao đến Hành trình của con kiến, tức là gần hai chục năm làm thơ, anh đã vẽ được “cái mặt mình” chưa?
- Điều may mắn là tôi chưa hài lòng với “cái mặt mình”, vì thế mới có “Hành trình của con kiến”. Còn gì buồn hơn, bi đát hơn và não nùng hơn khi anh tự hài lòng với gương mặt đang có? Với tôi vẫn là Mặt mày sao giống mặt tôi / Tìm đâu cho trọn ngày vui hẹn hò / Bây giờ trái đất buồn xo / Vẽ tôi an phận nằm co mỏi mòn (1994).
Tất nhiên, không khó, với một người làm thơ, để “hô” những câu như: “Nếu cầm bút chỉ vì mê nổi tiếng / mê quan trường vênh váo hái ra danh hái ra tiền / hái ra tình / nào ai biết sẽ có ngày sẽ hái / chính số phận của mình” hay “vì anh, mẹ thao thức / vì anh, em bạc tóc / vậy anh sợ gì bão táp / sợ gì chân trời giông tố cuồng điên / sợ gì đêm đen ngược xuôi đơn độc / chẳng sợ gì…”. Anh không sợ người ta bảo là “sáo” à?
- Một ngàn năm sau nữa, người phụ nữ có thể đẹp hơn, thông minh hơn, v.v… nhưng có một phẩm chất không thay đổi. Là gì vậy? Là sự thủy chung. Chẳng lẽ đó là “cái sự sáo” ư? Trước người tình, lắp bắp vì chân thành, tim run vì thành thật quá đỗi để thốt lên “Anh yêu em” - chẳng lẽ cũng là “sáo” ư? Mà trên đời này cũng lạ, khi một sự vật được gọi đúng với tên gọi của nó vẫn là điều khó nhất. Những câu thơ trên, được viết một cách giản dị và chân thành nhất. Mấy ai nhận ra như thế không? Tôi vẫn tin là có.
Lan Ngọc (thực hiện)
(nguồn: báo Thể thao & văn hóa 20.10.2006)
< Lùi | Tiếp theo > |
---|