VĂN XUÔI Truyện lịch sử Lê Minh Quốc - CHIẾN TƯỚNG TÔN THẤT THUYẾT

Lê Minh Quốc - CHIẾN TƯỚNG TÔN THẤT THUYẾT

Mục lục
Lê Minh Quốc - CHIẾN TƯỚNG TÔN THẤT THUYẾT
Chương hai
Chương ba
Chương bốn
Chương năm
Chương sáu
Chương bảy
Chương tám
Chương chín
Chương mười
Chương mười một
Chương mười hai
Chương mười ba
Tất cả các trang

     

ton-that-thuyet-R

Lời thưa

"Lấy lịch sử làm đề tài văn học, là cách tác giả Lê Minh Quốc làm đã lâu nay. Anh đã viết Nguyễn Thái Học; tướng quân Hoàng Hoa Thám; Nguyễn An Ninh - dấu ấn để lại và hàng trăm truyện tình danh nhân khác. Mới đây, Lê Minh Quốc lại có Chiến tướng Tôn Thất Thuyết (tủ sách Danh nhân lịch sử Việt Nam – NXB Kim Đồng 2003).

Chuyện mở ra vào một đêm mưa “sấm sét đùng đùng” và cũng kết trong một đêm mưa như thế. Ở những trang đầu và những trang cuối, câu văn “Tưởng như thác lũ xé toạc mây đen mà trút nước xuống cõi trần” được lặp lại có dụng ý nghệ thuật, tạo một đệp ngữ lưu ý bạn đọc về kết cấu đầu cuối tương ứng của truyện.

Bản thân kết cấu này đã sắp xếp toàn bộ diễn biến truyện vào một hình tượng chung, thể hiện sự bế tắc của một thời kỳ lịch sử đau thương, một đêm đen lịch sử, thời Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam mà cuốn sách dùng làm bối cảnh. Bế tắc đến mức nhân vật chính của truyện, chiến tướng thượng thư Bộ binh triều Nguyễn - Tôn Thất Thuyết, vào hồi kết chỉ còn biết “cầm gươm chém đá cho hả giận” chém tóe lửa để rồi… cây trường kiếm một thước thành con dao cùn dăm phân (tr.200). Đường gươm cùng cực ấy vừa sáng lên như là bộc phát tất yếu của bầu không khí bi hùng được nén chặt trong suốt diễn biến truyện, lại vừa cùn đi thành một biểu tượng bi hài của chính bầu không khí ấy.

Bi hài và bi hùng luôn đan xen và trải đều trong cả 13 chương của cuốn sách. Bi hài như vua Tự Đức hay thơ hơn giỏi việc nước, một ông vua “nói giữa thanh thiên bạch nhật mà các thượng quan cứ tưởng ngài đang ú ớ trong cơn mê” (tr.40); bi hài như cuộc thử lửa dành cho “Việt Nam quốc vương chi ấn”, biến con dấu quyền lực một vương triều thành “một cục đen xì” không ra vàng không ra bạc, trị giá 240 đồng Mễ Tây Cơ…

Và bi hùng như cách giữ tiết hạnh của bà mẹ anh hùng thân mẫu ông Nguyễn Cao, bố chánh Thái Nguyên (một tướng giỏi đã giải vây, cứu thoát Tôn Thất Thuyết trong trận tiễu phỉ ở biên giới phía Bắc). Bà dám “vạch áo dùng dao cắt phăng bên nhũ hoa bị lý trưởng làm nhục và ném thẳng vào mặt y” (tr.70). Noi gương mẹ, Nguyễn Cao cũng thể hiện lòng yêu nước bằng cách tự mổ bụng mình, và dõng dạc trước kẻ thù: “Ruột của tôi đây! Các người xem có đoạn nào là bất trung” (tr.191).

Chất hài, chất hùng va đập mạnh từ chương VII tới chương X kết thành cao trào cho cuốn sách. Đấy là những chương hay nhất, tiết tấu dồn dập, các phe phái đều có mặt, chủ chiến, chủ hòa, ta và Tây. Có cả những nét tính cách sắc sảo của vai trung (Tôn Thất Thuyết), vai nịnh (Tường) và một toàn cảnh chiến trận với 1.500 người chết dẫn đến việc kinh thành thất thủ. Đó là một toàn cảnh máu lửa rất cần cho một truyện lịch sử mà nhân vật chính là một võ tướng.

Lê Minh Quốc không xây dựng một nhân vật hư cấu nào trong truyện danh nhân này, dù đó là quyền của người viết truyện. Và vì vậy, xét về thể loại văn học, Chiến tướng Tôn Thất Thuyết có dáng vẻ ký sự hơn một tiểu thuyết, Lê Minh Quốc không lạm dụng quyền hư cấu để thỏa mãn trí tưởng tượng của mình. Anh không nhào nặn, tô hồn hoặc bôi đen quá khứ, chỉ cẩn trọng làm sống lại một thời xưa".

Viễn Chi

(nguồn:  Báo Phụ Nữ TP.HCM số 10.9.2003)

*Lê Minh Quốc với “Chiến tướng Tôn Thất Thuyết”

"(SGGP) Bên cạnh bộ sách Kể chuyện danh nhân Việt Nam đã ra khoảng 20 tập với trên 100 chân dung (được Bộ Giáo dục – Đào tạo chọn đưa vào danh mục sách tham khảo trong nhà trường), nhà văn Lê Minh Quốc còn đeo đuổi thực hiện một bộ tiểu thuyết lịch sử mà Chiến tướng Tôn Thất Thuyết là cuốn mới nhất (NXB Kim Đồng - 2003), sau những Nguyễn Thái Học, Nguyễn An Ninh - dấu ấn để lại, Tướng quân Hoàng Hoa Thám. Lê Minh Quốc cho biết, sở dĩ lần này anh chọn viết về Tôn Thất Thuyết bởi vì lâu nay giới sử học đánh giá rất khác nhau về vai trò của Tôn Thất Thuyết trong phong trào khởi nghĩa Cần Vương. Do đó anh muốn tái hiện Tôn Thất Thuyết một cách toàn diện theo dạng biên niên để có thể hình dung và khắc họa chân dung một chiến tướng yêu nước, vốn là linh hồn của phong trào Cần Vương. Đây là tác phẩm nằm trong Tủ sách danh nhân lịch sử Việt Nam của Nhà xuất bản Kim Đồng".

V.C.N

(nguồn: Báo Sài Gòn Giải Phóng số  28.9.2003)



Chương một

 

          Sấm sét đùng đùng rạch nát vòm trời. Trời ngả về chiều. Từ phía chân mây cuối trời, mây đen ùn ùn kéo đến. Mưa trút xuống như thác đổ, dường như sắp có lụt lớn. Tưởng như thác lũ xé toạc mây đen mà trút nước xuống cõi trần. Ngồi trong cung, thấy vua Tự Đức đi săn chưa về kịp, bà Từ Dụ rất lo lắng. Bà sai quan đại thần Nguyễn Tri Phương đi rước. Mãi đến lúc trời sụp tối thì họ mới về đến cung. Vua Tự Đức vội vã đi thẳng vào cung Diên Thọ để chịu lỗi với mẹ. Đang giận con, bà ngồi quay mặt vào màn, không nói một lời. Vua Tự Đức biết mẹ đang giận nên tự lấy cây roi mây đặt trên tràng kỷ, rồi nằm dài xuống xin chịu đòn. Giây lát sau, bà quay mặt ra, bảo con ngồi dậy rồi nghiêm khắc:

        - Mẹ đã nói với con, con vật cũng như con người, bắn chết con trống thì con mái lẻ bạn thương xót không nguôi; bắn con con thì con mẹ buồn thảm, đau khổ. vậy thì săn bắn để làm gì? Muốn tập bắn thì nên bắn bia chẳng hay hơn sao? Từ rày về sau, con không nên sát sinh thú vật nữa.

           Vua Tự Đức cúi đầu:

             - Con đã biết lỗi. Từ nay con không dám như vậy nữa!

             Vẫn chưa nguôi giận, bà nói:

           - Biết lỗi với ta có ích gì, phải biết lỗi với dân thì mới sửa mình được. Nước đang có nhiều việc rối, hoàng đế đã không lo lắng mà con vui chơi được sao?

             Tự Đức lặng lẽ lui gót với tâm hồn nặng trĩu…

           Đêm tối. Vòm trời đen kịt. Không một ngôi sao nào lấp lóe. Ngồi trước án thư, vua Tự Đức ngẫm nghĩ đến lời dạy của mẹ. Ông thả hồn theo những vần thơ mượt mà bất chợt đến trong tâm tưởng. Cây bút lông chạy dài trên trang giấy lụa bạch với những dòng chữ mềm mại… Đến lúc sắp viết một chữ ưng ý nhất sau nhiều ngày lao tâm khổ tứ suy nghĩ, nhà vua nắm chặt tay quyết định lướt một vệt dài trong sự đắc ý nhất, bỗng ngòi bút lông khô mực… Sự đột ngột đáng tiếc ấy khiến ông bực bội. Đêm vẫn rối. Thơ à? Có thể làm cho Đề đốc trung tướng Charner động lòng mà trả lại ba tỉnh miền tây Nam kỳ không? Chắc chắn là không. Dẫu biết thế, nhưng nhà vua không thể không làm thơ. Chỉ có thơ mới có thể giúp ông trút đi những nỗi phiền muộn, nhất là những lúc nhớ đến mẹ. Ngay sau khi nghe tin Gò Công mất vào tay giặc Pháp thì mẹ của ông, bà Từ Dụ, đã bỏ ăn và đêm ngày nằm khóc.

           Từ thuở nhỏ nghe mẹ kể nhiều về vùng đất này cho đến nay ông vẫn còn nhớ như in trong óc. Lúc ông ngoại thượng thư bộ Lễ Phạm Đăng Hưng sinh ra mẹ đặt tên là Phạm Thị Hằng thì vùng đất thuộc Giồng Quy Sơn ngày càng nổi cao lên như mu rùa và giếng nước đang đục ngầu bỗng trở nên trong vắt một cách dị thường. Ấy là điềm lành báo trước sau này mẹ của ông sẽ là bậc “mẫu nghi thiên hạ” chăng? Một hôm, bà cố nội là Cao hoàng hậu Trần Thị Đang - vợ Thế tổ Cao hoàng đế Gia Long, cho gọi ông ngoại của ông vào chầu và nói:

          - Ta nghe tiếng đồn tốt lành về con gái của khanh. Ta cho phép khanh dẫn vào cung cho ta xem mặt.

       Nhờ ân sủng này, mẹ của ông đã được vào cung. Năm đó, bà mới 14 xuân nhưng phong thái nghiêm nghị, đi đứng chững chạc như một người đã trưởng thành. Tại đây, bà có nhiệm vụ hầu Nguyễn Phước Miên Tông, lớn hơn bà 3 tuổi – là con trai trưởng của vua Minh Mạng. Năm tháng trôi qua, bà may mắn được chọn là người “nâng khăn sửa túi” cho Miên Tông – người kế vị vua cha lấy niên hiệu là Thiệu Trị.

         Chung sống với nhau, dù đã sinh được hai công chúa Duyên Phúc và Uyên ý, nhưng bà vẫn canh cánh một điều là chưa sinh được con trai. May mắn sao, nhờ ơn mưa móc của chồng, năm 1829 bà sinh thêm con trai Hồng Nhậm – mà nay đã nói ngôi vua cha Thiệu Trị lấy niên hiệu Tự Đức. Đơn giản chỉ có thế, nhưng các nhà chép sử nhà Nguyễn vẫn cho rằng, trước lúc sinh bà nằm mộng thấy một thần nhân áo rộng đai to, tóc bạc, lông mày trắng đem đến một tờ giấy vàng viết chữ son có đóng dấu và một chuỗi minh châu trao cho, bảo: “Xem đây để nghiệm về sau”. Bà nhận lấy rồi sau có thai, sinh ra Hồng Nhậm.

       Thật ra, lúc sinh con trai thì bà thấy cơ thể của mình mệt mỏi hơn hai lần “vượt cạn” trước. Nhìn đứa con đỏ hỏn trong tay, bà thoáng âu lo vì trông con yếu ớt quá! Đã thế, lúc gần 20 tuổi thì nó lại bị bệnh đậu mùa rất nguy kịch, tưởng không qua nổi! Nhưng được một điều đó là đứa con có hiếu, răm rắp vâng lời chỉ vì sợ mẹ buồn lòng…

       Vua Tự Đức đang ngồi tư lực suy nghĩ về những năm tháng đã qua. Ngọn đèn bừng sáng.

       Nghe tiếng chân bước phía sau, ông giật mình quay lại thì thấy mẹ. Chao ôi! Gương mặt ấy tiều tụy biết chừng nào! Nhà vua thấy tim mình đau nhói. Sống trên đời mà mang tội bất hiếu với mẹ thì sao có thể ngửng mặt mà nhìn thiên hạ?

        Ngay lúc mới sinh, thể chất yếu ớt của ông tưởng chừng không thể sống nổi! Năm 14 tuổi ông đã lập với cô Võ Thị Duyên, con gái của thượng quan Võ Xuân Cẩn. Nhưng lại không có con. Sau đó, ông còn lấy thêm rất nhiều vợ nữa, nhưng đến nay vẫn không có người nối dõi tông đường, cho dù đã chạy chữa bằng mọi giá, cầu tự ở khắp nơi. Đau đáu vì tội bất hiếu này, ông thường tư lự, buồn phiền… Đã thế, nay là người nắm quyền lực cao nhất nước lại để đất phát tích của dòng họ bên mẹ mất vào tay giặc. Quay lại nhìn mẹ, không kìm được xúc động, nhà vua òa lên khóc như trẻ thơ.

        Dù con trai đang ở ngôi vua, nhưng bà Từ Dụ vẫn không cho đó là điều may. Xưa nay, các bậc hiền giả vẫn nói trong may có họa, quả không sai. Chồng của bà có rất nhiều vợ, trong đó 31 bà có con, sinh được 29 con trai và 35 con gái. Do con trai của bà thông minh và ham học nên được vua cha Thiệu Trị ưu ái, yêu thương hơn những đứa khác. Từ năm 1847, lúc mới 19 tuổi, Hồng Nhậm lên ngôi đã khiến Hồng Bảo – con trai trưởng của Thiệu Trị với quý tần Đinh Thị Hạnh – ganh tị, ghen ghét. Hồng Bảo nghĩ mình đương nhiên phải được quyền kế vị nên tìm mọi cách để giành lại ngôi báu. Bảo họp bọn đồng mưu lại, sau khi uống máu ăn thề, cử bọn thuộc hạ trốn ra nước ngoài tìm đồng minh. Thời gian sau, bọn thuộc hạ từ Thái Lan và Campuchia trở về, chúng kéo theo một lũ lâu la. Do trên đường đi không được tiếp đãi nồng hậu nên đến nước Nam, lũ đâm thuê chém mướn này bất mãn tố cáo mọi chuyện với quan. Lập tức, tất cả đều bị bắt. Chúng bị gông cổ lại, tống vào trong cũi như những con thú dữ đưa về kinh. Bị tra tấn tàn nhẫn, những người này khai ra là còn có một chuyến tàu nước ngoài sắp đến để ủng hộ cuộc đảo chánh của Bảo. Thật vậy, vào đầu tháng 3, có một chiếc tàu được trang bị đầy đủ súng ống, không rõ thuộc quốc tịch nào, đến đậu ở bến cảng đối diện với kinh đô. Nhưng chúng không thấy có ai ra bắt liên lạc nên vội vã giong buồm ra khơi. Âm mưu bại lộ. Bảo bị xử án lăng trì, nhưng vua Tự Đức nghĩ đến tình máu mủ nên tha tội, chỉ tống giam vào ngục và ép uống thuốc độc chết. Các con của Bảo phải đổi ra họ của mẹ là họ Đinh.

        Chuyện cũ đã qua, nhưng mỗi lúc nghĩ đến bà còn thoáng rùng mình…

        Đêm vẫn tối đen.

       Tình hình trong nước đang rối ren như thế này, có lẽ con trai bà không thể đảm đương nổi công việc. Mà số phận con người nhiều khi lại gắn chặt với cái tên do cha mẹ đặt. Bà nhớ, lúc con mình mới lên mười, chồng bà một hôm vui vẻ hỏi đùa con:

     - Thế con có biết tên của con, ta đặt Hồng Nhậm nghĩa là sao không?

     Không ngờ con trai bà đáp:

     - Thưa, Hồng là nặng nề, to lớn; Nhậm là gánh vác.

     Chồng bà cười lớn:

    - Gánh gì mà nặng? Gánh củi à?

      Nghĩ lại chuyện cũ, bà Từ Dụ ứa nước mắt, thở dài:

     - Gánh việc nước mà không có người góp sức thì làm sao nên việc? Hòa ước Giáp Tuất có quá nhiều điều bất lợi cho ta. Chỉ riêng khoản 2 là nước Nam ta phải nhường đứt cho họ ba tỉnh Biên Hòa, Định Tường, Gia Định và không được đem binh khí, súng đạn đi qua ba tỉnh này là điều rất vô lý. Hạ thần Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp đã thương lượng kiểu gì mà ta còn phải bồi thường đến 4 triệu nguyên chiến phí cho chúng?

     Lắng nghe lời mẹ, nhà vua ngậm tăm. Câm như hến. Từ trước đến nay, không bao giờ ông dám cãi lại lời của mẹ. Vẫn chưa nguôi giận, bà hỏi tiếp:

    - Thế chuyện giặc giã ở xứ Bắc kỳ đã giải quyết đến đâu rồi?

      Chẳng đến đâu cả. Giặc nổi hết như rươi. Hết giặc Tam đường ở Thái Nguyên, giặc Châu chấu ở Sơn Tây… thì đến giặc Tạ Văn Phụng - mạo danh con cháu nhà Lê để lôi kéo quần chúng, lại cả gan theo giáo sĩ ra nước ngoài học đạo rồi trở về đánh phá ở Quảng Yên; loạn này chưa dẹp xong thì cai tổng Vàng dấy binh ở Bắc Ninh, v.v… đã khiến nhà vua lo lắng đến bạc đầu. Vừa lo chống đỡ giặc ở Nam kỳ, dẹp loạn ở Bắc kỳ thì ông không ngờ tại kinh thành Huế anh em Đoàn Trưng phò Đinh Đạo – con trai của Hồng Bảo lấy cớ xây Khiêm Lăng quá tốn kém, nhân dân cực khổ nên đã khởi binh khiến ông phải sợ hãi đến xanh máu mặt! Nếu Chưởng vệ Hồ Oai không kịp đóng cửa điện lại thì có lẽ bây giờ ngài đã nằm sâu dưới ba thước đất!

       Bà Từ Dụ nhìn thẳng vào mặt con trai:

        - Nhưng bây giờ đáng sợ nhất vẫn là bọn giặc Khách đang quấy nhiễu khắp nơi. Dân đen sống làm sao nổi?

           Điều này nhà vua cũng đã nghĩ đến biện pháp đối phó.

         Năm 1868, sau khi Hồng Tú Toàn cầm đầu Thái bình thiên quốc bị nhà Thanh bắt giết thì dư đảng là bọn Ngô Côn kéo tàn quân chạy sang tràn nước ta, chúng chiếm giữ tỉnh thành Cao Bằng khống chế một cõi! Trước tình thế nghiêm trọng này, ông đã phái võ tướng Ông Ích Khiêm lên đánh. Những trận đánh dữ dội bất phân thắng bại đã diễn ra nhiều ngày. Cuối cùng, danh tướng họ Ông – người Quảng Nam, đã lập kế tài tình giết Ngô Côn. Những tưởng như thế đã yên, nào ngờ đồ đảng của Cờ vàng Hoàng Sùng Anh, Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc, Cờ trắng Bàn Văn Nhị, Lương Văn Lợi vẫn tiếp tục làm loạn ở các vùng biên giới Bắc kỳ.

        Nhìn mẹ trầm ngâm như thế, vua Tự Đức cúi đầu:

         - Thưa, con sẽ phái Thống đốc quân vụ Hoàng Kế Viêm cùng với tán tương Tôn Thất Thuyết chịu trách nhiệm giải quyết dứt điểm tai họa này.

          Bà Từ Dụ ngạc nhiên:

     - Có cả Thuyết nữa à?

         - Dạ!

         Dường như chưa yên tâm với kế hoạch mà con mình và các đại quan trong triều đã bàn luận, bà lại hỏi:

      - Thế con nghĩ gì về Thuyết?

          Nhà vua chậm rãi:

         - Đó là một người ít học, tính tình nóng nảy hay nói càn.

       Bà mẹ ngắt lời:

       - Có phải con còn muốn nói đó là người kiêu căng, hẹp hòi hay ngờ vực kẻ khác?

       Nhà vua nhíu mày:

       - Dạ, con cũng từng nghĩ thế.

        Bà Từ Dụ hỏi gặng:

    - Tại sao con lại nghĩ thế?

       Nhà vua nói khẽ:

          - Con từng nghe nhiều người kể về chuyện Thuyết đã nhiều lần giết người không gớm tay!

       Có thật không? Bà Từ Dụ không tin như thế, dù chuyện đồn đại về Thuyết bà cũng đã từng nghe kể lại. Nhưng biết đâu người ta thêu dệt thêm nhiều tình tiết cho thêm phần ly kỳ? Chuyện kể rằng, một hôm Tôn Thất Thuyết đi ra phố chơi chợt thấy một đứa trẻ ranh gân cổ lên chửi mẹ của nó. Ông giận lắm, nhưng không nói gì. Ông chỉ lẳng lặng đi theo thằng bé này về nhà, lúc nó ngồi vào mâm ăn cơm ông quan sát thấy nó biết so đũa, có nghĩa là đã khôn ngoan chứ không còn nhỏ dại gì. Thế mà dám chửi mẹ thì quả là con bất hiếu! Suy nghĩ như thế, ông sai lính mang thằng bé ra chém, bất chấp những lời van xin của mẹ nó! Lại có chuyện, một hôm ông Thuyết đang ngồi uống rượu tại tư dinh, trong cơn say ngất ngưởng, ông nhìn ra ngõ thấy một kẻ nghênh ngang phóng ngựa qua như chốn không người. Ông giận lắm, sai lính ra đuổi bắt. Trói quặt tay kẻ hỗn xược này lại, ông bảo:

       - Đi ngang nhà của ta mà không xuống ngựa ư?

    Kẻ này cứng cỏi:

     - Xưa nay tôi chỉ từng nghe đi ngang qua Văn Miếu hoặc những nơi tôn nghiêm thì mới nghiêng võng hạ mã thôi chứ!

       Ông tức giận:

     - Láo! Ngươi đã nói thế thì không còn coi ta ra gì nữa!

        Nói xong, ông sai lính chém.

       Vừa nghe con kể xong, bà Từ Dụ xua tay:

- Ta không tin Thuyết là người như thế. Chuyện này, trước kia khi còn nhỏ, ta từng nghe nói ở phương nam Tả quân Lê Văn Duyệt cũng từng có những hành động tàn ác như thế! Ôi, miệng lưỡi người đời biết đâu mà lường!

       Thấy thái độ của mẹ, nhà vua chống chế:

       - Nhưng Thuyết là tướng có uy vũ, trong những tình huống khó khăn thì có thể xử lý một cách linh hoạt, tài trí.

           Bà mẹ đăm chiêu:

        - Đánh giá về một con người không dễ, chỉ sau khi nắp hòm đậy con người ấy lại thì mới có thể đánh giá được. Nhưng theo mẹ, trong trường hợp này Thuyết có thể không phụ lòng của vua tôi.

        Vua Tự Đức gật gù, đồng ý với lời nói của mẹ.

         Đang suy nghĩ mông lung như thế, chợt nghe có tiếng gà gáy rất mỏng từ xa vọng đến, vua Tự Đức giật mình. Nhìn từng giọt đồng đang thánh thót, ông biết đã sang canh ba. Đêm đã khuya. Hương ngọc lan thơm dìu dịu trong gió. Đĩa dầu đang cạn dần…

         ****

          Trưa yên tĩnh. Trong dinh thự nằm bên dòng sông Như Ý, làng Văn Thê, xã Thanh Thủy, huyện Hương Thủy – cách kinh đô Huế chừng bảy cây số về phía nam, có tiếng gà gáy vút lên đã gợi một âm vang thơ thới lạ lùng. Bước ra sân nhìn hàng cau thẳng vút, Tôn Thất Thuyết cảm thấy có hương cau thoảng trong gió - một mùi hương dịu dàng mà chỉ ở Huế ông mới cảm nhận được hết sự tinh khiết của nó. Hơn nữa, từ ngày ông khôn lớn thì đã thấy hàng cau này trong dinh thự của dòng tộc Tôn Thất, nó ít nhiều gắn bó với kỷ niệm tuổi thơ của ông. Do xuất thân trong hoàng tộc, thuộc một chi của dòng họ Nguyễn đang cầm quyền nên bước đường hoạn lộ của ông Thuyết thuận lợi hơn nhiều người khác. Không chỉ là cháu bảy đời của chúa Hiền mà ông còn là con trai của Đề đốc Tôn Thất Đính và bà Văn Thị Thu, có tiếng tăm lừng lẫy trong vùng.

        Ông Thuyết sinh ngày 12.5.1839 (tức ngày 29.3 năm Kỷ  Hợi) tại làng Phú Mộng, xã Xuân Long (Huế), nhỏ hơn vua Tự Đức đúng 10 tuổi. Vóng dáng của ông to cao, vạm vỡ, khuôn mặt đầy đặn, da ngăm đen, ít nói nhưng đã nói thì như cóc cắn. Từ năm 1869, ông là quan văn được cử làm án sát tỉnh Hải Dương và qua năm sau ông chuyển sang quan võ cùng Thống đốc quân vụ Hoàng Tá Viêm lo việc tiễu phỉ ở vùng biên giới phía bắc. Trong những ngày xông pha chiến trận, ông đã chứng tỏ mình là vị tướng giỏi cầm quân nên được thăng chức rất nhanh. Đang là tán tương quân vụ Sơn Tây, ông được cử làm tán lý quân thứ Thái Nguyên, rồi bố chánh Hải Dương. Và bây giờ, ông được lệnh trở về triều để nhận nhiệm vụ mới. Chính vua Tự Đức đã trực tiếp giao cho ông làm tham tán quân vụ phối hợp với Thống đốc quân vụ Hoàng Kế Viêm để tiễu phỉ vùng biên giới phía bắc. Ngày mai đã phải dấn thân nơi gió tanh mưa máu, nhưng trong lòng ông Thuyết vẫn bình thản như không. Trong lúc ngước nhìn hàng cau thẳng tắp trong dinh thự, ông nghe tiếng tiểu đồng gọi khẽ:

           - Bẩm quan lớn, mời ngài vào dùng cơm.

           Ông lững thững đi vào. Nhìn thấy vợ đứng bên sập gụ, chờ ông sai bảo trong lúc đang dùng cơm. Ông thoáng chạnh lòng. Người vợ thủy chung này là do cha mẹ cưới lúc còn trẻ nên hiểu tâm tính của ông hơn ai hết. Bà sinh ra trong gia đình khoa cử, lại dịu hiền và có nét đẹp khả ái, biết chiều chồng, là người sinh cho ông được ba con trai Tôn Thất Đàm, Tôn Thất Thiệp, Tôn Thất Trọng và một gái là Tôn Nữ Thị Ẩn. Nhìn chồng ăn ngon miệng, bà rụt rè:

          - Ngày mai ông đi xa, tôi không thể không lo…

       Không để vợ nói hết câu, ông quắc mắt:

         - Sao lại nói như thế?

         - Thưa, trên dặm đường xa, lấy ai nâng khăn sửa túi cho ông…

         Ông gằn giọng:

     - Thế thì đã sao?

       Trong lồng ngực của bà trái tim đập thình thịch vì chỉ sợ chồng nổi giận, vừa quạt cho chồng, bà vừa nhỏ nhẹ:

          - Thương ông nên tôi mới âu lo. Xin ông đừng trách. Cả tuần nay, tôi đã bàn với ôn mệ (*)*****Bố mẹ (tiếng Huế).****** cưới cho ông thêm bà thứ thất để chăm sóc cho ông nơi biên giới. Dù sao lúc tối lửa tắt đèn có nhau vẫn hơn…

       Ông hỏi lại:

     - Người đó tính nết như thế nào?

       Bà đáp:

        - Thưa, cô này người Thanh Hóa, sinh trong gia đình khá giả có nề nếp.

        Nghe lời dịu ngọt như mật rót vào tai, ông Thuyết vẫn không nói gì. Giây lát sau, ông hỏi:

        - Sao bây giờ bà mới nói cho tôi biết?

       Bà vợ nhoẻn cười hiền lành:

          - Có lúc nào được gặp riêng ông mà tôi tâm tình chuyện này đâu?

         Thật vậy, từ ngày ở biên giới phía bắc quay trở về kinh đô, có lúc nào ông ở nhà được lâu đâu. Biết bao công việc dồn dập đưa đến. Chỉ đêm qua, ông mới về nghỉ tại nhà thì đã khuya nên bà cũng không tiện nói ra mọi ý định mà bà với cha mẹ chồng đã bàn định trước. Nghe vợ nói thế, ông Thuyết buông đũa đứng dậy, không nói gì thêm. Bà thấp thỏm mừng, vì biết chồng mình đã bằng lòng. Thương chồng thì phải tính toán như thế chứ sao? Năm nay, ông Thuyết đã ngoài 34 xuân. Sức lực thời trai tráng đã qua, ngày sau ai biết như thế nào?

             Dùng cơm xong, ông Thuyết lại bước ra sân để phóng tầm mắt nhìn về dòng sông Như Ý. Trong óc của ông không hề gợn lên hình bóng của người phụ nữ sẽ đi theo ông nay mai. Ông đang suy nghĩ về trách nhiệm mà nhà vua đã giao phó cho ông. Sau khi gây hấn ở Nam kỳ thì chắc chắn, bọn Tây dương mắt xanh mũi lõ nay mai sẽ kéo quân ra Bắc kỳ thôi. Ông thở dài…

        Năm ngoái, mùa hè năm 1872, phó Đề đốc Dupré ngay sau khi được thăng Thống đốc đã cử trung tá Senez ngang nhiên đưa tàu Bourayne đến vịnh Hạ Long để thám sát tình hình. Trong khi triều đình ta bất lực, chưa có biện pháp ngăn cản thì chúng đã bị bọn cướp biển chận đánh. Nhận được tin này, nhiều người hả hê lắm, tất nhiên trong số này có cả ông Thuyết. Nhưng cuối cùng, vào tháng 10.1872 thì tàu của Senez cũng neo đậu được tại Cửa Cấm. Sau khi nghiên cứu vùng ven biển và các tỉnh Hải Dương, Bắc Ninh, Quảng Yên, Senez đệ trình một kế hoạch đánh chiếm bằng quân sự.

         Tình hình trở nên nguy cấp hơn khi trong thời gian này, tên lái buôn Jean Dupuis và Millot được một người Tàu là Lý Ngọc Trí dẫn đường để tung hoành khắp vùng biển phía bắc. Jean Dupuis ngang ngược, vì hắn từng là lính đánh nhà Thanh và su khi giải ngũ hắn không về nước mà làm tên lái súng. Hắn cung cấp vũ khí cho thực dân phương Tây xâm chiếm Trung quốc và cho cả triều đình Mãn Thanh. Lần này từ Hồng Kông, hắn chỉ huy ba chiếc thuyền chở 7.000 khẩu súng trường, 30 súng đại bác và 15 tấn đạn vào cảng Hải Phòng để đưa lên Vân Nam. Ngay lập tức, quan Khâm sai Lê Tuấn ngăn chặn lại. Không một chút nao núng, Jean Dupuis liền tìm gặp trung tá Senez để bàn biện pháp đối phó. Chúng cho mời Khâm sai Lê Tuấn xuống tàu Bourayne cùng tìm cách tháo gỡ. Để áp đảo tinh thần của phái đoàn ta, khi các thượng quan vừa xuống tàu thì chúng bắn cấp tập những phát súng vọt lên trời xanh. những tiếng nổ đanh tai nhức óc chào đón thượng khách!

         Trong bữa cơm thân mật, Senez nói:

        - Thưa ngài, phía nước Nam nên cho chúng tôi tự do đi lại trên sông Hồng Hà, vì làm việc này sẽ có lợi cho đôi bên.

       Ông Tuấn nhíu mắt:

        - Lợi như thế nào về phía chúng tôi?

     Senez không ngửng mặt lên, vừa dùng dao cắt miếng bít tết vừa đáp:

    - Thứ nhất, chúng tôi sẽ dùng quân dẹp loạn đang nổi lên như rươi ở Bắc kỳ. Nhờ vậy, các ngài không hao quân tốn của. Thứ hai, khi tàu bè qua lại trên sông này, các ngài được quyền thu thuế để làm giàu thêm cho ngân khố.

     Nghe ra cũng có lý, nhưng ông Tuấn vẫn dè dặt:

          - Việc trọng đại này bản thân tôi không dám tự quyết định, phải xin ý kiến của hoàng thượng chúng tôi. Các ngài vui lòng chờ.

         Bất chấp thái độ mềm dẻo của quan Khâm sai. Jean Dupuis giở giọng trịch thượng:

          - Chờ đến bao giờ? Chúng tôi chỉ chờ trong vòng 15 ngày. Sau đó, dù có đồng ý hay không chúng tôi vẫn cứ tiến hành mọi việc theo kế hoạch đã định trước!

         Ông Tuấn giận đến run người.

         Mười lăm ngày sau, không thấy có tin tức gì, Jean Dupuis vẫn cho tàu vào đóng tại Hà Nội. Nhưng quân ta không dám đụng đến, vì chưa có lệnh của triều đình, phải nhờ đến giám mục Puginier ở Kẻ Sở đến khuyên can hắn phải tuân thủ theo phép nước! không rõ vị giám mục này nhỏ to thế nào mà cuối năm 1872, hắn ngang nhiên chở hàng lên Vân Nam và bốn tháng sau quay về an toàn!

        Trở về Hà Nội, Jean Dupuis đóng quân tại phố Mới và vẫn giữ thái độ khiêu khích, ngang ngược. Có một lần thấy vị quan của ta đi võng, hắn sai người ra bắt trói lại, đánh đập; chúng đốt võng, lấy lọng đi diễu quanh phố, ai nấy cũng đều kinh ngạc. Quả là một chuyện chưa từng xảy ra trên vùng đất ngàn năm văn vật! Nhưng quân ta vẫn án binh bất động, vì mật lệnh của nhà vua lúc này vẫn chủ trương giữ thái độ ôn hòa “không được khiêu khích sinh sự”. Jean Dupuis không xem ai ra gì cả. Sau khi cử Millot vào Sài Gòn báo cáo tình hình Bắc kỳ, hắn nghĩ đến một lợi nhuận khác… Dù biết luật pháp nước ta ngăn cấm việc buôn muối, gạo sang Trung Quốc, nhưng hắn sai bọn Hoa kiều là Bành Lợi Ký, Quan Tá Đình cứ đi thu mua để chuẩn bị chở lên Vân Nam. Tất nhiên, Ký và Đình bị quân ta bắt giữ. Dường như chỉ chờ có thế, Jean Dupuis sai lính đi bắt quan phòng chánh Hà Nội, quan huyện Thọ Xương đưa xuống tàu giam lại!

          Những chuyện rắc rối này được báo về triều đình. Vua Tự Đức giao cho Khâm mạng Nguyễn Tri Phương phải trực tiếp thu xếp cho yên việc này. Dù đã ngoài 70 xuân, nhưng ngài vẫn còn quắc thước, tráng kiện khi nói chuyện ngài thường nhìn thẳng vào mắt kẻ khác khiến ai có tà khí phải khiếp sợ. Còn tên lái buôn này vừa tròn 40 tuổi, nhưng người bé quắt lại, hai con mắt láo liên không dám nhìn vào mắt ngài trong lúc đàm phán. Hơn nữa, quan Khâm mạng là vị tướng lừng lẫy đã từng cầm quân chống giữ đồn Chí Hòa, ngay cả trung hướng Charner dù thắng trận nhưng cũng phải khâm phục tài cầm quân của ngài. Biết được điều này ít nhiều Jean Dupuis cũng kiêng dè. Nhưng rồi, nghĩ mình đã được hậu thuẫn từ nhiều phía, hắn không thoái bộ. Trước sau, hắn vẫn ương ngạnh:

       - Nước các ngài chỉ là chư hầu của nước Trung Hoa. Tổng đốc Vân Nam đã cấp giấy phép cho chúng tôi thì các ngài phải tuân theo! Tại sao lại còn dám ngăn cản lôi thôi thế?

          Danh tướng Nguyễn Tri Phương nói như dao chém đá:

         - Lý luận nông nổi đó chỉ có thể phun ra từ miệng một đứa trẻ con! Tổng đốc Vân Nam không đủ thẩm quyền ra lệnh cho nhà cầm quyền nước Nam. Hơn nữa việc người Pháp đi lại trên sông Hồng Hà không hề ghi trong hòa ước 1862!

     Hắn cười khẩy:

          - Chuyện đó tôi không biết!

       Vẫn giữ nét mặt điềm đạm, ngài nói tiếp:

       - Không biết thì nay ta nói cho biết. Còn chuyện buôn muối, gạo lên Vân Nam thì kỷ cương phép nước của ta không cho phép! Hãy nhớ lấy những điều đó!

         Jean Dupuis đuối lý nhưng vẫn cố vớt vát hăm he:

   - Thôi thì, sau này nếu chuyện gì không hay xảy ra đâu phải lỗi tại tôi!

     Thái độ ương ngạnh này hoàn toàn nằm trong ý đồ của nhà cầm quyền Pháp.

       Ngay sau khi nghe Millot theo lệnh của Jean Dupuis vào Sài Gòn báo cáo lại tình hình, Thống đốc Nam kỳ là thiếu tướng Dupre như mở cờ trong bụng. Millot xoen xoét:

    - Ông Jean Dupuis đã làm chủ xứ Bắc Kỳ. Trừ các toán quân An Nam phái đến từ  Huế, tất cả dân chúng Bắc Kỳ đều ngả về phía ông và sẽ nổi lên đánh đổ triều Nguyễn và dựng lên một hậu duệ nhà Lê đang ẩn náu trong núi. Như vậy, xứ Bắc Kỳ sẽ được đặt dưới sự bảo hộ của người Pháp!

           Dupre không ngây ngô tin hoàn toàn vào những lời ấy, nhưng dù sao, y cũng nghĩ thầm: “Bắc Kỳ là nơi tiếp giáp với những tỉnh tây nam nước Trung Hoa, ta phải chiếm lấy cho bằng được thì sự cai trị của ta ở Viễn Đông mới chắc chắn!”. Gật gù lắng nghe báo cáo xong, Dupre viết lá thư gửi về Paris xin ý kiến của chính phủ Pháp. Trong lúc hạ bút, y có cảm tưởng như những dòng chữ của mình đang như reo, như múa trên trang giấy trắng: “Việc Jean Dupuis gây rối ở Bắc Kỳ đã thành công rồi. Cần phải lấy xứ Bắc Kỳ và giữ lấy con đường thông sang Trung Quốc. Mọi việc ở đây, chúng tôi tự lo liệu được, không cần chính phủ phải viện binh. Nếu tình hình xấu đi, không diễn ra theo kế hoạch thì tôi xin chịu trách nhiệm”. Lá thư vừa gửi đi thì triều đình Huế cũng cử phái đoàn gồm các thượng quan Lê Tuấn, Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Tăng Doãn vào Sài Gòn vừa thương nghị việc chuộc ba tỉnh miền tây Nam Kỳ, vừa để giải quyết dứt điểm vụ ngang ngược của Jean Dupuis.

        Đối với Dupre đây là một dịp may hiếm có. Y viết thư sang Thượng Hải gọi đại úy Francis Garnier đang đi thăm dò ngọn nguồn các con sông lớn ở Đông Dương phải về Sài Gòn gấp.

     Trong lúc Francis Garnier trên đường về nhận lệnh thì ông Thuyết cũng đang chuẩn bị ra bắc.

       Trưa yên ắng. Bóng nắng chói chang. Những tiếng chim ríu rít. Ông Thuyết khoan thai nước vào trong nhà, ông đang nghĩ đến chuyến đi ngày mai. Ông nghĩ, được cầm quân dưới quyền của Thống đốc quân vụ Hoàng Kế Viêm cũng là một điều hay. Khi ông Viêm nhận nhiệm vụ chỉ huy các mặt trận Lạng Sơn, Cao Bằng, Hải Ninh và Thái Nguyên thì chính vua Tự Đức đã ban cho năm lá cờ lệnh và một thanh thượng phương kiếm. Nhà vua rót ly rượu ngự đưa cho ông Viêm và bảo:

   - Ta ban gươm cho khanh cũng như Thái Tổ nhà Tống ban cho Tào Bân vậy. Từ phó tướng trở xuống, ai bất tuân mệnh lệnh thì ngươi được quyền chém ngay!

        Nghĩ đến điều này, ông Thuyết thoáng rùng mình…


    Chương Hai

    Tiếng gió gào trong đêm khuya vắng lạnh lẽo, cứ tưởng như có cả lời ma than quỷ khóc nơi vùng biên giới xa xôi này. Những vòm cây cổ thụ quằn quại trong gió vọng lên những tiếng kêu rợn người. Đốm lửa bé xíu như hạt đậu, tỏa ra thứ ánh sáng lờ mờ trên những chòi canh. Sương rơi lộp độp. Gió thốc lạnh buốt. Rít lấy một hơi thuốc lào, Thống đốc quân vụ Hoàng Kế Viêm chưa nhả khói vội, ông ém một ngụm nước trà thật ngon rồi ngả lưng lim rim mắt. Khói tỏa nhẹ trong một làn sương mỏng… Đợi cho ông Viêm tận hưởng hết thú vui này, Tán tương quân vụ Tôn Thất Thuyết mới lên tiếng:

        - Thưa đại nhân, điều mà tôi lấy làm phân vân là tại sao tên Đồ Phổ Nghĩa ngược thuyền lên Vân Nam nhưng chúng không bị quân Cờ đen, Cờ vàng quấy nhiễu?

     Ông Viêm mở mắt và bật người dậy:

     - Ông vừa nhắc đến tên Jean Dupuis đấy à?

     - Vâng!

        Át cả tiếng gió đang lùa vào cửa, giọng ông Viêm sang sảng:

     - Đó là thằng chó chết. Triều đình cứ nói như rồng leo mà làm như mèo mửa, cho nên hắn mới xấc được như thế. Phải tay tôi thì phải mổ gan róc thịt mới hả giận.

         - Tôi cũng từng nghĩ như thế. Nhưng có điều tại sao bọn giặc khách lại khiếp sợ hắn?

       Ông Viêm nói như đinh đóng cột:

      - Có thể hắn đã tung tiền ra để mua chuộc bọn này. Đám giặc cỏ ấy ban đầu nổi loạn vì muốn lật đổ Thanh triều, muốn đánh cả bọn mắt xanh mũi lõ nhưng bây giờ lại trở thành đám giang hồ thảo khấu. Bọn này không khiếp sợ thằng nhãi ranh lái súng ấy đâu, chẳng qua vì tham tiền mà thỏa hiệp.

       Ông Thuyết trầm ngâm:

      - Thế thì tại sao chúng ta không tìm cách liên kết với bọn giặc cỏ ấy?

        Ông Viêm trừng mắt:

       - Vì sao ông lại nghĩ thế?

       -Bẩm, từ xa xôi đến đây, thằng chó chết ấy nhờ có tiền mà chiêu dụ được chúng. Còn chúng thì sợ đại nhân một phép. Nếu kéo chúng về phía ta thì ta cũng như rồng thêm vây, chim thêm cánh chứ có gì mà ngại?

         Ông Viêm gật gù. Trong trí nhớ của ông trong thoáng chốc hiện lên rõ mồn một những ngày xông pha nơi hòn tên mũi đạn. Ba năm trước đây, ông đã cầm quân đánh bọn giặc khách. Những trận đánh lừng lẫy của ông đã khiến bọn chúng tan tác. Nhờ những chiến công này mà ông đã được triều đình phong Tiết chế quân vụ miền Bắc. Nhưng rồi khi ta rút quân thì chúng lại tụ tập quấy nhiễu như trước.

         Bỗng ông Viêm vỗ đùi đen đét:

     - Ông nói chí phải! Trong đám giặc khách đáng nể nhất vẫn là thủ lĩnh Cờ Đen. Sau nhiều trận giao chiến khốc liệt, Lưu tiên sinh đã nhận tôi làm anh em kết nghĩa. Mọi chuyện nhờ vậy sẽ có phần thuận lợi hơn. Đúng! Rồng thêm vây tha hồ vùng vẫy!

           Nhưng rồi giọng của ông chùng hẳn xuống:

      - Đã đành phối hợp với chúng vì mục tiêu chung. Nhưng hành động của chúng ta, triều đình có hiểu cho không? Không khéo có người hiểu lầm cho rằng nghĩa quân của ta lại chung hội chung thuyền với bọn giặc khác.

         Ông Thuyết đáp:

         - Triều đình không hiểu thì dân hiểu cho ta.

         Ông Viêm nhếch mép:

          - Chẳng có dân nào hiểu cho ta đâu! Lâu nay, trong mắt dân thì bọn chúng là đám thổ phỉ sắt máu!

       - Đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Miễn sao chúng ta đạt đến mục đích là được. Mà mục đích của chúng ta chỉ làm cho quân thứ tăng thêm sức mạnh đánh bọn Tây dương bạch quỷ!

          Ông Viêm trầm ngâm suy nghĩ. Gió gào ngoài khung cửa. Đêm khuya. Sương lạnh lẽo như cắt da. Lát sau, ông Viêm đứng dậy:

        - Thôi được! Ngày mai, ông đem mật thư của tôi đến gặp thủ lĩnh của bọn Cờ Đen. Mọi chuyện như thế nào là do miệng lưỡi của ông.

     Nói xong, ông lấy nghiên bút thảo lá thư gửi cho Lưu Vĩnh Phúc. Xong, ông đưa cho ông Thuyết rồi bước ra ngoài sân. Quan sát thấy những chòi canh vẫn có lính đứng gác, bốn bề tĩnh mịch, ông hài lòng lắm. Ông Thuyết cũng lững thững bước ra khỏi nhà ông Viêm. Gió quất vào mặt. Rát buốt. Ngước nhìn những ngôi sao mọc lấm tấm mờ nhạt trên vòm trời đen thẫm, ông Thuyết cảm thấy hai mắt nặng trĩu. Ông đi về phía lán trại của mình. Nơi đó, ngọn đèn vẫn sáng. Bà thứ thất vẫn còn chong mắt đợi chồng. Ông nói khẽ nhưng nghe đanh như tiếng chuông đồng:

         - Khuya rồi. Ngủ đi. Đã nói nhiều lần rồi, đừng có thức chờ tôi. Cứ để mặc tôi!

        Bà thứ thất run bắn cả người, vội đứng dậy dìu ông vào giường. Chẳng mấy chốc đã nghe tiếng ngáy… Nhìn chồng ngon giấc, thấy gương mặt ấy hiền lành nhưng bà không hiểu sao trong giọng nói khiến người khác phải khiếp sợ?

       Lúc mặt trời chưa lên thì ông Thuyết đã phóng ngựa đi tìm Lưu Vĩnh Phúc. Đi theo ông là những tay súng thiện xạ. Tất cả đều nai nịt gọn gàng. Trời mưa rả rích. Vó ngựa gập ghềnh. Đường núi cheo leo, hiểm trở. Mưa quất vào mặt như gai nhọn. Ông nghiến răng, môi mím chặt. Bất chợt trong tâm trí của ông vọng đến những câu thơ. Thơ à? Đã lâu lắm rồi, ta không làm bài thơ nào cả, cho dù đôi lúc ta cũng muốn mượn những thơ để bộc bạch lòng mình… Lúc này, nghĩ mình như chim én đang bay trong mưa, tự nhiên trong đầu ông bật ra những câu thơ:

Sao không về chốn đình đài,

Trong mưa gió cứ bay hoài sườn non?

Vấn vương một mảnh lòng son

Nghìn tầm động biếc hãy còn tìm bay. (*)*****Hà Văn Tấn dịch***

      Đang thả hồn theo vần thơ, bỗng từ trong núi có tiếng súng vang lên. Tiếng nổ đanh và gọn. Một nghĩa quân phóng ngựa đi đầu trúng đạn. Máu phun ra khỏi ngực. Ngã vật xuống đất. Nhanh như cắt, ông Thuyết ngã xuống khỏi ngựa và lăn nhanh vào bụi rậm. Con ngựa lồng lên hoảng sợ, hí vang. Có tiếng quát lớn tưởng như vang rền cả một cõi rừng âm u:

         - Ai?

     Bốn bề im lặng. Chỉ có tiếng gió ùn ùn thổi tới. Một nghĩa quân lên tiếng:

    - Chúng tôi là quân của Thống đốc quân vụ!

       Những nòng súng đen ngòm hạ xuống:

       - Đến làm gì?

       Từ bụi rậm, ông Thuyết bước ra:

         - Chúng tôi đem mật thư cho Lưu đại tướng!

     Nhìn thấy ông Thuyết với vóc dáng to lớn vạm vỡ, hàm râu đen dày trên khuôn mặt đen sạm và rắn rỏi nên tên thổ phỉ cũng kiêng dè. Từ trên triền núi cao, hắn nói lớn:

       - Các người bỏ súng ngay vị trí đang đứng!

       Lập tức mọi người bỏ súng xuống đất. Xong, hắn nói:

       - Được! Các người tiếp tục lên đường!

        Đoàn quân của ông Thuyết tiếp tục phóng ngựa. Vó ngựa bon đều đặn. Trên dọc đường đi, họ thấy có nhiều chòi canh rải rác trên sườn núi. Thế là họ đã lọt vào địa phận mà Lưu Vĩnh Phúc đang hùng cứ trên một vùng biên giới. Phóng tầm mắt, nhìn thấy có làn khói tỏa lên trong mưa, ông Thuyết cảm thấy lòng mình ấm áp…

         Khi đến cổng doanh trại Cờ Đen, tất cả mọi người đều bị giữ lại, chỉ có một mình ông Thuyết được vào diện kiến Lưu tướng quân. Ông thấy bốn bề mênh mông những lều trại lố nhố mọc lên. Người ra kẻ vào ồn ào như chợ phiên và giáo, mác, súng, gươm bày la liệt. Ông Thuyết bước về phía lán trại nằm sâu trong rừng. Sẽ thuyết phục như thế nào để Lưu tiên sinh đem quân phối hợp với ta? Lưu không phải là kẻ tham tiền. Lưu là người có nghĩa khí và cũng căm thù giặc Pháp, nếu ta biết khơi dậy ở Lưu máu anh hùng Lương Sơn Bạc thì chắc chắn Lưu không nỡ chối từ? Đang suy nghĩ miên man như thế, ông Thuyết giật thót người. Một phát đạn từ phía sau bắn tới. Đưa tay lên vuốt má, ông cảm thấy mùi đạn khét lẹt còn lởn vởn đâu đây. Ông thoáng rùng mình. Ta đi tay không, chẳng lẽ Lưu tiên sinh cho người hạ sát ta chăng? Không! Lưu không hèn hạ như thế đâu! Nghĩ như thế nên ông vẫn bình tĩnh bước tới…

        Vừa đi được năm bước thì phía trước mặt ông một tên thổ phỉ nhảy đến. Hắn vung gươm. Lưỡi gươm sáng lóe. Nét mặt hung tợn đằng đằng sát khí. Tưởng chừng như hắn muốn ăn tươi nuốt sống ông ngay lập tức. Đến nước này thì cũng phải liều một phen sống mái.

     Ông Thuyết dừng chân lại, quắc mắt nhìn và thủ thế. Đường gươm xé gió như chực lao xuống đầu đối phương thì đột ngột dừng lại. Tên thổ phỉ thu gươm, cúi đầu kính cẩn:

         - Mời ông vào gặp Lưu đại tướng!

         Nói xong, hắn quay lưng bước đi thoăn thoắt. Ông Thuyết cũng nhanh chân bước theo. Gió thổi thốc tới, lạnh xương sống, ông biết mồ hôi trong người mình đã tuôn ra đầm đìa. À! Thì ra cách đón tiếp khách quý của Lưu tiên sinh cũng lạ.

       Trước mặt ông Thuyết là một người đàn ông vạm vỡ, hàm vuông, râu rậm, trên cổ có đeo cái móng cọp. Đang nằm trên sập gụ, mắt nhắm nghiền, nghiêng đầu xuống dọc tẩu. Rít một hơi dài. Có tiếng kêu ro ro và tỏa ra một làn hương thơm. Đứng bên cạnh ông có hai tên thổ phỉ, chúng đang đưa mắt quan sát nhìn ông Thuyết. Dù biết có người của Thống đốc quân vụ tìm đến, nhưng ông ta vẫn nằm yên, không mở mắt ra. Chưa được lệnh, ông Thuyết vẫn đứng yên. Một lúc sau, bỗng ông Lưu bật người dậy, nhanh nhẹn như con cọp dợm phóng tới đối thủ:

       - Ông cần gì ở tôi?

   - Thưa, có mật thư của Hoàng đại nhân gửi cho tướng quân!

     Nét mặt vẫn bình thản như không, ông Lưu nói:

        - Được ông ngồi xuống đây! Ông làm một hơi cho ấm người nhé!

     Ông Thuyết cung kính:

     - Tôi không dùng được nha phiến. Tôi chỉ có thứ này.

           Vừa nói, ông lấy ra những miếng trầu đã têm cẩn thận. Ăn miếng trầu, ông cảm thấy người mình nóng lên và lơ mơ trong cơn say dễ chịu.

       Trong lúc đó, chưa vội đọc thư, ông Lưu lại tiếp tục rít thuốc. Xong, ông Lưu đứng dậy nước ra khỏi nhà và đưa hai bàn tay đập vào nhau, tạo ra âm thanh khô khốc. Đó là một ám hiệu. Ngay lập tức, một tên thổ phỉ dắt con ngựa bạch cao to đến, nhanh như chớp, ông nhảy bập lên lưng ngựa và quơ tay lấy cây thanh đại đao đang dựng ngay bên vách. Ông Thuyết ngạc nhiên, trố mắt trông theo. Không còn thấy ngựa và người đâu cả. Bụi xoáy mịt mù. Chỉ còn nghe tiếng thanh đại đao vun vút trong gió, theo tiếng ấy là hàng cây chuối trồng rải rác trong rừng đổ rạp xuống bởi những đường chém bén ngọt! Chừng nửa tiếng đồng hồ sau, có mặt tại chỗ cũ, trao thanh đại đao cho tên thổ phỉ, ông Lưu nhanh nhẹn nhảy xuống ngựa, nét mặt vẫn không biến sắc. Ông nói:

          - Tôi vẫn giữ thói quen luyện tập mỗi sáng! Bây giờ, ta hãy xem lá thư của Hoàng đại nhân.

        Gió thổi vào vách những hơi lạnh buốt.

    Ngồi thẳng người để chờ nghe ý kiến của Lưu đại tướng, ông Thuyết kín đáo nhổ bã trầu xuống đất. Ông không biết lúc này tại Sài Gòn, Francis Garnier cũng đã gặp Dupré để bàn công việc sắp tới ở Bắc kỳ.

           ****

      Mở toang cánh cửa sổ để lấy ánh sáng ban mai, rót cho Francis Garnier một ly sâm banh sủi bọt, thiếu tướng Dupre - Thống đốc Nam Kỳ chỉ tay vào tấm bản đồ đang treo trên tường.

       - Nếu đại úy làm tròn nhiệm vụ thì việc thăng cấp là điều tất nhiên! trước hết, ta hãy chạm ly chúc mừng cho thắng lợi sẽ diễn ra trong tầm tay!

        Không hiểu tại sao cấp trên lại khẳng định như thế, mặt Francis Garnier thuỗn ra như cán cuốc:

        - Thắng lợi trong tầm tay?

    Dupre nói toạc móng heo:

    - Công việc ở Bắc Kỳ chỉ có thể tóm gọn trong hai chữ “Jean Dupuis”! Đây là cơ hội quý để ta can thiệp vào Bắc Kỳ. Thanh toán được Bắc Kỳ sẽ mở ra triển vọng rất có lợi cho ta. Đó là tự do đi lại trên sông Hồng để thông thương buôn bán với Trung Hoa…

         Francis Garnier phân vân:

     - Thế phái đoàn của họ đã thương lượng thế nào rồi thưa thiếu tướng?

       Dupre cười khoái trá:

           - Tôi không ngờ họ lại ngây thơ đến mức cứ đòi ta phải ra tay trục xuất Jean Dupuis! Bắt con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ dàng hơn là bắt chúng ta tống cổ Jean Dupuis! Cuối cùng, tôi ậm ừ hứa với họ sẽ đưa một sĩ quan và mộtssố nhân viên ra Hà Nội để thu xếp ổn thỏa mọi việc.

         Francis Garnier hấp tấp:

         - Vậy tôi được cử ra Hà Nội?

       Dupré gật đầu:

       - Đúng vậy. Anh sẽ là người chỉ huy một tiểu đoàn thủy quân lục chiến ra Bắc Kỳ.

       Được cấp trên tin tưởng và trực tiếp giao nhiệm vụ, Francis Garnier sung hướng lắm, nhìn thấy ánh vàng hổ phách sóng sánh trong ly rượu đang cầm trong tay, y hồi hộp ngửa cổ uống cạn.

      Nốc cạn ly rượu, Francis Garnier nhìn xoáy vào tấm bản đồ, giây lát sau y nói:

        - Liệu chừng có nên xuất quân rầm rộ như thế không? Không riêng gì chúng ta mà các cường quốc khác cũng đang lăm le trước miếng mồi ngon này. Do đó, ta phải khéo hơn nữa.

        Sau đó, y đưa ra ý kiến chỉ nên đem theo 56 thủy thủ, 30 thủy quân lục chiến và một vài nhân viên phục vụ khác. Tất cả  chỉ nên đi trên hai chiến hạm nhỏ là D’Estrèes và Are để không gây ra sự chú ý không cần thiết. Dupré đồng ý.

     Ngày 11.10.1873, Francis Garnier đã có mặt tại Hà Nội. Cứ tưởng chuyến đi này với mục đích tốt đẹp nên từ quan đến dân ta đều đón tiếp trọng thể. Đến nơi, Francis Garnier cùng mấy tên tùy tùng vào thành ra mắt danh tướng Nguyễn Tri Phương rồi sau đó chúng đòi được đóng quân tại đây! Trước đòi hỏi quá quắt này, các quan của ta vẫn nhũn như con chi chi, năn nỉ mãi y mới đồng ý đóng quân tại Trường Thi.

          Cuộc thương nghị bắt đầu.

Nhưng ngay giây phút đầu tiên hai bên đã bất đồng ý kiến. Không đả động gì đến vụ Jean Dupuis, Francis Garnier chỉ đề cập đến việc đòi khai thương con sông Hồng. Đôi bên dùng dằng mãi. Cãi nhau như mổ bò.

       Ngày 7.11.1873, y đưa cho ta bản cáo thị bắt phải dán khắp nơi cho dân chúng được rõ nhiệm vụ của y ra Bắc Kỳ là: “Xem xét việc Bắc Kỳ như diệt trừ giặc cướp đang hoành hành ngoài vùng biển, trong làng mạc để dân chúng yên ổn làm ăn…”. Dĩ nhiên, ta không chịu và ra bản cáo thị khác nêu rõ nhiệm vụ của y chỉ là: “Giải quyết vấn đề của Jean Dupuis, rồi sau đó phải kéo quân vào lại Nam Kỳ”.

         Không khí hết sức căng chẳng.

         Ngày 9.11.1873, Francis Garnier gởi tối hậu thư yêu cầu trong hai ngày ta phải trao thành Hà Nội cho chúng! Cùng lúc, viện binh của chúng từ Sài Gòn cũng đã kéo ra Bắc. Nhìn thấy tình hình rất nghiêm trọng, dân quân ta ra sức phòng thủ.

         Không khí chiến tranh bao trùm cả xứ Bắc.

       Ngày 19.11.1873, Francis Garnier lại viết lá thư gửi cho danh tướng Nguyễn Tri Phương yêu cầu phải giao thành cho chúng trước 6 giờ chiều! Khi bàn tính kế hoạch này với Jean Dupuis, y nói trắng trợn:

         - Ngay ngày khởi sự phải bắt sống cho bằng được Kinh lược Nguyễn Tri Phương!

        Nghe lời nói phải như được gãi vào chỗ ngứa, tên lái buôn nói vun vào:

          - Dứt khoát phải như thế?

        Quay về phía Puginier, y hất hàm:

         - Còn ngài thấy sao?

       Vị giám mục nhỏ nhẹ:

       - Mọi việc sẽ diễn ra thuận lợi. Lâu nay, tôi đã vận động một số người mạo nhận là con cháu họ Lê nổi lên chống phá nước Nam tại nhiều nơi. Những người này đã đồng ý làm nội ứng cho ta!

       Francis Garnier hài lòng lắm, y nói trơn như cháo chảy:

     - Với nước Pháp vinh quang, chỉ có chiến thắng và chiến thắng!

      Rạng sáng ngày 20.11.1873, một loạt đại bác bất ngờ pháo kích vào thành Hà Nội.

          Các hướng tấn công của quân Pháp đã bắt đầu…


           Chương ba

       Dứt cơn mưa rồi, nhưng bầu trời vẫn u ám, xám ngoét. Lá cờ tam tài nhăn nhúm bay phần phật trong gió. Hà Nội đã thất thủ vào ngày 20.11.1873. Thừa thắng, Francis Garnier tung quân đánh chiếm luôn mấy tỉnh Ninh Bình, Nam Định và Hải Dương. Dân quân cả nước như ngồi trên đống lửa. Sau khi hội kiến với Lưu Vĩnh Phúc, Tôn Thất Thuyết được lệnh của Hoàng Kế Viêm quay trở về Huế để trình bày phương án tác chiến. Ròng rã mấy ngày đêm, ngựa phóng như bay. Ngựa vừa quỵ chân bon thì thay ngay ngựa khác. Trước bá quan văn võ, ông Thuyết đề nghị triều đình sử dụng chính sách “thêm bạn bớt thù”. Đó là thu dụng đám Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc. Đám quân này đã từng hoạt động ở vùng thượng du và trung du bộ phận nên thông thuộc địa hình địa thế, dễ dàng phối hợp với quân ta trong tác chiến. Lưu đồng ý quy thuận triều đình với điều kiện nhà vua phải cho Cờ Đen chính thức đóng quân tại Lào Cao, được phép thu thế tại địa phương để nuôi quân. Thứ hai, ông Thuyết cũng đề nghị tăng cường viện binh cho ông Hoàng Kế Viêm, chuẩn bị đánh chiếm lại Hà Nội. Khi đưa vấn đề này ra bàn bạc, các thượng quan đều cho rằng đó là hai kế sách phù hợp với tình hình cấp bách.

           Tuy nhiên, vua Tự Đức cũng chưa thật sự hài lòng với cách giải quyết trên. Ngài vẫn không hiểu vì sao ta đối với người Pháp đầy hảo ý, nhưng chúng lại xảo trá, lật lọng đến như thế? Ngài nói giữa thanh thiên bạch nhật mà các thượng quan cứ tưởng ngài đang ú ớ trong cơn mê:

       - Trước đây, người Pháp đến nước ta cũng vì tình hòa hiếu. Ta cũng vì hòa hiếu mà đối đãi, như cho chúng đến Hà Nội với nhiều đối đãi khoan hậu. Thế nhưng vì sao chúng lại xảo trá đến thế?

         Ngẫm nghĩ trong giây lát, ngài phán:

     - Tình thế nghiêm trọng này có thể thay đổi nếu ta biết cách thương nghị không khéo, mềm mỏng.

Do biết nhà vua không có con nối dõi nên tính nết thất thường, khi tỏ ra cương nghị như ông tướng, lúc lại giận dỗi hơn trẻ con và nhất là không biết kiềm chế quyền lực nên không ai dám dại dột tranh luận. Với suy nghĩ thiển cận như thế, ngay lập tức vua Tự Đức cử hai sứ bộ làm nhiệm vụ thương thuyết với chính phủ Pháp về những biến cố mà Francis Garnier vừa gây ra ở Bắc Kỳ. Sứ bộ ra Bắc gồm có các thượng quan Trần Đình Túc, Nguyễn Trọng Hợp, Trương Gia Hội cùng với giám mục Bohier và linh mục Dangelzer; sứ bộ vào Nam do các thượng quan Lê Tuấn, Nguyễn Văn Tường làm chánh và phó sứ.

       Khi các sứ bộ lên đường thì các cánh quân của Hoàng Kế Viêm phối hợp với quân Cờ Đen cũng bí mật kéo về Hà Nội.

      Đêm tối sẫm. Tiếng ễnh ương kêu ềnh oang nghe buồn não ruột. Trong căn nhà nhỏ vách đất cách Hà Nội độ hai cây số, Lưu tướng quân bồn chồn không yên, nói với ông Thuyết:

     - Nguyễn Tri Phương tiên sinh là ân nhân của tôi. Trước đây trong một trận đánh hỏa công, chúng tôi thua trí cầm quân của cụ. Nếu cụ không có lòng đại nhân đại nghĩa thì tôi nay đã hồn lìa khỏi xác. Nay cụ thất trận, tôi quyết đánh một phen dù thắng dù thua cũng là tỏ lòng tri ân với cụ.

         Ông Thuyết nhìn vào bóng đêm:

        - Nhưng thưa Lưu tướng quân, dụng binh lúc này vẫn chưa phải tượng sách. Quan Khâm lược đang bị thương nặng, nếu ta tấn công ngay thì bọn Tây dương bạch quỷ tức giận sẽ cắt cổ cụ ngay lập tức.

     Ông Lưu gật gù:

         - Ông nói chí phải. Nhưng tôi biết, cụ không bao giờ đầu hàng chúng. Có thể cụ sẽ nhịn ăn mà tuẫn tiết. Đó là thái độ của người anh hùng. Tình thế thay đổi nay mai thôi!

    Ông Viêm đang trầm ngâm, bỗng nói:

      - Tướng quân nói đúng như suy nghĩ của tôi. Nhưng lúc đó, ta dùng chiến thuật gì?

        Ông Lưu nắm chặt tay và quả quyết:

       - Chỉ có thể dùng “điệu hổ ly sơn”!

          Ông Viêm đắc ý:

       - Đúng thế. Lừa con hổ ra khỏi rừng là để vặt sạch nanh vuốt của nó. Nhưng như thế vẫn chưa đủ. Ông Thuyết, ý kiến của ông ra sao?

       Ông Thuyết nói rạch ròi:

       - Thưa đại nhân, cứ theo binh thư “Lấy yếu chống mạnh thì phải đánh bất ngờ, lấy ít đánh nhiều thì phải dùng kế mai phục”. Trong trận đánh này, ta không thể không giăng bẫy kéo chúng sa chân xuống hầm, đẩy chúng rơi xuống hố…

       Ông Lưu nói ngay:

        - Tôi sẽ cử những toán quân thiện chiến trực tiếp chiến đấu dưới quyền chỉ huy của ông!

           Ngày 20.12.1873, danh tướng Nguyễn Tri Phương mất, trước lúc phái đoàn của sứ bộ Khâm sai Trần Đình Túc có mặt tại Hà Nội chỉ hai tiếng đồng hồ. Không chần chừ gì nữa, cánh quân của ta quyết định sẽ tấn công vào thành Hà Nội.

        Sáng ngày 21.12.1873. Ngày chủ nhật nắng ấm. Những sợi tơ vàng giăng lả lơi trên nhành liễu rủ ở Hồ Gươm. Tại nhà thờ Lớn, giám mục Puginier đang làm lễ, nhưng trong lúc đó tâm trí lại lơ mơ về chuyện đã qua. Tại đây nguyên là nền đất cũ của chùa và tháp Báo Thiên - niềm tự hào của người dân bản xứ trải qua nhiều thế kỷ trong cuộc kháng chiến chống lại sự xâm lược phương Bắc. Vậy mà nay lại mọc lên nhà thờ, dù chỉ mới là vách đất, mái lá nhưng há chẳng phải sứ mạng của giáo sĩ ta đó sao? Rồi đây, ta sẽ cho xây lại kiên cố hơn. Với ý nguyện đó, Puginier hài lòng lắm. Mà phải mười năm sau, chính ông ta sẽ bàn với công sứ Hà Nội là Bonnal thực hiện ý định này. Tiếng kinh cầu vẫn vọng lên đều đặn. Con chiên Francis Garnier cảm thấy tâm hồn mình trong sạch lạ lùng. Nhưng rồi y lại cảm thấy hiện ra mồn một trong trí nhớ những vệt máu, những thây người nằm la liệt trong trận đánh vào thành Hà Nội – dù đã diễn ra cách đây đúng 29 ngày. Bất giác y cảm thấy lợm giọng. Y đột ngột đứng lên, rời khỏi nhà thờ, quay về doanh trại. Hơn nữa, sáng nay y có hẹn sẽ thảo luận hiệp ước với Khâm sai Trần Đình Túc của phái đoàn Huế.

          Nắng lên chói gắt. Đôi bên chưa nói với nhau được gì nhiều. Cả hai đang thăm dò thái độ lẫn nhau. Francis Garnier cảm thấy có điều gì đó bất an, khiến y không thể tập trung tư tưởng được. Mặc kệ quan Khâm sai đang phát biểu ý kiến, y vẫn đứng dậy mở tung cánh cửa sổ. Bỗng y nhìn thấy một viên thông ngôn hớt hải chạy vào, la toáng lên:

        - Cờ Đen! Quân Cờ Đen đánh thành!

       Nhìn người vừa báo tin dữ với nét mặt xám ngoét, tưởng chừng như không còn một chút máu. Bất giác, y phì cười:

         - Chuyện gì mà hớt hải như gà bị cắt tiết thế?

        Viên thông ngôn líu lưỡi:

         - Cờ Đen!

        Nghe nhắc lại lần thứ hai, bỏ mặc phái đoàn của ta đang ngồi, y bước ra cửa hò hét:

         - Tất cả bình tĩnh, không có gì phải hoảng sợ cả. Hỡi anh em chiến binh hãy dũng cảm vì niềm vinh quang của nước Pháp.

     Lập tức đội hình phản công của chúng được triển khai.

           Các cánh quân của ta đã ém bí mật trong các làng mạc nhanh chóng đổ về Hà Nội. Tiếng kèn, tiếng phèng la, chiêng trống khua lên náo động cả một vùng trời. Theo lệnh của Lưu Vĩnh Phúc, các toán biệt kích Cờ Đen xung phong đi trước, rồi các đội pháo thủ vai mang súng bắn đá ùn ùn nối bước theo sau. Kế đến, các đội lính của Hoàng Kế Viêm được trang bị gươm, giáo, đao và cuối cùng là đoàn voi chiến… Tất cả hừng hực khí thế chiến đấu. Trong trận đánh này, Tôn Thất Thuyết được lệnh chỉ huy đội quân thiện chiến đắp ụ hướng ngại vật để phục kích giặc tại Cầu Giấy. Trước sức tấn công như vũ bão của đối phương, Francis Garnier ra lệnh mở cửa thành nghênh chiến. Từ trên thành, các khẩu đại bác đã khạc lửa. Cả một vùng trời chìm đắm trong lửa đỏ. Bất chấp hỏa lực dữ dội như thế, những người lính chỉ được trang bị gươm, giáo cũng liều mình xông vào tử địa! Đang đánh nhau hăng hái như thế, bỗng có tiếng chiêng khua vang lên nghe rợn óc, ngay lập tức họ rút lui dần…

       Đứng trên góc thành phía nam quan sát trận địa, Francis Garnier không thể kìm được tiếng cười tự đắc vọt ra khỏi họng!

       Thừa thắng, y ra lệnh cho các toán quân nhanh chóng đuổi theo bọn phiến loạn. Y phân công cho trung úy Balny D’Avricourt chỉ huy một cánh quân theo đường Sơn Tây truy kích về phủ Hoài Đức. Còn phần mình, y đích thân chỉ huy 18 tên lính quả cảm mở cửa hướng nam đuổi theo, chúng hành quân về làng Thủ Lễ… Y hăng hái đến nỗi bỏ quên cả khẩu súng lục! Cánh quân này có vác theo một khẩu súng 85 ly 5 để sẵn sàng tiêu diệt sinh lực của địch. Băng qua những cánh đồng lầy lội, chúng phải lặc lè vác khẩu đại bác nên không thể tiến nhanh được. Nhưng đến được Giảng Võ thì chúng không còn thấy bóng dáng của đối phương nữa.

        Đồ chó chết! Bọn chúng lủi nhanh như trạch! Francis Garnier bực bội chưa kịp buột miệng chửi thề thì từ các lũy tre một tràng tiểu liên bắn đến rát tai! Bọn lính Pháp ngã sấp ngã ngửa trên cánh đồng để tránh đạn, chúng hoang mang tột độ. Francis Garnier hét lên:

     - Bỏ đại bác lại! Chạy nhanh!

      Thấy vậy, toán quân Cờ Đen muốn xông ra quyết chiến, nhưng ông Thuyết ngăn lại:

      - Không cần, ta đang giành thế chủ động! Thế nào chúng cũng lọt vào ổ phục kích!

      Đúng như lời nhận định này, bọn chúng chạy núp xuống dưới con đê ở hướng Cầu Giấy. Vừa leo lên được con đê, chỉ mới chạy được một đoạn thì Francis Garnier trượt ngã y la toáng lên:

     - Lại đây! Hỡi những người anh em dũng cảm của tôi!

       Y lồm cồm bò dậy và chạy tiếp nhưng lại sa chân xuống hố, y chưa kịp vùng dậy thì đã nghe một tiếng hét rợn người:

      - Chém!

        Những người lính Cờ Đen nghe lệnh của ông Thuyết xông ra chém xối xả. Một dòng máu bắn lên trời xanh. Francis Garnier đền tội. Y mở mắt thao láo kinh ngạc không hiểu sao mình lại kết thúc cuộc đời nhanh đến thế. Trong thời điểm này, cánh quân trung úy Balny D’Avricourt vừa tiến đến trước cửa đền Voi Phục cũng bị phục kích, chết không còn một mống!

    Cái chết của “người hùng” Francis Garnier đã tạo nhiều dư luận khác nhau về phía triều đình nhà Nguyễn, cũng như phía chính phủ Pháp.

     Mặc dầu, chính vua Tự Đức thưởng cho Thống đốc quân vụ Hoàng Kế Viêm làm Hiệp biện đại học sĩ, phong thêm tước tử; thưởng Tán quân Tôn Thất Thuyết làm Binh bộ hữu tham tri, phong cho tước nam, nhưng ông đánh giá chính trận đánh vừa rồi ít nhiều ây trở ngại cho triều đình trong việc thương lượng với Pháp! Do đó, ông sai người ra Bắc truyền lệnh phải rút quân! Vốn tính nóng nảy, ông Thuyết gân cổ lên cãi:

      - Làm tướng ngoài biên cương chỉ biết lo việc đánh giặc!

       Trước thái độ khẳng khái này, nhà vua cử hai thượng quan Nguyễn Trọng Hợp và Trương Gia Hội ra Bắc, đến tận doanh trại để thuyết phục. Không còn cách nào khác, ông Viêm và ông Thuyết phải án binh bất động, chờ kết quả thương lượng giữa Nguyễn Văn Tường với Philastre! Khi lúc tiễn hai thượng quan về kinh, ông Thuyết có đọc cho họ nghe bài văn tế hài hước “khóc” Francis Garnier đang phổ biến tại Hà Nội:

Ô hô!

Cái mắt ông xanh

Cái da ông đỏ

Cái tóc ông quăn

Cái mũi ông lõ

Đít ông cưỡi lừa

Miệng ông huýt chó

Lưng ông đeo súng lục liên

Chân ông đi giày có mỏ

Ông ở bên Tây

Ông sang bảo hộ

Ông dẹp Cờ Đen

Để yên con đỏ

Nào ngờ:

Nó bắt được ông

Nó chặt mất sỏ

Cái đầu ông đâu

Cái đít ông đó

Đù cha mẹ nó!

Nay tôi có:

Chuối một buồng

Xôi một chõ

Rượu một be

Trứng một ổ

Vâng lệnh quan trên

Cúng một cỗ

Ông có linh thiêng

Mời ông xơi hộ

Ăn uống no say

Nằm cho yên ổ

Ông Garnier ơi!

        Nói càng thêm khổ!

        Nghe xong, vốn là người nghiêm nghị, kín đáo, ít nói nhưng Đại học sĩ Nguyễn Trọng Hợp cũng phải hé răng:

     - Tế như thế này thì đúng là gọi tên ra mà chửi. Chửi rất khéo. Câu “Nằm cho yên ổ” quả thật bảo đấy là… lũ chó chết!

      Ai nấy đều bật cười!

     Còn về phía Pháp, vì cái chết của Francis Garnier mà Thống đốc Nam Kỳ Dupré đã bị chính phủ Pháp khiển trách nặng nề. Do đó, chính y cũng muốn dàn xếp mọi chuyện cho êm thấm, mà điều cốt tử là phải ký được với triều đình Huế một hiệp ước có lợi cho Pháp trước khi y hết nhiệm kỳ tại Sài Gòn, để trở về chính quốc không phải chịu búa rìu dư luận! Y sẵn sàng trả lại Hà Nội cho triều đình Huế để đạt đến những quyền lợi lớn lao hơn nữa. Người chịu trách nhiệm thi hành sứ mệnh của y là đại úy Philastre. Viên đại úy này vào Nam ra Bắc như con thoi và đã làm tròn phận sự. Này 15.3.1874 tại Sài Gòn, một bản hiệp ước đã được ký kết với 22 điều khoản. Đặt bút ký xong, y tếch về Pháp. Còn chánh sứ Lê Tuấn thì mất đột ngột, có dư luận cho rằng, chính sau khi ký xong hiệp ước này cảm thấy quá nhục nhã về sự yếu kém của ta trong việc thương lượng nên ông đã uống thuốc độc tự tử!


        Chương bốn

       Bóng trăng lênh láng những ánh vàng trên vòm cây. Đêm yên tĩnh. Nhận lệnh rút khỏi Hà Nội và quay về trấn giữ vùng Nghệ An, ông Thuyết không vui. Đến xứ Nghệ, với tâm trạng buồn bực, ông không thể bình tâm lắng nghe tiếng hò từ ruộng đồng khô cằn đang vọng đến:

Ai có chồng nói chồng đừng sợ

Ai có vợ nói vợ đừng ghen

Tới đây hò hát cho quen

Rạng ngày mai ai về nhà nấy, há dễ ngọn đèn hai tim.

          Ông Thuyết cảm thấy trái tim mình đau buốt. Chẳng lẽ ta là ngọn đèn hai tim ư? Ngay sau khi hiệp ước 1874 ký chưa ráo mực, nhân dân cả nước điên tiết. Họ bất bình. Họ trách triều đình nhà Nguyễn hèn nhát đã bỏ mất cơ hội có thể đánh Pháp và thắng Pháp. Biết làm sao được khi mà vua Tự Đức nhìn tương quan lực lượng, cho rằng: “Huống chi ngày nay nhân dân sợ sệt rồi, mà thuyền của họ vẫn mạnh như  sóng gió, súng của họ vẫn mạnh như lửa hồng, các ngươi định đem toán quân cô quạnh, vừa ít vừa hèn ra mà chống chọi với họ, thực là bước qua đầu rắn độc, giẫm lên đuôi hổ mang, có khác chi lũ nhặng múa trong bụi cỏ, con bọ ngựa giơ cánh tay để ngăn xe được không?”. Bất chấp lời nhận định dại dột, ươn hèn này, văn thân Nghệ An đã nổi dậy, họ tuyên bố:

Vận trời chả biết làm ao

Ra về dàn trận đánh đao với triều

Dập dìu súng bắn cờ xiêu

Phen này quyết đánh cả triều lẫn Tây!

     Tiêu biểu cho phong trào này là hai bạch diện thư sinh chỉ mới đậu tú tài đứng ra làm chủ soái. Đó là Trần Tấn và Đặng Như Mai. Trước lúc khởi binh, họ làm tờ tấu gửi cho nhà vua. Trong đó có đoạn: “Có thật là yếu hèn đâu: ta như bay, như lượn, như sông Giang, sông Hán, như núi cao bao bọc, như sông dài chảy quây. Một tiếng trống đánh lên đủ làm tan súng phá trời, một thẻ lính bài gõ xuống đủ làm đắm thuyền rẽ đất. Quân vua đến đâu như núi Thái Sơn đè lên quả trứng vậy. Sao lại bảo như bầy nhặng vo ve trên cỏ, bò ngựa giơ càng đá xe?”. Họ đã phối hợp với lực lượng kháng chiến của Trần Quang Cán ở Hà Tĩnh, Trương Quang Thủ ở Quảng Bình… vây hãm thành Vinh và đánh những trận dữ dội. Quân triều đình chống cực không nổi phải bỏ chạy. Trước tình thế này, nhà vua nghĩ đến Tôn Thất Thuyết và phái ông đi dẹp “loạn” văn thân!

        Trước ngày ông Thuyết rời Sơn Tây để vào Nghệ An, Thống đốc quân vụ Hoàng Kế Viêm có đưa cho ông xem tờ hịch “Bình Tây sát tả”. Xem xong, ông thở dài:

         - Từ thuở trai tráng, tôi từng mong được lấy da ngựa bọc thây. Được đánh một trận vang trời lở đất với bọn mắt xanh mũi lõ thì dẫu có chết, tôi cũng ngậm cười nơi chín suối, cũng vui lòng. Nay nhận chỉ dụ của quốc vương đem quân đàn áp văn thân xứ Nghệ thì lòng tôi không nỡ!

         Ông Viêm chia sẻ:

         - Ông nói được như thế thì quả không phải là kẻ mù quáng, tầm thường. Đã đành, hưởng ơn mưa móc của thiên tử thì phải làm thân khuyển mã nơi chốn sa trường. Nhưng nay ông về Nghệ An thật lòng tôi cũng không vui…

       Không vui, vì ông Viêm biết rằng dăm năm trước một linh mục người Pháp lấy tên Việt là Chu về Nghệ An truyền đạo, chia rẽ lương – giáo thì bị Trần Tấn cùng học trò mình phản đối kịch liệt, đốt nhà thờ. Linh mục Chu tố cáo việc này lên bộ Lễ. Vua Tự Đức giận lắm, xử phạt nghiêm khắc. Nhưng rồi, giám mục người Pháp có tên Việt là Ngô Gia Hậu cũng tiếp tục khiếu nại, nhà vua buộc lòng bắt tất cả xử chém, nhưng cho “trảm giam hậu” - tống giam để đợi xét xử thêm. Riêng Trần Tấn có mẹ già ốm đau nên tạm thời được tha. Rồi lúc chuẩn bị cho việc ký hòa ước, nhà vua lại cử tượng thư bộ Công Ngụy Khắc Đản đi dàn xếp dứt điểm những chuyện rắc rối này. Trước thái độ nhu nhược đó, Trần Tấn quyết định phát động phong trào nhân dân vừa đánh Pháp vừa chống lại triều đình:

Vì thằng tả, giận thằng Tây

Tuốt gươm chém sạch trận này mới nghe

Nghĩa binh nghĩa sĩ ta hè

Đồng chung áo giáp tứ bề ruổi rong

Đâu đâu ai cũng một lòng

Cờ bay lá nghĩa, đùng đùng tiếng nhân

Một niềm trừ địch yên dân

Càn không giãi tỏ, quỷ thần chứng tri

        Không thể chống lệnh của nhà vua, ông Thuyết phải lên đường về xứ Nghệ. Đêm ấy, hai tướng quân đã uống một bữa rượu say túy lúy. Trong cơn say ngất ngưởng, ông Thuyết đã cao hứng đọc bài thơ mà ông cho rằng mình chẳng khác nào con ngựa thồ! Giọng đọc sang sảng của ông như tiếng chuông rền, trưởng chừng như vang động cả núi rừng:

Mang nặng lên cao sức mỏi dần

Đường dài dằng dặc vẫn phân vân

Vật quý trong nhà còn gì nhỉ?

Chỉ bức Hà đồ mấy nghìn năm!

           Nghe tin ông Thuyết kéo quân về đàn áp phong trào, thủ lĩnh Trần Tấn và Đặng Như Mai lo lắm. Khi họ khởi binh, Tổng đốc Nghệ An là Tôn Thất Triệt dù không nói ra, nhưng cũng ít nhiều dành cho họ nhiều thiện cảm, nhắm mắt cho họ làm việc nghĩa nên phong trào ngày càng lan rộng. Còn bây giờ triều đình cử tướng võ về đây thì tình thế sẽ ra sao? Mà nhất là người ấy lại là Tôn Thất Thuyết, người vừa mới đánh tan đám quân của bọn Ông Thất từ Long Châu tràn qua biên giới. Thất kết hợp với thổ phỉ của Chu Tường Lân từ Tuyên Quang kéo xuống Thái Nguyên, bao vây tỉnh thành Cao Bằng. Lực lượng này hùng hậu như thế, nhưng ông Thuyết cũng đánh tan. Thế thì ta phải đối phó ra sao?

          Sau nhiều lần bàn luận, họ nghĩ, ông Thuyết là võ tướng, không giỏi văn chương nên có thể mượn tay một thầy đồ gàn để “cảm hóa” bằng chữ nghĩa vẫn là diệu kế? Mà những kẻ sĩ hay chữ nhưng sinh bất phùng thời thì không thiếu!

     Bóng trăng vẫn ngời sáng. Tiếng hò xứ Nghệ vẫn vọng đến khoan nhặt. Bỗng ông nghe tiếng bẩm báo:

        - Thưa, có một kẻ tự xưng là thầy đồ muốn vào gặp quan lớn!

        Từ ngày kéo quân về đây, ông Thuyết đã từng nghe nói đến con người xứ Nghệ. Họ vừa thông minh, hiếu học nhưng cũng có không ít kẻ gàn bướng, ngang tàng coi trời bằng vung! Điều này ít nhiều hợp với tính cách của chính ông! Lâu nay, ông nổi tiếng là người tính tình nóng nảy, ghét ai là ghét ra mặt, ghét đào đất đổ đi; thương ghét rạch ròi đâu ra đó chứ không úp úp mở mở. Đang buồn bực, ông quay lại:

        - Cho hắn vào!

        Thoạt thấy mặt ông, thầy đồ đã quỳ mọp xuống đất, xá:

        - Bẩm quan lớn, con chỉ muốn chết.

     Chỉ muốn chết ư? Quả là lạ. Ông Thuyết ngạc nhiên:

         - Chết đâu có gì là khó. Chỉ biết sống, sống cho đáng mặt nam nhi mới là khó!

       Thầy đồ vẫn nhũn:

       - Vì biết khói nên con mới đến đây nhờ quan lớn hóa kiếp!

          Đúng là đồ gàn, ông Thuyết nổi nóng:

          - Quái lạ! Tại sao ngươi muốn chết?

          Thầy đồ nhăn nhó:

       - Bẩm, con chỉ là thứ “điên, cuồng, ngu, ngộ”! Sinh ra trên đời có nhiều cách để lập thân, có người cầm quân vùng vẫy chốn sa trường, có kẻ học mót chữ của thánh hiền để lai kinh ứng thí. Như con đây, những mong học hết trang sách nát để được ghi tên trên bảng vàng! Con học như cuốc kêu ngày hạ, nhưng rồi thi có đỗ đâu! Thi mãi không đỗ thì con chỉ muốn chết cho xong.

     Nghe thầy đồ nói đâu ra đấy, bất giác ông Thuyết cũng dịu lòng:

        - Biết thẹn với nghiệp bút nghiên thì cũng không phải là kẻ tầm thường. Thế ngươi học hành ra sao?

         - Bẩm, con chỉ là một thứ “điên, cuồng, ngu, ngộ” thôi ạ! Học hành nào có ra gì!

          Biết thầy đồ không phải tay vừa, ông Thuyết gằn giọng:

        - Học hành từ thuở tóc xanh đến lúc bạc đầu mà vẫn dốt nát thì chết là phải. Nếu ngươi muốn thì ta cũng không tiếc một nhát gươm!

         Biết không thể đùa được nữa, thầy đồ nói:

     - Trước lúc được ơn của quan lớn, kẻ hèn này cũng xin được đọc bài thơ bộc bạch nỗi lòng!

         Ông Thuyết khinh bạc:

          - Thơ à? Để làm gì? Chẳng có ích gì trong thời buổi này cả. Bọn sĩ tử trói gà không chặt, nhưng giỏi thơ phú thì thời nào cũng có. Chúng chỉ lăm lăm lưu danh hậu thế bằng những vần thơ trăng, hoa, tuyết, nguyệt thì thật đáng hổ thẹn! Nhớ chưa? Nói thế thôi, chứ ta không phải kẻ võ biền…

         Đang nói, ông Thuyết đứng dậy:

    - Ta cho phép ngươi đọc thơ. Nhưng phải là bài thơ do ta ra đề, nếu không thì lưỡi gươm của ta lại vấy máu!

         Thầy đồ vẫn bình tĩnh:

             - Dạ, xin quan lớn ra đề!

           Ông Thuyết đáp:

        - Thì đấy! Ngươi bảo ngươi “Điên, cuồng, ngu, ngộ”. Vậy hãy lấy bốn chữ ấy làm đề!

           Ngồi xuống tràng kỷ, ông Thuyết ngồi khoanh chân, lấy miếng trầu nhai bỏm bẻm để chờ nghe bài thơ của ông đồ xứ Nghệ. Nhai chưa kịp dập miếng trầu, đã nghe cất lên giọng đọc thơ ai oán, trầm buồn như chất chứa biết bao tâm sự:

-Cao Tổ điên hào kiệt

Vũ Đế ngộ thần tiên

Tăng Điểm cuồng thiên hạ

Nhan Tử ngu thánh hiền

          Giọng đọc vừa dứt, ông Thuyết vỗ đùi đen đét:

       - Tuyệt bút! Hay lắm! Ngươi hãy đứng dậy! Ngồi đây!

     Lần đầu tiên, binh lính đứng ngấp nghé ngoài cửa thấy Tán tương quân vụ rót ly trà mời cho kẻ dưới! Ông Thuyết bảo:

        - Có phải thơ của ngươi hay thơ của ai?

           Được lời như cởi tấm lòng. Ông thầy đồ cho biết đấy là thơ tú tài Trần Tấn và Đặng Như Mai sai ôn đến đọc cho quan lớn.

    Giọng ông Thuyết trầm hẳn xuống:

       - Thôi được. Nay mai ta sẽ gặp hai ông tú tài kia!  Để xem họ học hành ra sao mà dám khởi binh chống lại triều đình? Đáng tội chết!

       Bóng trăng chìm sau núi. Đêm tối đen. Có tiếng chó sủa vu vơ…

       Nhưng Tôn Thất Thuyết chưa kịp gặp thủ lĩnh của phong trào “Bình tây sát tả” xứ Nghệ thì ông nhận được lệnh trở về nhiệm sở cũ để nhận nhiệm vụ mới.

         ***

       Sau hòa ước Giáp Tuất (1874), không chỉ văn thân trong nước nổi lên chống lại triều đình mà bọn thổ phỉ ở biên giới cũng lợi dụng cơ hội đánh phá khắp nơi. Ở mạn Tuyên Quang, quân Cờ vàng của Hoàng Sùng Anh ngang nhiên đem quân về đóng ở tại Châu Thượng, phủ Vĩnh Tường! Chúng cướp bóc, đốt nhà, hãm hiếp dân lành không ai chịu xiết!

        Nhận được lệnh này, như cá được về biển, Tôn Thất Thuyết đã nhanh chóng đem quân đến giao chiến.

          Tháng 10.1875. Sương khuya dày đặc. Ngọn lửa vẫn cháy sáng bập bùng. Mấy đêm nay, ông Thuyết gần như thức trắng. Hai hố mắt sâu hoắm. Có lẽ do có nội gián nên mỗi lần hành quân thì bọn thổ phỉ đã trốn sạch! Đến nơi chỉ thấy doanh trại trống toang hoác, ông cho phóng hỏa và rút quân. Nhưng chỉ dăm ba ngày sau thì chúng lại tụ tập và tiếp tục đánh phá, thậm chí ngay cả doanh trại của ông cũng bị chúng lẻn đến tập kích! Đánh rắn phải đánh đập đầu. Phải diệt trọn ổ thì mới an dân!

        Nhưng đánh bằng cách nào để đạt hiệu quả nhất? Sau nhiều đêm suy nhĩ, ông quyết định sẽ áp dụng một chiến thuật táo bạo…

          Đêm vẫn như mọi đêm. Vẫn yên tĩnh lạ thường. Có tiếng gà gáy cầm canh. Cuối chân trời một vì sao băng đột ngột. Sương lất phất. Vòm trời Tuyên Quang chìm trong bóng tối. Trong những ngày này, không ai hiểu vì sao ông Thuyết lại tổ chức khao quân để rút quân. Dân trong làng hay tin, họ gánh trâu, lợn và rượu lên đến tận nơi ông Tán tương quân vụ đang đóng quân để xin ông ở lại. Ông Thuyết nghiến răng kèn kẹt khi nghe họ kể tội ác của giặc:

Ai có tiền hối lộ, chúng tha

Ai không có tiền, chúng giết ngay tại chỗ

Đem ít thịt lợn treo cột nhà

Cô nàng coi như làm vợ cho giặc

Đặt bầu rượu trên chạn bếp ăn

Coi như đám cưới đã xong,

giặc vào buồng ngủ với con, với cháu

Dân sống như nai, hoảng, nay đây mai đó

Dân như cáo như chồn, chui rúc rừng sâu

Ở tại Mường Lò, chỉ còn người đui què

Chạy không được, phải làm tôi tớ cho giặc

      Dù bày tỏ sự căm hờn giặc, nhưng trong lúc liên hoan ông lại cho biết, đánh nhau với quân Cờ vàng đã mệt mỏi, nay mai sẽ rút hết lực lượng về Sơn Tây, vì thế cho quân lính được thong thả dăm ba ngày dưỡng sức. Mà thật vậy, những ngày này quân Cờ vàng không gặp một trở ngại nào. chúng vào trong làng cướp phá như chỗ không người. Thậm chí, đêm khuya khoắt, khi chúng vào cướp bóc trong làng, dân chúng khua chiêng, gõ trống vang trời để kêu cứu nhưng bốn bề cũng vắng lặng như tờ!

          Chủ tướng Hoàng Sùng Anh lấy làm đắc ý. Vó ngựa vang đều đặn trên sườn núi. Bọn thổ phỉ đi thám báo đang quay trở về căn cứ. Nghe chúng cho biết quân triều đình nước Nam mấy hôm nay liên tiếp tổ chức ăn uống linh đình, việc quân chểnh mảng, y quyết định tập trung lực lượng tập kích doanh trại của ông Thuyết. Vì nếu đẩy lùi được quân của ông Tán tương quân vụ, chúng sẽ khống chế được các vùng Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên… Từ đó, con đường vận chuyển thuốc phiện, vũ khí cho con buôn phương Tây của chúng qua Trung Quốc sẽ thuận lợi gấp bội phần. Hơn nữa, y cũng muốn đánh trận này để các quân Cờ đen, Cờ trắng khi nghe đến tiếng tăm của y cũng phải nể phục! Rừng chỉ một cọp thiêng làm chủ. Y không thể để vùng biên giới nước Nam bị chia sẻ bởi  bất cứ lực lượng nào. Suy nghĩ như thế, y quyết định ra quân mà chính y sẽ là tướng tiên phong đi đầu.

        Bóng trăng vừa khuất núi, bọn thổ phỉ Cờ vàng ùn ùn phóng ngựa. Tiếng ngựa hí vang. Đuốc cháy rực trời. Trên đường đi chúng không gặp một trở ngại nào cả. những chốt tiền tiêu của quân ông Thuyết bị san bằng một cách dễ dàng. Không như mọi lần, lần này chỉ nghe vó ngựa Cờ vàng phóng qua là họ đã bỏ vị trí chiến đấu, cuốn cờ chạy. Chúng phóng hỏa đốt cháy sạch sành sanh các chốt ấy và tiếp tục tiến quân. Nhưng khi chúng vừa phóng ngựa lên sườn núi, thì bỗng một tiếng đại bác gầm lên. Rồi im bặt. Nghe ngóng tình hình, Hoàng chủ tướng biết là đối phương đã khiếp đảm nên chỉ cầm cự để tìm cách rút quân!

          Không thể chạy thoát được dễ dàng như thế, y ra lệnh cho bọn thổ phỉ tung hỏa lực bắn phá dữ dội vào căn cứ trước mặt. Không thấy có sự phản công nào đáng kể, lập tức y xua quân tiến lên… Lúc vó ngựa rầm rập tiến đến mục tiêu thì bất ngờ chúng thấy lửa sáng lòa cả một vùng rừng núi! Thì ra họ quá khiếp sợ nên ông Thuyết đã cho đốt cả doanh trại! Nhìn lửa ngùn ngụt cháy, Hoàng Sùng Anh không thể hiểu vì sao một võ tướng lại hành động thất sách như thế. Đành rằng, tự mình phá hủy kho lương thực, vũ khí để khỏi rơi vào tay đối phương, nhưng tình thế này liệu chừng có cần phải hành động như thế không? Một võ tướng đã từng xông pha trận mạc như ông Thuyết lại hèn nhát như thế thì quả là lạ! Mà cũng không có gì là lạ, vì ông Thuyết đã tuyên bố là sẽ rút quân trong nay mai. Vậy thì, thời điểm mà Hoàng chủ tướng chọn để tấn công là chính xác, nó đã thúc đẩy ông Thuyết rút quân cho nhanh hơn kế hoạch đã định trước mà thôi!

          Ngẫm nghĩ như thế, Hoàng chủ tướng đắc ý phóng một cây lao về phía trước mặt. Cây lao xé gió găm phập vào mục tiêu. Thân cây rung lên bần bật. Y ngửa mặt lên trời cất tiếng cười sảng khoái. Y quyết định sẽ đóng quân lâu dài nơi này.

           Trời rạng sáng dần. Có tiếng gà gáy le te. Cả một vùng núi nhung nhúc bóng quân Cờ vàng làm chủ trận địa. Bọn chúng đang mệt mỏi sau một đêm giao chiến. Bỗng từ bốn phía đồng loạt “hỏa tiễn” bắng lên cấp tập. Đây là một loại vũ khí rất lợi hại. Nó được cấu tạo bằng một đoạn ống tre đực, trong có nhồi thuốc nổ và dây mồi cháy; một đầu cắm mũi tên sắt tẩm thuốc độc, còn đầu kia buộc mảnh vải. Trước khi phóng, người ta cuộn mảnh vải này vào xung quanh ống tre và đặt vào một loại súng phóng hỏa đặc biệt. Sau khi đốt cháy dây mồi, rút chốt thì “hỏa tiễn” lao ra khỏi “bệ phóng” và sợi dây vải ở đuôi tung ra để tự điều khiển hướng bay của “hỏa tiễn”. Bọn Cờ vàng tưởng chừng như cả đất trời lật nhào. Chúng nhốn nháo tìm nơi trú ẩn để phản kích thì hỡi ôi, bao nhiêu hầm hố nơi đây thì đối phương đã chủ động lấp từ bao giờ rồi! Không còn cách nào khác, chúng lao xuống núi để tránh hỏa lực đang phóng tới.

     Nhưng vừa lao xuống núi là chúng đã lọt vào trận địa mai phục đang giăng sẵn.

         Từ trong rừng rậm, quân của ông Thuyết bất ngờ xông ra đánh trực diện. Quân Cờ vàng chết như rạ. Biết đã sa vào bẫy của đối phương, Hoàng chủ tướng phóng ngựa chạy như bay về hướng làng Châu Thượng. Nhưng không kịp nữa rồi. Từ phía trước mặt y, một nòng súng kíp nâng lên. Ngắm chính xác và siết cò. Một dòng máu vọt ra giữa ngực, y ngã xuống ngựa.

          Sau cái chết của Hoàng Sùng Anh, thổ phỉ Cờ vàng tan tác hết. Tiếng tăm của Thuyết nổi như cồn. Ông được triều đình thăng Thự tổng đốc Ninh –Thái kiêm việc quân Ninh –Thái - Lạng - Bằng.

             Tháng 3.1875, vua Tự Đức lại tin tưởng giao cho ông Thuyết tiếp tục cất quân đi đánh dẹp cuộc nổi loạn ở Cổ Loa mà sử nhà Nguyễn gọi là “giặc lá tre”. Thủ lĩnh của phong trào này tên là Trận, không rõ họ. Trận là người Bắc Ninh, tôn một sinh đồ người Nghệ An làm quân sư, tự xưng Đại nguyên soái cùng lãnh binh Lạc, Dung tập hợp lực lượng nổi dậy. Ông Thuyết đem quân về, nhưng không dẹp nổi, vua Tự Đức bực mình giáng xuống hai cấp.

       Trận bắn tin cho ông rằng, ông Thuyết chỉ là tướng võ, không có tài văn chương thì không đáng “tâm phục khẩu phục”! ông Thuyết thở dài ngán ngẩm cho quan niệm kỳ quặc đang phổ biến là quan võ không “oai” bằng quan văn! Thật vậy, có điều oái oăm, con đang làm quan văn mà đổi sang quan võ thì người cha bị phạt 50 quan! Hoặc đang làm quan võ muốn đổi sang quan văn thì phải giảm một ngạch lúc đi nhậm chức! Vì thế, trước ngày khởi binh, khi mặt trời vừa ló khỏi lùm tre, ông Thuyết cùng thuộc hạ thân tín đi viếng đền Cổ Loa.Tại đây, ông đã phóng bút viết câu đối:

           Giặc đến Loa thành thì lập tức bị tiêu diệt

      Đền không có nỏ rùa thần nhưng vẫn đủ uy linh

        Để tỏ cho mọi người biết, ông không chỉ là một võ tướng mà cũng là người sính văn chương, đủ chữ nghĩa để nói lên chí khí của mình.

     Trước lúc cất quân, ông kêu gọi nghĩa quân ra hàng, nếu không ông sẽ giết sạch. Trận bất chấp. Trong trận đánh thọc vào trong làng, dù trời sụp tối và đang mưa tầm tã, nhưng ông vẫn hạ lệnh tấn công quyết liệt. Trận hơn mười lần dẫn nghĩa quân ra xông phá vòng vây, binh lực hao tổn rất nhiều nhưng vẫn không thoát được. Bắt được Trận, ông Thuyết hỏi nguyên cớ làm loạn thì nghe đáp:

         - Vì triều đình ươn hèn!

          Ông Thuyết trừng mắt:

       - Sao lại nói thế?

         Dù bị trói quặt tay ra sau lưng, nhưng Trận vẫn ngửng cao đầu:

         - Đất đai của tiên triều ngày một mất vào tay bọn giặc Pháp. Thế không ươn hèn là gì?

         Ông Thuyết khục khặc:

        - Triều đình ươn hèn nên ngươi mới làm loạn phải không?

     - Đúng!

         Ông đúng dậy rút lưỡi gươm kề vào ngay cuống họng của Trận:

         - Thế mà đúng ư? Sao ngươi không giỏi cất quân đánh bọn giặc Tây dương, đánh bọn giặc khách mà lại cướp bóc dân tình? Hành động như thế là anh hùng hay ươn hèn?

       Trận im lặng. Ông nói tiếp:

       - Ta cho ngươi một cơ hội, nếu ngươi theo ta lập công chuộc tội thì không những sống sót mà còn được cất nhắc nữa. Bằng không thì ngươi hãy tự xử!

        Trận đáp:

         - Lòng dân vẫn hướng về Lê triều. Tôi không thể không phò con cháu nhà Lê. Sống làm người mà hai lòng thì sao có thể nhìn mặt tổ tiên nơi suối vàng?

       Nói xong, Trận đập đầu xuống nền đất. Vỡ sọ. Máu tung tóe. Ông Thuyết lẳng lặng quay lưng vào công đường.

         Với nhiều chiến công đã lập được, từ tháng 10.1875, Tôn Thất Thuyết được nhà vua tặng thẻ bài bằng ngọc, bổ làm Hiệp đốc quân vụ đại thần. Như thế, chức tước của ông đã ần ngang với Thống đốc quân vụ Hoàng Kế Viêm. vua Tự Đức cao hứng khen tặng cho ông Thuyết bài thơ:

Khói trận rợp đen, trống dậy trời

Lấy đồn, thò túi dễ như chơi!

Dứt cành, sóc hết mong năm ngả

Ba ngách, thỏ cùng huyệt phá rồi! (*)**** Nguyễn Quang Trung Tiến dịch*****

        Bước đường hoạn lộ đang diễn ra thuận lợi như thế, thì một thời gian sau, năm 1876, ông dâng sớ cho vua Tự Đức…


             Chương năm

    Việc nước đang rối như mớ bòng bong. Dù hòa ước Giáp Tuất (1874) đã ký, trong đó khoản 2 quy định từ đây nước Nam hoàn toàn nhận quyền bảo hộ của nước Pháp, không còn thần phục bất cứ nước nào nữa. Thế nhưng, vua Tự Đức vẫn sai người đi cầu cứu Thanh triều, ông không biết trong lúc này chính “con cọp” Trung Quốc từ bao đời đế vương nước Nam phải thần phục thì nay cũng đã bị bọn thực dân phương Tây bẻ hết nanh vuốt! Ngoài ra, vua tôi nhà Nguyễn còn tìm cách vận động với các nước Anh, Tây Ban Nha, Ý… để mong được sự trợ giúp, nhưng rồi mọi chuyện cũng không đi đến đâu. Một vấn đề lần đầu tiên đặt ra trước mắt vua Tự Đức là điều 20 trong hòa ước có ghi “Vua nước Nam được quyền đặt sứ thần tại Paris và Sài Gòn”. Nếu ông sáng suốt biết chọn người gửi sang Pháp, đặng làm công tác ngoại giao thì ít nhiều cũng giúp cho triều đình trong công tác đối ngoại. Nhưng khi đem việc này ra bàn, Thượng thư bộ Hình Nguyễn Văn Tường tâu:

        - Các nước Tây phiên đi lại hòa hợp vì chung tiếng nói, chữ viết, lại có điện báo để thông tin tức, còn ta nếu giao dịch với nước ấy, chỉ dựa trên giấy tờ, một khi phiên dịch sai đi, lại thêm sinh sự, vì thế đặt Khâm sứ ở kinh đô nước Pháp không ích gì!

         Ý kiến sai lệch này lại được nhà vua chấp thuận! Ông chỉ đồng ý cử Nguyễn Thành ý vào Gia Định làm nhiệm vụ Lãnh sự. Để cho ông Ý tăng thêm uy thế, trước ngày lên đường nhận nhiệm vụ, vua Tự Đức phong cho nước Hồng Lô Tự Khanh. Như vậy, Nguyễn Thành Ý là Lãnh sự đầu tiên trong lịch sử ngoại giao Việt Nam. Trong thời gian này, ông ý học thêm tiếng Pháp và nổi tiếng biện bác thông minh trong đàm phán, ngoại giao để giành lại quyền lợi cho đất nước. Nhưng rồi chỉ dăm năm sau, với tư cách là kẻ đang thắng thế trên chiến trường, Pháp ngang nhiên bãi bỏ Tòa Lãnh sự Việt Nam tại Sài Gòn, ra lệnh trục xuất Nguyễn Thành Ý phải rời khỏi nhượng địa Pháp trong vòng 24 tiếng đồng hồ!

         Trong những ngày này, vua Tự Đức đau ốm luôn. Mọi thời trân, cao lương mĩ vị cũng không giúp cho ngon miệng, khiến ông gắt gỏng, buồn phiền. Duy chỉ có thơ, những lúc đắm đuối với nàng thơ ông mới thấy tâm hồn mình sảng khoái nhẹ nhàng.

        Sáng nay sau khi ngự triều, trở về thư phòng thả tâm hồn bay bổng với nàng thơ thì ông nhận được sớ của Hiệp đốc quân vụ đại thần Tôn Thất Thuyết, xin được nghỉ dưỡng bệnh. Việc nước đang rối như canh hẹ, biên giới phía Bắc nào đã yên đâu mà các quan đại thần cứ xin nghỉ vì nguyên cớ này, lý do kia quả khó xử. Đã thế, không ít người thật sự có tài năng, dù thi đậu, nhưng do bất mãn thế sự họ đã bỏ về quê ẩn dật. Ai cũng thế, việc nước ra sao? Nhà vua xuống chỉ dụ khuyên nên cố gắng ở lại đảm đương việc quân, nhưng ông Thuyết vẫn một mực cáo bệnh, liền bị giáng xuống chức Tham tri, lấy lại nước nam. Sau đó dù được nghỉ dưỡng bệnh tại Bắc Ninh, nhưng do quan quân dưới quyền thua trận, ông Thuyết vẫn bị giáng xuống hai cấp lưu.

         Những ngày này, bệnh ông Thuyết đã nặng lại càng nặng hơn. Đã từng tâm niệm làm trai phải để danh lại với núi sông, sống cho xứng mặt nam nhi nên ông không thể nằm yên. Dù bệnh, ông cũng cố gắng trở lại Thái Nguyên, vừa trị bệnh vừa lo đánh dẹp giặc giã vùng trung du. Trong trận giao chiến với bọn giặc khách, quân của ông Thuyết bị bao vây. Tưởng phen này sẽ nằm dưới ba thước đất, nhưng trong lúc dầu sôi lửa bỏng ấy thì ông được Nguyễn Cao - Bố chánh Thái Nguyên kéo quân đến giải vây.

          Nhưng rồi, bệnh ngày một xấu hơn, ông lại trở về Bắc Ninh, quê của ông Cao để dưỡng bệnh. Chọn Bắc Ninh vì ông nghe kể lại tính cách của một người đàn bà rất phi thường mà ông đem lòng kính phục. Chuyện là, sau khi ông Nguyễn Hành, cha của Nguyễn Cao mất, tên lý trưởng sai người tới ngỏ ý muốn cưới bà làm vợ lẽ. Bà từ chối khiến y rất hậm hực. Rồi ngày nọ tình cờ gặp bà nơi chốn vắng vẻ, không kìm chế được dục vọng đê hèn, y chặn nàng lại giở trò sàm sỡ… Bàn tay y đã chạm vào ngực bà. Biết không thể chống cự được tên dâm đãng lại có chức sắc trong làng, bà ôn tồn nói:

        - Tôi là người góa bụa, mai kia cũng tái giá. Xin ông bình tâm đợi lúc đoạn tang chồng, tôi định bề gia thất cùng ông, từ đây đến lúc ấy cũng chẳng có gì phải vội. Phải đâu loại mèo mả gà đồng mà làm trò trên bộc dưới dâu. Làng trên xóm dưới biết chuyện thì họ cười chết!

        Gái một con trông mòn con mắt, lại thêm giọng nói ngọt ngào, dịu dàng, đằm thắm thế kia khiến lý trưởng nguôi lòng… Y gật gù để bà đi về.

        Từ đó, trong lòng bà mang mối hận.

        Bà âm thầm nuôi dạy Nguyễn Cao nên người. Lúc con được mười hai tuổi gửi xuống xã Liễu Ngạn, phủ Thuận Thành (Bắc Ninh) để nhờ thầy Nguyễn Gia Giao - vốn là bạn tâm giao với chồng bà – rèn cặp.

           Ngày kia, nhân ngày giỗ chồng, bà làm bữa cỗ linh đình mời đông đủ họ hàng và quan viên trong làng đến dự. Riêng tên lý trưởng nhận được lời mời thì thấp thỏm mừng thầm trong bụng. Hơn mười năm qua y vẫn không ngừng đeo đuổi bà, khi dụ dỗ, lúc cưỡng bức nhưng vẫn không đạt ý nguyện. Vậy bây giờ bà đã đồng ý rồi chăng?

           Hương khói nghi ngút. Tiếng cười nói rộn rã. Lúc mọi người ăn uống no say xong, bà thắp một tuần nhang vái trước bàn thờ chồng và nói với tất cả mọi người.

         - Khi chồng mới mất, tôi đã bị lý trưởng giở trò sàm sỡ. Nghĩ đã thất tiết với chồng nên tôi muốn về nơi chín suối, nhưng ngặt một nỗi con còn nhỏ. Bây giờ, con đã lớn, việc nhà thu xếp đã xong, tôi tự quyết định chuyện của tôi với ông lý trưởng.

          Vừa dứt lời, bà vạch áo dùng dao cắt phăng bên nhũ bộ bị lý trưởng làm nhục và ném thẳng vào mặt y. Rồi tiện tay, bà đâm dao vào cổ mình tự vẫn!

         Ai nấy đều khiếp đảm.

          Biết có bà mẹ khí phách như thế nên ông Thuyết rất mến phục Nguyễn Cao.

       Ngay ngày đầu tiên về đây dưỡng bệnh, ai nấy đều hoảng sợ trước tính nết nóng nẩy của ông Thuyết. Đêm đã khuya khoắt. Bốn bề yên tĩnh. Ông Thuyết đang ngồi tư lự bên án thư, bỗng có tiếng khóc của trẻ con, tiếng vợ mắng chồng sa sả vọng đến. Ông giật mình:

       - Đạo vợ chồng như thế, lỗi tại ai? Gông cổ chúng lên cho ta.

        Mọi người răm rắp tuân lệnh. Đuốc sáng rực làng. Tiếng gọi nhau í ới như có giặc vào làng!

         Lát sau, vợ chồng trẻ sụp đầu dưới chân ông, khóc:

        - Bẩm, từ rày về sau con không dám để quan lớn phải rác tai nữa!

          Ông bảo:

       - Vợ  mắng chồng, lỗi của vợ một, nhưng của chồng là mười. Đàn ông không biết dạy vợ thì còn làm được gì trên đời?

             Nói xong, ông ra lệnh cho lính nọc người đàn ông tội nghiệp ra trước sân và phạt hai mươi gậy.

             Biết tính của ông nên không ai dám can, họ lẳng lặng làm theo mệnh lệnh của ông. Bóng trăng nhợt nhạt trên nền trời sẫm. Rạng sáng hôm sau, lúc nắng lên quá ngọn tre, có tiếng chim hót vang. Ông Thuyết nai nịt gọn gàng, đang định bước chân ra khỏi tư dinh thì nghe tiếng chó sủa vang! Ông bực mình lắm, quát:

      -  Xích mồm nó lại!

         Rồi gằn giọng:

         -Từ rày về sau, ta không muốn nghe những thứ âm thanh hỗn tạp như thế nữa!

         Mọi người răm rắp thực hiện ngay! Do đó, dân trong làng nhiều người rất ghét ông. Họ bịa ra nhiều chuyện để chê bai tính nết cộc cằn, độc ác của ông. Bỏ mặc ngoài tai những lời ong tiếng ve, ông Thuyết hàng ngày vẫn đơn độc lui tới những nơi nào ông thích.

       Nghe tin ông Thuyết tự ý bỏ mặt trận Thái Nguyên về Bắc Ninh, vua Tự Đức sửng cồ, bực bội, đánh giá đó là hành động của kẻ kiêu căng, là đùn đẩy nhiệm vụ cho người khác nên giáng bốn cấp lưu! Mức kỷ luật như thế này đã khiến ông Thuyết buồn bực, đem tâm sự này kể cho Nguyễn Cao, người bạn vong niên chia sẻ:

Ngán thay tạo vật, cho ta sống làm gì?

Đã không đi được ngàn dặm như ngựa ký

Lại không bay được lưng trời như chim le

Đã không bằng chim cắt một vút tầng mây xanh thẳm

Lại không bằng con báo từng giấu mình trong sắc rằn ri

Ngán thay tạo vật cho ta sống làm gì?

       Ngẫm ra thấy lời Nguyễn Cao nói có lý nên ông Thuyết những muốn trả hết mọi chức tước để về ẩn dật, về vui với câu kinh tiếng kệ! Sống mà không thỏa chí bình sinh của mình thì đi tu, thoát ngoài vòng cương tỏa cũng là điều hay.

      Do đó, đầu năm 1877, một lần nữa, ông dâng sớ: “Nay bệnh tật trầm trọng, không thể một mình đảm đương được việc biên cương. Xin chuẩn cho Hoàng Kế Viêm cai quản cả biên giới Bắc Kỳ. Hạ thần nghĩ mình là kẻ bất tài, không đủ sức gánh vác trọng trách mà đế vương tin cậy đặt trên vai, xin được về quê nhà đi tu”. Nhà vua phê: “Trốn vào chùa để không làm việc nước, chẳng phải là việc đáng khen. Nếu ngươi sức kém thì tại sao ngươi hăng hái đi Thái Nguyên, rồi lại bỏ về Bắc Ninh? Việc nước đang bề bộn thì ngươi đùn cho Viêm, Viêm đùn cho ngươi, thế là nghĩa lý gì?”. Nhà vua bác bỏ nguyện vọng của ông, nhưng cho phục hồi chức vụ cũ, ban lại tước Nam và buộc ông phải tiếp tục việc quân ở Bắc Kỳ.

           Nhận được tin ngày, ông Thuyết tặc lưỡi:

           -Lên voi xuống chó cũng là lẽ thường tình vậy!

           Tình hình biên giới ngày càng rối ren hơn.

       Cả ông Thuyết lẫn ông Viêm bị đưa ra đình thần nghị tội. Cả hai người đều bị vua Tự Đức giáng cấp. Rồi mãi đến năm 1878 biết ông Thuyết thật sự bị bệnh, nhà vua mới cho phép về dưỡng bệnh tại Thanh Hóa. Trong thời gian này, bà cả không đi theo ông mà phải ở tại Huế để trông nom cho cha chồng đang già yếu. Sợ bà hai  không thể đảm đương công việc “nâng khăn sửa túi” giúp chồng, do đó một lần nữa bà cả lại xin cha mẹ chồng cưới vợ ba cho ông. Bà ba quê ở làng Kim Luông (Huế), vóc người nhỏ nhắn rất xinh đẹp. Chính ông cũng bất ngờ trước ý định này. Khi bà ba đến Thanh Hóa thì trong phút lần đầu gặp mặt, ông chỉ gật đầu, không rõ có đồng ý hay không, rồi tiếp tục công việc của mình.

         Không gian yên tĩnh, nằm hoài một chốn khiến ông cảm thấy như chồn chân. Chỉ nghỉ ngơi dăm hôm là người ta đã thấy ông đi khắp nơi. Ông đi đâu? Đi liên lạc với các sĩ phu văn thân trong tỉnh. Người hiểu nhất tâm sự của ông trong lúc này là tiến sĩ Tống Duy Tân, đồng trang lứa với ông. Ông Tân do bất mãn thái độ nhu nhược của triều đình nên bỏ chức tri phủ Vĩnh Tường, lui về quê ở ẩn. nước vào trong nhà ông Tân, thấy có treo câu đối:

           Không gì bền bằng: lấy núi làm vách, lấy suối làm ao, mây nước nhởn nhơ ngoài cõi thế;

       Chỉ riêng vui có: cửa sổ gió mát, ngoài sân trăng soi, cúc tùng thong thả chốn cố châu. (*) Lãng nhân dịch.****

         Ông Thuyết biết đây là người có chí khí, khẩn khoản khuyên ông Tân ra nhận chức Đốchọc Thanh Hóa. Rồi khi bàn luận việc nước, cả hai ông đều lấy làm tâm đầu ý hợp. Ông Thuyết cho rằng, giặc Pháp không chỉ dừng lại ở hòa ước đã ký mà chúng còn sẽ tiếp tục lấn tới nữa. Vậy, chiến lược cứu nước trong thời gian sắp tới là phải tính kế hoạch xây dựng căn cứ kháng chiến lâu dài trên từng địa bàn. Suy nghĩ này có được  là do trong những ngày cầm quân tác chiến trên mặt trận biên giới phía Bắc, ông nhận ra phong trào khởi nghĩa của nhân dân rất mạnh mẽ. Thay vì chĩa mũi giáo vào triều đình nhà Nguyễn, họ tập trung đánh đuổi bọn Pháp tặc, thì chắc chắn sẽ tạo nên một sức mạnh tổng hợp. Vì thế, ít lâu sau ông Thuyết lại tác động triều đình đưa ông Tân đi nhận chức Chánh sứ Sơn phòng Thanh Hóa để trù liệu những việc lớn sau này…

        Những tưởng sẽ còn được nghỉ ngơi dưỡng bệnh, nhưng đến tháng 8.1881 do tình hình trong nước đang gặp nhiều khó khăn về nội trị và ngoại giao, vua Tự Đức cho gọi ông về triều. Lúc gặp mặt, vua Tự Đức làm mặt giận, không cho vào chầu, ông phải dâng biểu tạ lỗi. Dăm ngày sau, nhà vua xuống dụ, trong đó có đoạn viết: “Nguyên Thự Tổng đốc sung Hiệp đốc Tôn Thất Thuyết bị bệnh đã lâu, trước ta đã chuẩn cho giải chức để về điều trị, nhiều lần được ta cấp thuốc thang và thăm hỏi. Nay ta biết Thuyết đã khỏe, lại đang gắng sức để báo đáp ơn sâu. Vậy nay ta bổ Thuyết giữ Thượng thư bộ Binh để cho xứng chức”.

           Trở về Huế, ông Thuyết như khỏe ra. Gió sông Hương dìu dịu mỗi chiều đã gợi lại trong tâm tưởng những kỷ niệm tươi đẹp ngày niên thiếu. Bao giờ quê nhà cũng thân mật với từng con người đã chôn nhau cắt rốn nơi ấy. Tuy nhiên, trong công việc hàng ngày, ông Thuyết cảm thấy mình không còn tự do, thoải mái như trước. Lúc cầm quân ngoài sa trường, một mình một cõi, tiền hô hậu ủng, còn nay thì không thể. Bên cạnh ông có quá nhiều quan đại thần khác mà chưa hẳn ông đã hiểu họ và họ đã chia sẻ với những ý định của ông. Thôi thì, trong phúc có họa, biết đâu?

         Trong thời gian này, ông Thuyết có tin vui là bà vợ ba sinh được một con gái, phải ở nhà trông con mọn. Thế là một lần nữa, bà cả lại thuyết phục chồng chấp nhận để bà cưới thêm bà thứ tư cho ông! Không thể khước từ tấm lòng chu đáo của bà vợcả, nên ông đồng ý.

          ****

           Tiếng pháo nổ vang trời, trong khói mù mịt có tỏa ra hương thơm đến nôn nao. Xác pháo ngập đường đi. Người ta đi xem đám cưới đông như trẩy hội. Ngồi trên kiệu vàng về nhà chồng, cô dâu tủi thân khóc thút thít. Trong ngày đại sự như thế này mà chú rể lại vắng mặt. Nghe đâu chàng đang bận việc triều đình, thôi thì chỉ biết thế, bên nhà gái cũng không ai nỡ trách.

        Hình bóng người vợ trẻ vừa thoáng hiện qua thì ông Thuyết đã gạt phắt khỏi trí nhớ, để tập trung suy nghĩ. Trong buổi nghị triều chiều nay, trời nóng bức, không khí vắng lặng như tờ, các quan đại thần cũng uể oải nhưng tất cả đều giữ nét mặt nghiêm trang. Vua Tự Đức mệt nhọc:

       - Bầy tôi Hoàng Diệu từ Hà Nội vừa dâng biểu cho ta, đề nghị không chỉ phòng thủ thành Hà Nội mà còn phải bố trí cả vòng ngoài nữa. Tức là phòng bị thượng du để bảo vệ trung châu, vì bọn giặc chỉ sở trường dưới nước chứ đánh nhau trên núi chỉ là sở đoản. Ngoài ra, phải phối họp với cả Thống đốc quân vụ Hoàng Kế Viêm đem quân từ Sơn Tây về Hà Nội để đối với tình thế! Các khanh nghĩ như thế nào?

              Chưa ai vội có ý kiến. Họ phân vân không rõ Pháp đã trả lại tỉnh thành Hà Nội cho triều đình Huế, nhưng đó là thực tâm hay chỉ là một đòn phù phép nào đó? Mọi người đều biết, ngày 25.3.1882, từ Sài Gòn, trung tá tổng chỉ huy Henri Riviere tập hợp hai đại đội thủy quân lục chiến của thiếu tá Chanu, 30 thủy quân của đại úy Thesmar, 20 pháo thủ… và một y sĩ là Maget đã đi trên hai chiến tàu Drac và Primauguet hăm hở ra Bắc Kỳ. Nhưng ra với mục đích gì? Họ không biết trước ngày lên đường, Thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Vilers hào phóng rót cho Henri Riviere ly rượu sâm banh hảo hạng và chỉ thị:

          - Theo quan điểm của chính phủ Pháp, thì đây không phải là một cuộc chiến chinh phục, mà là một cuộc khuếch trương, củng cố thế lực của Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ một cách hòa bình và khéo léo…

          Tuy nói thế, nhưng y cũng không quên kề tai viên trung tá này, nói khẽ:

          - Chỉ nên sử dụng võ lực khi thấy thật cần thiết…

         Đến Hà Nội, lực lượng hùng hậu này đã phối hợp hai đại đội thủy quân lục chiến đóng tại Đồn Thủy đang bảo vệ tòa Lãnh sự Pháp – do Thiếu tá Berthe De Villers chỉ huy - để ngang nhiên tỏ thái độ uy hiếp thành Hà Nội khiến vua tôi hết sức lo lắng.

           Nhưng tại sao chúng lại ra Hà Nội lần thứ hai? Vua Tự Đức cay cú:

       - Tình hình không tồi tệ đến nước này, nếu quân Cờ đen đừng phá bĩnh như vừa rồi!

          Nhà vua phán như thế vì sáng ngày 8.10.1881, hai tên lái buôn Courtin và Villeroi được giấy thông hành đi Vân Nam, nhưng khi chúng đến gần Lào Cai thì bị quân Cờ đen tấn công nên không thể tiếp tục đi được nữa. Lấy cớ này, Le Myre de Vilers viết thư gửi cho triều đình Huế phàn nàn “Đất Bắc Kỳ loạn lạc, luật nhà vua không được ai tôn trọng. Người Pháp có giấy thông hành của quan nước Nam cấp, nhưng đi đến đâu cũng bị quân Cờ đen cản trở; còn ở Huế thì quân Việt Nam lại thất lễ với quan Khâm sứ Rheinart”, rồi giở giọng hăm dọa: “Vì thế nước Pháp phải tìm mọi cách để bảo vệ quyền lợi của mình”. Điều mỉa mai dưới lá thư này, y còn thòng thêm một câu mềm mỏng rằng sự việc diễn ra là ngoài ý muốn chứ “Nước Pháp không hề muốn chiến tranh…”!

         Trước tình hình này, ngay từ lúc mới nhận chức Tổng đốc Hà Ninh, ông Hoàng Diệu đã quyết định cho đắp tường thành Hà Nội lên hơn 1,50 mét, có đoạn cao hơn; bồi bề dày từ 0,6 mét đến 0,8 mét và cho khoét thêm nhiều lỗ châu mai để sẵn sàng đánh trả lại sự tấn công của giặc! Mặt khác, ông cũng tìm cách ổn định đời sống của dân chúng. Ngay ở Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, ông cho dựng tấm bia Thân cấm khu tệ (Lệnh cấm trừ tệ) nhằm ngăn chặn các tệ nhũng nhiễu đối với nhân dân trong các dịp ma chay, cưới xin cũng như nạn vòi tiền, cướp bóc trên sông và ở các chợ, kèm theo các quy định cụ thể cần thi hành đến nơi đến chốn như cấm các sĩ quan Pháp vào thành Hà Nội - trừ trường hợp chính thức, v.v…

     Nhiều người không đồng ý với nhận định của vua Tự Đức khi đổ tội cho quân Cờ đen, nhưng e dè không dám phát biểu. Thấy các đại quan vẫn ngồi trơ như phỗng, nhà vua lại phán tiếp:

       - Việc làm của bề tôi Hoàng Diệu là rối rít! Phòng giữ không phải lúc! Nước chưa đến chân đã lo nhảy! Nếu ta triệt hết binh về trung châu thì lại sợ bọn phỉ đổ ra tụ tập, quấy phá thượng du. Thế là bọn Tây dương biết trước ta đang phòng bị thì sao?

         Ông Thuyết đang ngồi lắng nghe, bỗng ông ngớ người ra tự hỏi, chúng biết ta phòng bị thì có gì mà quốc vương phải lo sợ? Sự chủ động phòng bị như tđề xuất của Hoàng Diệu là tích cực vì nó sẽ khiến cho giặc chùn bước. Ta phải ủng hộ chứ! Ông thấy tim mình đập thình thịch, muốn đứng lên tranh luận lại ý kiến của nhà vua, nhưng nhìn thấy mặt các đại quan khác vẫn bình thản như không khiến ông chột dạ. Mới chân ướt chân ráo về triều mà đã… Hơn nữa, ông sực nhớ đến lời mắng của nhà vua lúc ông mới dưỡng bệnh từ Thanh Hóa về chầu:

        - Tánh tình nhà ngươi kiêu căng, nên cố gắng tu dưỡng thì mới thành người giỏi được!

         Thôi thì, ta hãy yên lặng xem sao. Giữa lúc đó, một làn gió thổi đến mát dịu. Vua Tự Đức dịu giọng:

       - Phàm mọi việc nên thu xếp khéo, chớ để động hình lộ tích. Nếu như ta im lặng để chờ họ rút đi càng tốt, còn nếu họ cứ hoạnh họe, ngang ngược thì tùy theo tình hình mà làm tròn trách nhiệm giữ đất.

          Nói xong, bất giác nhà vua ứa nước mắt:

          - Than ôi! Tiến thoái đều khó, không dự phòng thì trúng kế giặc, dự phòng mà không đúng cách cũng chẳng ích gì…

     Chính thái độ do dự này mà trung tá Tổng chỉ huy Henri Riviere càng thêm quyết tâm phải hạ thành Hà Nội.

       Sự việc diễn ra vào ngày 25.4.1882.

    Khói súng vẫn còn nồng nặc trong gió. Nắng chiều tím bầm như những vệt máu loang lổ trên bờ tường thành. Những thây người nằm ngổn ngang. Kho thuốc súng bị nội gián phóng hỏa, lửa còn cháy vẫn ngùn ngụt… Giữa lúc ấy, tưởng chừng như trút cả tâm lực mà trăng trối với hậu thế, Tổng đốc Hoàng Diệu đặt Di biểu trước ngai trống ở Hành cung, rồi ông thắt cổ chết trên một cành cây tại Võ Miếu. Người Hà Nội vô cùng đau đớn. Ngay hôm sau, nhiều người tụ họp lại, sắm sửa tử tế, rước thi hài của Hoàng Diệu từ trong thành ra, tổ chức khâm liệm và mai táng tại khu vườn Dinh Đốc Học (*)***  Nay là địa điểm khách sạn Royal Star ở đường Trần Quý Cáp cạnh chợ Ngô Sĩ Liên sau ga Hà Nội.***** và khóc bằng những lời thơ thống thiết. Mỉa mai thay, ngay sau khi Hoàng Diệu mất, Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng – lúc giặc tấn công thành giả vờ ốm, trốn chui nhủi trong Hành cung – thì nay quyết nhịn ăn để chết cho trọn lòng với nước! Nhưng chỉ nhịn được… ba ngày thì án sát sứ Tôn Thất Bá vác xác đến bàn với y cùng đứng ra nhận lại thành do Pháp giao cho, y cắm mặt xuống đất mà nhận lời!

         Cái chết oanh liệt của Hoàng Diệu đã khiến mọi người thương tiếc khôn nguôi. Đối với Henri Riviere, y thú nhận:

        - Ông ấy là người bình tĩnh và cương quyết. Nay ông chết là có lợi cho ta lắm. Do sự can đảm và ảnh hưởng của ông, nếu ông còn sống còn gây nhiều rắc rối cho ta, nhất là nếu ông liên kết với Hoàng Kế Viêm ở thành Sơn Tây!

       Tin Pháp thắng trận đã khiến dư luận chính quyền Pháp ở Sài Gòn và chính quốc ất hả hê. Triều đình nhà Nguyễn và vua Tự Đức vẫn ngây thơ tin rằng, nếu ta khôn khéo thương lượng thì giặc sẽ trả lại thành Hà Nội như chín năm trước và tình hình sẽ ổn định.

       Nhưng mọi phán đoán trên đều sai lầm.

         Nghe tin Hoàng Diệu mất, Tôn Thất Thuyết rất đau lòng. Ông nghĩ nếu lúc nghị triều, ông và các quan đại thần khác mạnh dạn hơn, dám nói với nhà vua những suy nghĩ của mình thì sự việc cũng chưa đến nỗi nào. Cắn chặt răng, ông khóc câu đối vĩnh biệt người anh hùng:

   Một chết nên danh, đâu phải chí anh hùng từ trước

   Suốt đời trung nghị, không thẹn nhìn đại cục ngày nay. (*)**** Phạm Hồng Việt dịch****


Chương sáu

       Nâng chén thuốc bổ trên tay, ngửi thấy mùi đắng nghét quen thuộc, bất giác vua Tự Đức òa lên khóc. Những cung phi mỹ nữ phải dỗ dành mãi, nhà vua đành nhắm mắt để uống. Lưỡi vừa chạm vào vị thuốc đã khiến ông rùng mình, muốn ọe. Rồi, chén thuốc cũng uống cạn, nhưng ông không sao chợp mắt được. Mở mắt thao láo nhìn vào bóng đêm, ông thấy tâm thần bồn chồn, bất ổn. Thành Hà Nội đã mất vào tay giặc Pháp. Đã thế, mạn biên giới phía Bắc bọn giặc khách lại quấy phá liên tục. Ở Nam Kỳ, tổng thống Pháp đã ký sắc lệnh thành lập Hội đồng thuộc địa dần dần ổn định bộ máy cai trị. Bao nhiêu việc rối rắm như thế đang diễn ra trước mắt, dù đau lòng nhưng ông bất lực…

           Ngay sau khi thành Hà Nội thất thủ, Trung Quốc vẫn là một lực lượng hùng hậu mà vua quan nhà Nguyễn đang hy vọng sẽ giúp cho mình. Nhưng nay họ đã chọn đi một nước cờ khác. Ngày 6.5.1882, hầu tước Tăng Kỷ Trạch - đại sứ Trung Quốc tại Paris lên tiếng đòi quân đội Pháp phải rút hết khỏi Bắc Kỳ vì nước Nam vẫn còn “thuộc quốc” của Trung Quốc! Ý kiến này không được chấp thuận vì hòa ước 1874 giữa triều đình Huế và Pháp đã ký. Phía Pháp tăng cường phòng bị, quyết không nhượng bộ, không để cho nhà Thanh “dây máu ăn phần”. Chính vì thế, chỉ một tháng sau, Tổng đốc Vân Nam núp dưới chiêu bài “tiễu trừ giặc Cờ đen” đã đưa quân ồ ạt sang Bắc Kỳ để tranh giành với Pháp, xâu xé nước Nam. Quân nhà Thanh tàn bạo ghê gớm, chúng cướp phá, hãm hiếp… bất cứ nơi nào mà chúng hành quân qua. Nhân dân oán trách nhà Nguyễn đã để cho chúng tràn vào chiếm Bắc Kỳ. Thế nhưng, vua Tự Đức vẫn không tin phía nhà Thanh “xấu chơi” như thế, ông xuống dụ để phủ dụ quan lại, quần chúng và thanh minh: “Người nước Thanh đâu có làm việc bất nghĩa như thế!”

          Dụ của nhà vua ký chưa ráo mực thì Trung Quốc đã đưa được 17 doanh quân sang Bắc Kỳ thống lĩnh Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên! Không thể chần chừ nữa, bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp Duclere tuyên bố ủng hộ kế hoạch đánh chiếm châu thổ Bắc Kỳ, còn Bộ trưởng Bộ Thuộc địa và Hải quân Pháp Jaure Guiberry vận động nghị viện Pháp thông qua ngân sách cần thiết cho cuộc viễn chinh sắp tới.

         Vì thế, đầu năm 1883, sau khi có thêm viện binh, Henri Riviere lập tức tung quân đánh chiếm vùng mỏ Hòn Gai, Quảng Yên nhằm khống chế và bảo đảm quyền lợi của người Pháp trên vùng biển Bắc Kỳ. Thừa thắng xônglên, chúng lại kéo quân từ Hà Nội xuống đánh chiếm Nam Định…

           Đang giữ chức tượng thư bộ Binh, phụ trách toàn bộ việc quân của triều đình, Tôn Thất Thuyết phải nghĩ đến biện pháp đối phó. Theo ông, trước hết phải chiếm lại thành Hà Nội, vì đây là đất yết hầu của Bắc Kỳ, từ nơi đây có thể tung quân để khống chế được nhiều nơi khác… Với chiến thắng oanh liệt năm 1873 vẫn còn in đậm trong tâm tưởng, ông Thuyết liền nghĩ đến đại tướng Lưu Vĩnh Phúc. Ông mật lệnh cho Hoàng Kế Viêm phối hợp với quân Cờ đen điều quân từ Sơn Tây về đóng tại phủ Hoài Đức. Lưu đại tướng đồng ý đứng chung chiến tuyến. Nhưng Lưu không có mục tiêu cao cả và chính nghĩa như quân của Hoàng Kế Viêm mà vì lý do khác. Đó là do tham vọng gây áp lực với giặc Pháp trong việc xâu xé nước Việt, nhà Thanh bí mật hạ lệnh cho quân Cờ đen phải giết hết số dân theo đạo ở Bắc Kỳ để làm hậu thuẫn trong khi thương lượng. Theo chúng, “Chúng ta không thể hy vọng đánh thắng được người Pháp một khi ở Bắc Kỳ đang còn số dân theo đạo Gia tô. Chính nhờ bọn giáo dân và bọn giáo sĩ mà kẻ thù của chúng ta đã nắm được tình hình xứ này, đã nắm được sự bố phòng mà chúng ta buộc phải công khai xếp đặt để chiến đấu, và một khi sắp sửa hành động thì chúng ta thấy rằng mọi kế hoạch của chúng ta đều bị bại lộ cả. Bởi vậy, trước hết chúng ta phải tiêu diệt hết bọn giáo dân, và như vậy, chúng ta dễ dàng thắng lý với người Pháp.”

          Trong ván cờ oái oăm này, về phía ta, để tránh vi phạm vào điều khoản đã ký với Pháp, lần này, ông Thuyết chỉ đạo quân triều đình không ra mặt, tất tần tật mọi thứ đều xem như là một hoạt động bộc phát của quân Cờ đen! Từ phủ Hoài Đức, đêm đêm liên quân Việt và Cờ đen câu đại bác vào thành để tạo thế áp sát Hà Nội. Hoảng hốt trước vành đai này ngày càng siết chặt, Henri Riviere rút quân từ Nam Định về Hà Nội. Những trận đánh của liên quân liên tục tấn công vào nhà thờ, đồn bót, lãnh sự Pháp… Vốn là người nóng tính, tự phụ, Henri Riviere giận đến run người. Và y bị kích động đến tột bực khi rạng sáng ngày 4.5.1883, thấy bản thông báo được dán ngay trước cổng thành Hà Nội và nhiều nơi khác với nội dung như sau:

       “Ta là Lưu Vĩnh Phúc, đại tướng bách chiến bách thắng tuyên cho bọn Pháp các ngươi biết rằng: Ta chỉ coi các ngươi là bọn giặc tầm thường, không một quốc gia nào thèm đếm xỉa đến.

           Các ngươi nói rằng đến đây để bảo vệ tôn giáo của các ngươi là điều dối trá, thực ra các ngươi chỉ là lũ sài lang đói khát đến cướp phá xứ sở của ta. Bụng dạ của các ngươi không thua gì hổ báo.

         Từ khi kéo đến nước Nam, các ngươi đã cướp phá biết bao thành trì và giết chết biết bao quan quân, lê thứ. Tội ác của các ngươi nhiều như tóc trên đầu không sao kể xiết.

             Phạm nhiều tội ác như vậy, các ngươi phải chết! Trời đất quỷ thần nào dung cho các ngươi! Hôm nay ta được lệnh tiễu trừ các ngươi đến cùng. Quân ta đi rợp đất, cờ ta bay lòa mây, gươm súng ta nhiều như cây cỏ trên rừng.

           Ta sẽ đến tận sào huyệt của các ngươi để diệt trừ một lần cho xong, nhưng nghĩ đến sinh mạng và tài sản dân chúng là điều trọng hơn cả, do đó ta không muốn dùng thành Hà Nội làm bãi chiến trường. Nay ta gửi lời đến cho bọn giặc cướp các ngươi rằng, nếu nghĩ mình tài giỏi thì các ngươi hãy đến Phủ Hoài.

         Quân đội các ngươi như diều, như quạ thì hãy đo tài, thử sức với nghĩa binh của ta để biết ai can đảm và ai sẽ là người chiến thắng.

             Nếu các ngươi sợ không dám đến thì nhanh chóng gửi đến doanh trại của ta: đầu của tên tư lệnh, đầu của tên tiểu đoàn trưởng, đầu viên lãnh sự, đầu các đại úy pháo binh và các võ quan khác rồi nộp thành cho ta! Ta hứa sẽ tha tội chết để các ngươi về châu Âu toàn vẹn. Ta hứa sẽ không đuổi bắt các ngươi để trị tội.

        Còn nếu như các ngươi chậm trễ, ta sẽ đến tận chốn của các ngươi. Như thế thì sẽ không kẻ nào được dung tha, ngay cả ngọn cỏ, lá cây cũng phải nát.

          Các ngươi gần cái chết!

         Nghĩ cho kỹ!

Ngày 4 tháng 4 năm Tự Đức thứ 36

Đại tướng Lưu Vĩnh Phúc

         Henri Rivière nghiến răng kèn kẹt. Quả là một sự sỉ nhục, láo xược! Y nhổ toẹt bãi nước bọt vào bản thông báo này. Chưa hả giận, y vung tay bóc lấy nó, xé nát. Từng mảnh vụn của bản thông báo bay vật vờ theo gió…. Quay gót vào thành, y lên kế hoạch đối phó. Từ 5 giờ sáng ngày 19.5.1883, y đã ra lệnh xuất phát. Trên đường đi Phủ Hoài, quân đối phương đang ẩn nấp sau những lũy tre dày đặc, đường đi bị đắp ụ nhiều quãng thành những chướng ngại vật khiến quân Pháp không thể xông xáo dễ dàng.

        Bất thình lình súng nổ vang!

         Các hướng quân của y đã sập vào bẫy mai phục của đối phương ngay tại Cầu Giấy. Trận đánh kéo dài suốt trong hai tiếng đồng hồ. Henri Rivière tử trận cùng 100 binh lính và sĩ quan chết hoặc bị thương. Chỉ trong nháy mắt, cái đầu của Henri Rivière đã bị lính Cờ đen chặt, đem nộp cho Lưu Vĩnh Phúc.

          Chiến thắng này đã làm nức lòng dân quân cả nước. Trong khi giặc Pháp đang sa lầy ở Bắc Kỳ, nghĩa quân tại Nam Kỳ khắp nơi nổ ra những cuộc nổi dậy trên bình diện rộng - từ Sài Gòn, Gia Định, Mỹ Tho đến Vĩnh Long, Bến Tre, Sa Đéc, Long Xuyên… Trong khi đó, dù vua Tự Đức thăng cho Lưu Vĩnh Phúc làm Đề đốc, ban cho mão quan Chánh nhị phẩm và một cái kim bài có khắc chữ “Trung dũng”, các quan quân khác cũng được thưởng rất hậu, riêng Tôn Thất Thuyết được cử vào Viện Cơ mật, nhưng nhà vua cũng ra lệnh ngừng tấn công để đàm phán!

       Tại Pháp, khi nghe tin báo Henri Rivière đã đền tội, cả Paris rung động, bàng hoàng. Chính phủ Pháp do dự nên rút lui hay vẫn tiếp tục xâm chiếm bằng mọi giá? Cuối cùng, khi hay tin vua nước Nam hạ lệnh cho quan quân án binh bất động thì Quốc hội Pháp nhanh chóng đồng ý trích 5 triệu rưỡi France để lo binh phí và cử một quan văn giữ chức Toàn quyền đối phó với mọi tình huống cả hai mặt quân sự lẫn dân sự tại Bắc Kỳ. Một nhân vật mà chính phủ Pháp đánh giá là “người của thời cuộc” được đưa lên vũ đài chính trị là Harmand - sứ thần của Pháp đang ở tại Bangkok. Mọi việc thuận lợi vì y là chiến hữu của Francis Garnier, từng tham chiến tại Bắc Kỳ. Để hỗ trợ cho y, chính phủ Pháp còn đưa trung tướng Tư lệnh Bouet sang điều hành các cuộc hành quân xâm lược.

          Ngày 7.6.1883, Bouet kéo quân rầm rộ ra Bắc Kỳ và bắt đầu những cuộc đánh phá quyết liệt.

             ****

         Phóng tầm mắt nhìn qua dòng sông Hương, ông Thuyết bồn chồn không yên. Tình hình ở Bắc Kỳ liên tục cấp báo về triều đình theo chiều hướng ngày một xấu hơn. Các cánh quân của Bouet liên tục đụng độ với liên quân Việt - Cờ đen và luôn giành được thắng thế trên chiến trường. Quan quân ta không thể đối đầu với vũ khí tinh nhuệ, phương tiện phục vụ cho chiến tranh hoàn hảo và nhất là với đội quân xâm lược nhà nghề được huấn luyện chu đáo. Để nắm thêm tình hình ngay tại Hà Nội, ông Thuyết cho gọi án sát sứ Tôn Thất Bá về kinh. Bá là người cùng Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng được Pháp giao giữ thành Hà Nội ngay sau khi Hoàng Diệu tuẫn tiết. Dù khinh Bá ra mặt, nhưng ông vẫn sử dụng để thông qua đó nắm được mọi động tĩnh của đối phương.

       Cậy mình là người được phía Pháp tin cậy, trở về kinh, Bá ngông nghênh không coi ai ra gì. Đến Huế, Bá không vào chầu ngay mà lén lút thậm thụt trong tòa Khâm sứ với Rheinart. Viên đại úy này là người đầu tiên giữ chức “đặc phái viên ngoại giao” của chính phủ Pháp chính thức đóng tại Huế, tiền thân của “chế độ khâm sứ” sau này, do đó thế lực của Rheinart rất lớn. Dù dựa vào thế lực này, tuy thế, khi diện kiến quan đại thần đứng đầu Viện Cơ mật, Bá không đứng thẳng, mà y luôn quỳ mọp dưới đất, bởi y biết thân phận của mình và nghe nói ông Thuyết là người rất cục cằn, rất nóng tính nên Bá đâm ra sợ sệt! Vẫn miệng lưỡi xun xoe, Bá ca ngợi tài cầm quân của ông và có đọc bài thơ chúc tụng. Nhưng vần thơ của Bá vừa phun ra, ông Thuyết đã gạt phắt:

          - Thơ với thẩn! Những thứ ấy có cần thiết trong lúc dầu sôi lửa bỏng này không?

         Bá tẽn tò im lặng. Lại hỏi:

         - Thế ngươi đánh giá tình hình ra sao, nhất là sau khi thiếu tướng Bouet ra Bắc?

        Bá rụt rè:

        - Bẩm quan đại thần, nếu ngài cho phép thì tôi xin nói!

        Ông Thuyết quả quyết:

         - Ngươi cứ nói. Trong binh thư có dạy, “Biết người, biết ta trăm trận trăm thắng”. Ngươi ăn cơm Tây đã mòn răng, chẳng lẽ không biết được tương quan lực lượng của ta và chúng hay sao?

          Bá lúng túng. Chuyện này vượt khỏi tầm suy nghĩ của y. Y chỉ biết, lực lượng của chúng hùng hậu quá, hỏa lực của chúng dữ dội quá. Mà phía ta thì nào có gì? Có gì ngoài gươm cùn, giáo gãy hoặc dăm ba khẩu đại bác cổ lỗ thì làm nên cơm cháo gì! Suy nghĩ chín chắn như thế, Bá nói thẳng ruột ngựa:

        - Sức người Pháp mười phần, ta chỉ có hai phần.

        Câu nói vừa dứt, ông Thuyết đỏ mặt tía tai, đùng đùng nổi giận. Ông chỉ tay vào mặt Bá nói như tát nước vào mặt:

         - Lộng ngôn! Quan quân nước Nam ai cũng suy nghĩ như ngươi thì còn gì đất với nước! A! Những ngày ngươi ở kinh, ngươi gặp ai cũng rỉ tai như thế phải không?

         Bá ấp úng như gà mắc tóc. Ông Thuyết hét:

         - Nói những lời nhu nhược ấy để quan quân nhụt chí, mềm lòng thì bị ghép vào tội gì?

         Bá ú ớ. Lại nghe như tiếng sét nổ bên tai:

        - Quân đâu! Gông cổ lại cho ta!

        Ngay lập tức, Bá bị trói lại và tống vào lao Thừa Phủ.

       Các quan trong triều khiếp đảm. Đứng trước tình hình giặc Pháp quyết lấy cho bằng được các tỉnh Bắc Kỳ, nhiều người đã nghĩ đến biện pháp đàm phán để giữ đất, nhưng trước thái độ cương quyết của ông Thuyết nên không ai dám hé răng. Giữa lúc dầu sôi lửa bỏng nhất thì ông được lệnh phải vào điện Cần Chánh chầu vua Tự Đức.

       Khi ông đến nơi thì đã có Nguyễn Văn Tường và Trần Tiễn Thành đang đứng chầu. Nhà vua vẫn nằm trên long sàng, nhìn vào mặt ông Thuyết:

         -Ta biết, Hiến tổ Chương hoàng đế đang gọi ta về chầu. Chỉ nay mai hoặc cũng có thể ngay bây giờ ta phải đi thôi. Mọi việc triều chính, ta giao cho các khanh. Đừng phụ lòng tin của ta nơi suối vàng. Ta cử các khanh giữ chức Phụ chính đại thần! Các khanh nghĩ sao?

       Cả ba người dù không hội ý trước, nhưng cùng đồng loạt hô lớn:

     - Hoàng thượng vạn tuế!

         Nhà vua ứa nước mắt. Vạn tuế à? Sống đến ngàn tuổi à? Chỉ mới sống trên đời có năm mươi tư năm mà ta đã mệt mỏi lắm rồi. Sống nhiều càng thêm nhục chứ hay ho gì? Ba mươi sáu năm ngồi trên ngôi báu, ta đã làm được gì? Trong tâm thức của nhà vua bỗng gợi lại những ngày tháng cũ đã trôi qua nhanh như bóng câu vụt ngoài cửa sổ. Ta đã ký với Tây dương hiệp ước ngày 5.6.1862, hiệp ước 15.3.1874 để biến toàn bộ Nam Kỳ lục tỉnh thành thuộc địa của chúng. Mà nào đã hết, những văn bản sắp ký nữa, lại hoàn toàn bất lợi cho nước Nam! Chao ơi, ngàn năm sau có ai hiểu cho ta?

           Thời khắc chậm rãi trôi qua.

          Như sực tỉnh, nhà vua nói:

          - Ta trao lại cho các khanh di chiếu lập người kế vị. Các khanh phải làm đúng theo lòng mong mỏi của ta.

        Hơn ai hết, chỉ riêng ngài mới rõ trong lòng còn rối tơ vò như thế nào, khi đặt bút viết di chiếu. Do không có con nên ngài đã dưỡng dục ba đứa con nuôi Dục Đức, Chánh Mông và Dưỡng Thiện. Ngài phân vân ghê gớm khi quyết định chọn Dục Đức để truyền ngôi. Đó là Nguyễn Phúc Ưng Ái, sinh năm 1853 – con trai của Nguyễn Phúc Hồng Y và bà Trần Thị Nga. Hồng Y là con trai thứ tư của vua Thiệu Trị và là em trai của Tự Đức. Khi chọn làm con nuôi, nhà vua đã đổi tên Ưng Ái thành Ưng Chân, phong Thụy quốc công và lập Dục Đức đường để ở ngoài cửa Hiển Nhơn để Ưng Chân trọ học.

       Trong giọng nói thều thào, khàn hơi ấy, các quan phụ chính đại thần còn nghe cả tiếng nấc.

        Ông Thuyết rụt rè:

        - Tâu hoàng thượng, ngôi kế vị là Thụy quốc công ư?

        Nhà vua quắc mắt, tỏ ý giận dữ, nghĩ thầm: “Hừ! Ưng Chân, thằng này chỉ được cái lớn tuổi, đã 30 xuân, đủ khôn ngoan để đảm đương việc nước, nhưng lại ham chơi bời tửu sắc, ít chịu dùi mài kinh sách. Còn nếu trao cho hai đứa kia thì chúng còn nhỏ quá, ăn chưa no lo chưa tới, hỉ mũi chưa sạch thì làm nên trò trống gì!”

         Nén lòng không nói ra điều đó, giây lát sau ngài nói tiếp:

        - Ta có hỏi ý kiến hoàng thái hậu thì người khuyên ta nên chọn Thụy quốc công. Ý kiến của mẹ ta chắc cũng đồng với suy nghĩ của các khanh?

        Vốn khôn khéo và thận trọng, ông Tường lại hỏi:

          - Bẩm hoàng thượng, hoàng thái hậu dạy như thế nào ạ?

       Nhà vua lại thở hắt ra:

         - Người nói rằng, chọn được người lớn tuổi làm vua là điều may cho xã tắc.

          Thấy không ai có ý kiến gì, nhà vua nói tiếp:

       - Thôi thì, mọi việc cứ như thế mà các khanh làm theo. Đọc di chiếu của ta các khanh nghĩ sao?

          Được lời như cởi tấm lòng. Có một điều mà các quan đại thần muốn nói ra, bây giờ được gợi ý, họ mới dám hé răng. Quả thật, trong di chiếu có đoạn nhà vua nhận xét không mấy tốt đẹp về Ưng Chân. Nên bỏ đi chăng? Ông Thành thưa:

         - Bẩm, hạ thần nghĩ rằng đã đưa Thụy quận công lên ngôi đế vương thì xin hoàng thượng độ lượng cắt bỏ đoạn nhận xét…

         Chỉ mới nghe nói thế, nhà vua như chạm vào nỗi ưu tư thầm kín:

       -Tất cả có 41 chữ (*)****Chữ Hán/*/***** của ta nhận xét về Ưng Chân. Ta rất đau lòng khi phải viết ra như thế. Nhưng tại sao lại phải bỏ đi? Cần phải giữ lại để nhắc nhở. Ta hy vọng nhờ vậy mà Ưng Chân sẽ tu dưỡng tâm tính.

       Không ai dám xin nữa.

         Như một ngọn đèn phụt lên sáng lòa để rồi tắt hẳn, nhà vua bỗng tỉnh táo lạ thường:

        - Trăm năm là ngắn nhưng một ngày lại dài. Cõi tạm này ta sắp rời để về sống thiên thu trong Khiêm lăng. Trong những ngày này, ta đã viết được bài thơ Mạn ca, nay trăn trối lại cho các ngươi.

          Ai nấy đều xúc động. Nhà vua thì thào, nhưng lạ thay đến bốn câu cuối thì giọng đọc của ông lại to hơn:

Tâm này lại bị hình chi phối,

Trong cõi phù sinh vất vả này

Suốt trọn cuộc đời danh chẳng để,

Chỉ mang tiếng xấu giữa trời mây. (*)*** Nguyễn Quang Trung Tiến dịch****

        Câu thơ vừa dứt thì nhà vua tắt thở. Lúc đó là giờ thìn. Đó là ngày 19.7.1883.


Chương bảy

       Dòng sông Hương trong vắt. Con thuyền bập bềnh trôi trên sông nước. Bóng trăng thẹn thùng thoáng ẩn thoáng hiện trong mây. Trong cơn say ngất ngưởng, Ưng Chân nằm gối đầu lên đùi non ca nhi để tận hưởng tiếng hát ngọt lịm như mía lùi. Con người sống bao lăm lắm mà cứ phải lao tâm khổ tứ? Mọi vệc đã có thiên địa sắp đặt đâu ra đó rồi. Tranh mà chi? Giành mà chi? Như ta, học hành chỉ lớt phớt, đọc chữ “tác” ra chữ “tộ” nhưng ngón nghề cầm, kỳ, thi, tửu thì ai hơn ta? Nghĩ thế, Chân cười khà sảng khoái. Tiếng ca lênh đênh trong gió:

Ví dầu thầy mẹ có đan rọ thả trôi

Thả trôi thì thả, thiếp không thôi nghĩa chàng.

Cao hứng, Ưng Chân ngồi dậy hát theo:

Ví dầu thầy mẹ có đánh roi chín chục một trăm

Đánh rồi thiếp dậy thiếp vẫn nhất tâm thương chàng.

       Có những tiếng cười nhão nhoẹt nhão nhoét vọng lên. Cuộc vui kéo dài thâu đêm suốt sáng. Từ ngày này kéo qua ngày nọ. Sau khi nhờ cậy bà Từ Dụ và thứ thiếp thứ ba của vua Tự Đức là bà Trang Ý vận động, Ưng Chân đã được chọn làm người kế vị. Nghĩ mọi chuyện đã xong, y càng chơi bơi hoang đàng. Do đó, các quan đại thần đều tỏ ý khinh miệt. Mà không khinh miệt sao được, khi mà năm 1876, Ưng Chân giao du với Thái y viện Nguyễn tán để tìm thuốc tăng cường sinh lực, bị phạt cắt bổng lộc một năm. Rồi năm 1882, y lại sai thị vệ Nguyễn Văn Thành giả lệnh của thái hậu đưa gái đến Dục Đức đường để hành lạc, sự việc này bị phát giác, bị cắt bổng lộc hai năm. Nhưng những điều này chưa ghê gớm bằng trong thời trọ học ở Dục Đức đường, để có tiền tiêu xài, y đã bán nhiều tài liệu quan trọng của triều đình cho Khâm sứ Rheinart, trong đó có việc vua Tự Đức bí mật cầu viện Trung Hoa, trái với tinh thần của các hiệp ước đã ký!

        Trong lúc các ông Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường, Trần Tiễn Thành, Phạm Thận Duật… đang lo sốt vó về cái chết của nhà vua thì Ưng Chân vẫn bình chân như vại. Đã thế, Ưng Chân còn cho phép nhiều thành phần bất hảo tự do ra vào trong cung, rồi tổ chức bài bạc, hát xướng! Sáng nay, hai ông Thuyết, Tường vào chầu triều. Cả hai sửng sốt khi thấy Ưng Chân đang mặc áo xanh! Đó là điều cấm kỵ vì đã coi thường tang lễ đối với tiên đế vừa băng hà. Ông Thuyết bực mình lắm. Đã thế, bọn thủ túc của Ưng Chân cũng không thèm đứng dậy chào, chúng cứ đùa giỡn và tiếp tục bài bạc xem như không biết có ai trên đời này nữa! Ông Tường hỏi nhỏ:

        - Thế nào?

        Ông Thuyết nghiêm mặt:

       - Chúng không coi ta ra gì thì giữ ta lại đẻ làm gì?

         Nói xong, ông quay lưng đi chẳng ra ngoài.

        Ngay lập tức, vào buổi chiều, tại tư của ông Thuyết đã diễn ra cuộc họp nội bộ giữa các quan đại thần. Họ lập mưu giăng sợi dây thòng lọng chuẩn bị siết cổ Ưng Chân. Họ bàn tính trong buổi lễ lên ngôi, lúc đến 41 chữ nhận xét của vua Tự Đức thì ông Trần Tiễn Thành sẽ không đọc. Đó là cái cớ để họ công khai buộc tội Ưng Chân dám sửa di chiếu!

         Ngày 20.7.1883, lễ đăng quang tân quân được tiến hành tại điện Thái Hòa.

         Từ đây, ta sẽ nối cơ nghiệp của tiên đế, ngất ngưởng trên ngôi báu! Nghĩ thế, Ưng Chân tủm tỉm cười thầm. Bá quan văn võ đứng yên. Bốn bề im lặng phăng phắc. Đúng như sự phân công trước, ông Trần Tiễn Thành đọc di chiếu. Nhưng khi đến đoạn nhận xét của vua Tự Đức thì ông lướt qua, không đọc: “Nhưng Dục đức có tật ở mắt, giấu việc không nói, sợ lâu ngày không sáng suốt, tính hơi có phần tà dâm là điều rất xấu, chưa chắc đảm đương nổi việc lớn; nước có vua lớn tuổi là điều may, nếu bỏ đi thì không biết làm sao…”

        Bỗng một tiếng sét nổ ra giữa trời quang đãng:

          - Tiên đế ta phúc trạch cao như núi, sâu như biển. Lời của ngài phán ra ngàn vàng trên trần gian này cũng không sánh kịp. Hà cớ gì lời của ngài, chữ của ngài còn sờ sờ ra đó mà ông Thái bảo, Cần chánh điện Đại học sĩ lại không đọc? Có tà ý chăng!

        Ông Thành run lẩy bẩy, chết điếng cả người. Vẫn giọng nói như chuông rền của ông Thuyết:

          - Ai đã dám sửa di chiếu của tiên đế?

         Dục Đức thấy tim mình thót lại. Mồ hôi tuôn ra đầm đìa. Muốn há miệng ra, nhưng giọng ông Thuyết cương quyết đã vang lên:

         - Mời thượng quan Khâm sai đại thần đọc lại đoạn này!

         Ngay lập tức, ông Nguyễn Trọng Hợp cầm lấy di chiếu và đọc rành rẽ từng câu. Dục Đức tức lắm, nhưng cũng đành câm như hến. Chỉ đợi ông Hợp đọc xong đoạn vừa rồi, ông Thuyết cắt ngang:

           - Cả gan cắt bỏ di chiếu của tiên đế thì quả là gan hùm! Lễ mà thiếu lễ như thế ư? Tâu Thái hậu và đình thần cho ngưng lễ!

        Một hồi cồng báo bãi chầu vang lên. Dục Đức tái mét mặt mày như gà bị cắt tiết.

         Hồi cồng vừa dứt thì cũng là lúc ông Thuyết ra lệnh bắt giữ mười thuộc hạ thân tín của Dục Đức, tống giam và chia quân túc vệ canh gác trong ngoài thành nghiêm ngặt.

         Hai ngày sau, các quan đại thần và đại diện của hoàng gia có mặt tại triều để xét tội của Dục Đức. Ông Thuyết ghép tân quân bốn tội như sau: cắt bỏ 41 chữ bất lợi cho mình mà tiên đế đã viết; thông đồng với bọn gián điệp Pháp thông qua việc sử dụng linh mục Nguyễn Hữu Thơ trong hoàng cung; đã coi thường tiên đế, chứng cớ là mặc áo xanh đi vào nội cung; đã tư thông với các cung nhân của tiên đế ngay sau khi tiên đế băng hà.

        Chứng cớ buộc tội hùng hồn này vừa dứt thì không ai dám lên tiếng phản đối. Duy chỉ có mỗi một Hình khoa Chưởng ấn Phan Đình Phùng dám nói:

          - Vua có lỗi, bày tôi phải can ngăn trước đã. Chưa gì mà phế lập như thế thì làm sao phải lẽ?

         Vốn là người nóng tính, mới nghe Phan Đình Phùng nói như thế Tôn Thất Thuyết đã đùng đùng nổi giận:

          - Vua mà không giữ mình, làm sao giữ được giềng mối xã tắc? Lỗi lầm của vua sờ sờ như thế kia mà ngươi còn dám cứng họng bênh vực sao? Quân đâu! Gông cổ lại cho ta!

         Chỉ trong nháy mắt, ông Phùng bị tống giam vào ngục! Không ai dám hé răng tranh cãi điều gì nữa. Dục Đức bị giáng xuống làm Thụy quốc công và giam ngay trong Dục Đức đường, rồi chuyển sang giam tại Thái y viện. Chế độ nhà tù khắc nghiệt đã làm Dục Đức mòn mỏi dần, xin được uống một liều thuốc độc để sớm kết thúc cuộc đời. Ông Thuyết sai lính đem thuốc độc đến. Giây lát sau, người lính này bó chiếu, vác xác ông vua chỉ mới lên ngôi được ba ngày, chưa kịp đặt niên hiệu, ra chân đồi Phước Quả (làng An Cựu) vùi luôn xuống cái huyệt mà người ta vừa cải táng. Mưa nắng đi qua, nay mồ xiêu phách lạc, chẳng rõ về đâu!

             *****

             Gió thổi phần phật vào cánh cửa, bà Từ Dụ nằm không yên. Bà đứng dậy nhìn ra ngoài trời, đêm tối mịt. Một ngôi sao sa giữa trời. Đâu đó có tiếng chó sủa ma vọng đến. Cả một tuần nay ngai vàng không có người ngự, bà nghĩ mãi đến lời đề nghị của hai quan đại thần Tường và Thuyết chọn Hồng dật làm người kế vị. Dật là con trai thứ 29 của vua Thiệu Trị với bà Trương Thị Thận, nhỏ hơn con trai của bà mười tám tuổi và từng được nhiều người khen là thông minh, ham học. Thôi thì, cũng là máu mủ của chồng ta. Dù sao, Dật đã ba bảy tuổi thì có thể lo liệu được việc nước. Được sự đồng tình của bà, hai ông Tường, Thuyết cử phái đoàn lên Kim Long rước Dật vào Đại Nội làm lễ đăng quang.

             Buổi sáng định mệnh ấy, mặt trời ló dạng lại xanh màu lá cây chứ không phải đỏ rực như mọi ngày. Vốn là người ham học, Dật dậy sớm thấy làm lạ, bèn mở sách Thiên văn ra xem biết đó là điềm chẳng lành. Trang sách chưa đọc xong đã nghe tiếng chó sủa vang đầu ngõ. Một cây gậy đã tống thẳng vào mõm con chó, nó sủa ăng ẳng, lủi ra sau bếp. Đoàn người hùng hậu đi vào với kiệu, võng, lọng xanh, đỏ, tím, vàng rất rình rang. Dật chưa định thần thì nghe một người nói to:

          - Mời ngài lên võng để chúng tôi rước về cung!

       Dật hoảng hốt, mặt xám mày xanh, về cung làm gì? Làm vua ư? Dật lắp bắp:

       - Xin các ông tha cho tôi. Tôi tư chất tầm thường, không dám nhận ngôi báu!

         Dật khóc rống lên, chạy tọt vào nấp trong nhà, những những người này vẫn kiên quyết sấn vào, họ xốc nách Dật đặt ngồi trên kiệu. Dật vùng vẫy nhảy tọt xuống đất. Một lưỡi gươm sáng lòa chĩa ngay vào cổ họng Dật:

         - Ngài có ngồi yên không thì bảo?

         Dật lấm la lấm lét như rắn ráo mùng năm, ngoan ngoãn ngồi yên trên kiệu. Những người phu khỏe như vâm đã đưa kiệu vào thẳng trong Tử cấm thành. Suốt hai ngày trong cung, Dật khiếp đảm quá, bà Từ Dụ phải khuyên lơn, dỗ dành mãi.

         Rồi ngày 30.7.1883, lễ đăng quang cho Hồng Dật được tổ chức linh đình. Như một sự trùng hợp ngẫu nhiên, đây cũng là ngày mà Hội nghị quân sự đầu tiên của giặc Pháp cũng họp tại Hải Phòng. Bộ ba tướng lĩnh cao cấp của quân đội Viễn chinh là Harmand, Bouet và Courbert đã quyết định mở cuộc tấn công vào kinh thành Huế, đánh chiếm Sơn Tây với mục đích gây sức ép, buộc triều đình nước Nam phải ký Hiệp ước chấp nhận nền “bảo hộ” của Pháp!

       Khi ngôi báu có người kế vị rồi, ông Thuyết và các quan đại thần cảm thấy mình dường như khỏe khoắn ra. Mọi việc sắp xếp như thế tạm ổn. Điều cốt tử còn lại là phải lo đối phó với các hướng tấn công của giặc Pháp. Ngày 18.8.1883, hạm đội của Pháp hướng về cửa Thuận An và neo tại đây. Ông Thuyết cho gọi Lãnh sự Nguyễn Thành Ý – người vừa bị Pháp trục xuất khỏi nhượng địa Sài Gòn – đến giao nhiệm vụ. Ông Ý lên tàu của chúng hỏi tại sao dám neo đậu hạm đội nơi đây thì phó đề đốc Courbert khinh khỉnh:

         - Ông đã đọc truyện con hùm và con thỏ trong thơ ngụ ngôn của thi hào La Fontaine nước tôi chưa? Rồi à! Thế thì ông đã biết câu “Lý của kẻ mạnh bao giờ cũng thắng” rồi chứ? Nay chúng tôi chỉ xin thưa với ông Lãnh sự là trong vòng hai giờ đồng hồ các ông phải đầu hàng và nộp mọi đồn ải, nếu không chúng tôi sẽ nổ súng!

       Nghe báo cáo lại những lý lẽ xấc láo như thế, ông Thuyết nghiến răng quyết định đánh. Mọi người khuyên nên chậm rãi, thỉnh ý kiến nhà vua xem sao. Ông cười gằn:

     - Tình thế đến nước này rồi mà còn phải hỏi han, phải đợi lệnh là sao? Đánh giặc như cứu nhà cháy, sao lại còn chần chừ?

          Ai nấy đều im thin thít.

        Về phía Pháp, không thấy triều đình ta chấp hành yêu sách, đúng vào lúc 16 giờ 30 phút đại bác từ các hạm đội của chúng bắt đầu khạc lửa! Không một chút nao núng, quân ta dũng cảm đánh trả dữ dội. Nhưng súng ống của ta cổ lỗ không bắn tới những chiến hạm neo ngoài tầm đạn. Do đó, chúng không thiệt hại gì nhiều. Trong khi đó, lần lượt thành quách của ta bị phá vỡ. Cuộc chiến kéo dài đến 20 giờ thì đôi bên ngưng chiến. Rạng sáng ngày hôm sau, ngày 19.8.1883, ta quyết định tung thủy quân ra đánh, nhưng do sóng to gió lớn nên không thực hiện được. Rồi sáng ngày 20.8.1883, giặc Pháp chủ động mở đợt tấn công, đổ bộ đánh chiếm các pháo đài, toàn bộ cửa Thuận An lọt vào tay giặc, quân ta phải rút lui phòng thủ các tuyến bên trong.

        Nhận được tin, vua Hiệp Hòa cho gọi ông Thuyết vào quở trách:

         - Quạ có sánh được với thiên nga không? Giáo mác có đọ được với đạn đồng súng sắt không? Khanh là Thượng thư bộ Binh mà không biết điều đó sao?

        Ông Thuyết cay cú:

         - Ta không đánh thì chúng cũng đánh. Tình thế buộc ta phải đánh, chứ còn đường nào khác?

         Nhà vua đáp:

       - Sao không còn đường nào khác? Ta nghĩ, đến lúc này thương lượng với chúng cũng chưa muộn đâu!

         Ngần ngừ một lát, nhà vua nói tiếp:

        - Đánh nhau mãi như thế này thì ta chỉ chuốc lấy bại vong mà thôi. Ta lệnh cho các nơi phải bãi binh để giữ hòa nghị với người Pháp. Từ đó, mọi việc chỉ có thể giải quyết bằng con đường thương tượng mà thôi. Rõ chưa?

         Trước lúc lui gót, ông Thuyết thầm nghĩ: “Đừng hòng! Ta đã đưa ngươi lên được thì ta hạ ngươi xuống được!”

          Dù các quan phụ chính đại thần không tán đồng, nhưng nhà vua cũng cử Thượng thư bộ Lại Nguyễn Trọng Hợp ra cửa Thuận An thương lượng với Harmand, có giám mục Gaspard đi theo làm thông ngôn. Harmand yêu cầu: Phải tháo dỡ lập tức hết 12 pháo đài trên đường từ Thuận An đến kinh đô và tiêu hủy hết các kho đạn, tháo gỡ hoàn toàn hai đập chắn sông và trả lại cho Pháp hai chiếc tàu mà trước đây chúng đã cho vua Tự Đức theo hòa ước 1874. Có điều lạ, Harmand cương quyết đòi cho bằng được tàu Scorpion mà trước đây Francis Garnier đã từng sử dụng, vì y cho rằng như thế sẽ gặp được nhiều may mắn!

          Hầu như ông Hợp không thương lượng được một điều cỏn con nào. Để rồi sau đó, ngày 25.8.1883, triều đình Huế đã đặt bút xuống ký bản hiệp ước gồm 27 điều khoảng – mà sử ta còn gọi là Hiệp ước Harmand. Bút sa gà chết. Từ đây, triều đình Huế chính thức thừa nhận và chấp nhận Nam kỳ là thuộc địa của Pháp; thừa nhận và chấp nhận Trung kỳ và Bắc kỳ do Pháp bảo hộ!

       Thế là hết! Ông Thuyết chua chát khi nghĩ đến điều này. Và ông quyết xoay tình thế. Phải lật đổ nhà vua và bọn đầu hàng thì mới có thể đánh Pháp đến cùng!

        Lấy cớ cửa Thuận An đã thất thủ, ông hạ lệnh cho phủ hạt Thừa Thiên phải tìm cách bảo vệ gia hương qua việc lập các đội quân tại chỗ. Các đội quân này được ông cấp phát “hổ phù” – tức tín hiệu dùng để trưng tập binh lính khi có việc quân. Ngoài ra, ông còn bí mật chiêu mộ trai tráng các huyện để lập Đoàn Kiệt. Lực lượng này đặt dưới quyền chỉ huy của Kỳ nội hầu Hồng Chuyên và phò mã đô úy Đặng Huy Cát để chuẩn bị đánh Pháp. Ngoài ra, ông còn lập một đội cận vệ lấy tên là Phấn Nghĩa. Đội quân này mang sắc phục riêng gồm mũ rộng vành, áo xanh, sử dụng mã tấu – làm hậu thuẫn cho phe chủ chiến trong việc lật đổ nhà vua.

         Không những thế, ông còn nghĩ đến việc phải thành lập một căn cứ kháng chiến. Thật ra, không phải đến bây giờ, mà trước đây vua Tự Đức cũng đã nghĩ đến. Oái oăm của nhà vua không phải vì mục đích đánh Pháp mà để… trốn Pháp! Từ năm 1879, trước những đòn phản công dữ dội của chúng, các quan tâu lên nếu Pháp tấn công vào kinh đô thì quyết ở lại đánh chúng đến cùng. Nhưng nhà vua thở ngắn than dài:

        - Trẫm không có hoàng tử kế vị. Hoàng thái hậu vẫn nghĩ biết đâu một thời gian nữa nhờ cầu tự mà mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Do đó, trẫm cần kiên nhẫn và cần phải giữ hòa bình một thời gian nữa. Nếu triều đình muốn đánh Pháp thì trẫm, hoàng thái hậu và con nuôi trẫm sẽ náu ở đâu?

        Còn bây giờ, ông Thuyết quyết định lập căn cứ mới là phòng khi có sự cố quân Pháp tấn công kinh thành thì chuyển toàn bộ nhân sự lẫn vật chất lên đó để bám trụ chiến đấu lâu dài. Sau khi tham khảo các sách địa lý, dịch học và binh pháp, hai ông Tường và Thuyết đã quyết định xây dựng thành Tân Sở (Tân: mới; sở: nơi cư ngụ) tại tổng Mai Lộc thuộc cao nguyên Cùa, cách phủ Cam Lộ khoảng 9 km(*)Nay thuộc xã Cam Chính, huyện Cam Lộ – Quảng Trị.******. Thành Tân Sở, hình vuông mỗi chiều dài 780m gồm hai tường thành. Tường thành thứ nhất là một dãy cọc đóng sâu dưới đất, cao chừng 4 mét, được cột lại bằng dây mây. Kế tiếp người ta trồng tre, rồi đào một hào sâu có chiều rộng chừng 10m. Đi chừng 150m là đến tường thành thứ hai cũng xây dựng kiên cố như tường thành thứ nhất. Trong nội thành này,ta thấy có đào giếng nước, kho lương thực, kho vũ khí, nhà cửa,t rại giam phạm nhân, các vị trí chiến đấu…

         Ông Tường chọn vị trí này không chỉ vì theo phong thủy mà đây là đất có long mạch, được bao bọc bởi thành lũy là núi đồi thiên nhiên, mà còn vì thuận lợi trong hoạt động tác chiến. Với con mắt của một nhà quân sự, ông đã nghĩ đến việc đi ra Bắc, sang Lào; hơn nữa, từ kinh đô Huế có thể đi bằng đường khác nhau lên đến Tân Sở. Tiến thoái đều dễ dàng.

        Trong lúc này, việc phòng thủ kinh thành cũng được phòng thủ ráo riết. Tòa Khâm sứ nóng mặt nên cử người sang trách cứ. Ông Thuyết bắt bẻ:

       - Thế các ông hàng ngày diễu võ dương oai quanh kinh thành với mục đích gì? Tôi là Thượng thư bộ Binh thì phải lo việc phòng thủ để an dân.

         Thấy không thể bắt ép được một người cứng đầu cứng cổ như thế, quân Pháp phải nhượng bộ tập trận xa kinh thành. Có như thế ông Thuyết mới chịu tháo súng đại bác xuống, nhưng ông lại bí mật cho chuyển lên căn cứ Tân Sở.

         Trước thái độ chủ chiến quyết liệt của ông Thuyết, vua Hiệp Hòa lo méo mặt. Lo nát gan, bàn nát trí. Nhà vua nghiệm ra rằng hành động đánh Pháp của ông Thuyết khác gì đem trứng chọi với đá! Vốn ươn hèn, ông chỉ muốn mọi việc diễn ra êm thấm, dù có đầu hàng người Pháp, nhưng miễn sao vẫn yên vĩ trên ngôi vua là được! Mà đang trên ngôi vua thì sao không tận hưởng? Thế là ông tùy tiện xuất vàng bạc trong công khố quốc gia để làm đồ nữ trang cho các bà vợ, thê thiếp, con cái phòng sau này lỡ có điều gì bất trắc xảy ra!

         Nhưng ông Thuyết còn sờ sờ đứng đó thì khác gì kỳ đà cản mũi! Để nhổ gai nhọn này, ông chuyển ông Thuyết sang bộ Lại, chứ không cho nắm bộ Binh nữa. Nhưng chưa yên tâm, ông còn giao cho chú mình là Miên Trinh Tuy Lý Vương trực tiếp giao thiệp với đại diện của tòa Khâm sứ tại Huế để nhận sự bảo hộ!

       Ông Thuyết và Hiệp Hòa gầm gừ nhau như hai con thú dữ. Cả hai sẵn sàng triệt hạ nhau khi có cơ hội.

          HIệp Hòa quyết định ra tay trước.

             ****

          Trời nắng dịu. Trong tư dinh, ông Tường đang ngồi đọc sách thuốc vừa mượn được ở Thái y viện. Những bài thuốc hay thật. Chỉ những cỏ, những cây quen thuộc, hiền lành  nhưng biết hết hợp với nhau theo một liều lượng nhất định thì sẽ trở thành một vị thuốc. Mà thuốc thì có thể hoặc thuốc độc hoặc thuốc bổ. Trong đời ta, có lúc ta sẽ chọn vị thuốc nào cho thích hợp với hoàn cảnh? Ông Tường đang cắm cúi ghi chép thì có tiếng gọi từ phía sau lưng:

        - Bẩm đại quan, có chuyện chẳng lành.

        Ông quay lại thì thấy Phạm Tác – một quan thái giám thân tín của ông. Tác õng ẹo kề vào tai ông thì thầm nhỏ to. Nét mặt của ông biến sắc. Xám lại. Thoáng giật mình, nhưng ông trấn tĩnh ngay, quát lớn:

          - Bây đâu!

         Có những tiếng dạ rân. Những thuộc hạ vác gươm đao ào ào chạy vào, đứng xếp một hàng thẳng tắp đợi lệnh. Chỉ chực nghe lệnh, chúng vội ào ra khỏi ngõ.

     Dân chúng nhốn nháo, không rõ có chuyện hệ trọng gì mà người nhà của quan đại thần đang sục sạo khắp hang cùng ngõ hẻm. Rồi họ thấy những người này túa về hướng chợ Dinh. Ngay trong chợ, có quan thái giám Trần Đại đang phóng ngựa chạy qua. Đại không rõ trong sớ gửi cho đại quan Trần Tiễn Thành ghi những gì mà sáng sớm nay, 29.11.1883, nhà vua khi giao cho y chỉ nhắc đi nhắc lại mỗi một câu:

          - Bí mật! Tuyệt đối bí mật! không để bất cứ ai biết!

        Vì thế, Đại rất sung sướng vì đã được nhà vua tin cậy giao nhiệm vụ quan trọng cho mình. Ý nghĩ này vừa thoáng qua trong óc, Đại càng phấn khởi thúc ngựa phóng nhanh hơn. Bỗng có một người lao ra, giữ lại:

          -Có lệnh của quan đại thần cần gặp ngươi!

     Đại ú ớ, chưa biết xử sự ra sao thì một người khác dùng gậy đâm thẳng vào ngực. Đại ngã sóng soài xuống đất. Ngựa hí vang. Đại bị trói chặt đem về tư dinh của ông Tường. Chắp tay sau đít, đi qua đi lại trước mặt của kẻ mặt mày không còn giọt máu, ông Tường mắng:

        - Không biết thân biết phận lại còn nối giáo cho giặc ư?

       Chỉ mắng có một câu, ông bước vào trong tư dinh và nói vọng ra:

     - Con chó ấy không đánh chết đi còn để làm gì?

       Tiếng roi vút nghe rợn  cả người. Đại oằn oại trên vũng máu.

       Trong lúc ông khoan thai ngồi trên tràng kỷ. Cô hầu non từ sau nhà nhẹ nhàng dâng cho ông một chén thuốc bổ như mọi ngày. Vị thuốc bắc thơm dịu. Ông ngửa cổ và cảm thấy lục phủ ngũ tạng sảng khoái lạ thường. Lấy tờ sớ ra đọc, ông không tin vào mắt mình nữa. Sự việc tồi tệ đến mức này à?

         Trong tờ sớ ghi rõ kế hoạch nhà vua đã sai hai người con nhà chú của mình là Nguyễn Phúc Hồng Phì – con Tùng Thiện Vương Miên Thẩm và Nguyễn Phúc Hồng Sâm – con Tuy Lý Vương Miên Trinh điều đình với Khâm sứ Champeaux ấn định ngày giờ để thủy quân Pháp tấn công bắt ông Thuyết với phe chủ chiến! Phía dưới còn có bút phê: “Giao cho Trần Tiễn Thành phụng duyệt!”

       Không một chút chần chừ, ông Tường đứng dậy khoác áo và bước ra khỏi nhà. Trước lúc đi, ông dặn dò:

        - Chuyện đâu còn có đó. Mọi sự phải giữ kín như bưng. Lọt ra ngoài thì ta cắt lưỡi. Nghe chưa?

       Xong, ông ném những nén bạc xuống dưới nền gạch:

        - Ai có công thì được thưởng!

         Những nén bạc rơi tung tóe, kêu vang một âm thanh vui tai, quan thái giám Tác vội vã nhoài người xuống nhặt sạch.

         Nắng mơn mởn trên vòm cau thẳng vút. Tự biết sẽ đến gặp một người tính tình nóng như lửa, thường không giữ được sự trầm tĩnh, nên ông Tường đã tính toán trước mọi cử chỉ. Đến nhà ông Thuyết, đang đường đường là một bậc đại quan trong triều, nhưng ông Tường lù đù như chuột chù phải khói, ngồi bệt xuống đất chứ không dám ngồi trên ghế. Ông Thuyết lấy làm lạ:

        - Rồng đến nhà tôm mà sao lại cứ như lũ tôm tép?

        Ông Tường vẫn cúi gầm mặt xuống đất. Hỏi lại lần thứ hai, ông Tường mới ngẩng đầu lên nhưng cũng không nói không rằng. Ông Thuyết bực mình lắm rồi, nét mặt đang đỏ dần. Chỉ chờ có thế, ông Tường mới nhũn như con chi chi, nhỏ nhẹ:

          - Lũ chúng tôi chỉ là con giun, con sâu, con bọ ai dằn xéo cũng được. Chỉ tiếc cho ông là cành vàng lá ngọc mà thôi.

        Ông Thuyết sửng sốt, phừng phừng đỏ mặt tía tai, chẳng hiểu cớ sự ra làm sao mà ông Tường lại nói như thế. Bấy giờ, ông Tường mới đưa tờ sớ của vua Hiệp Hòa ra. ông Thuyết nghiến răng kèn kẹt:

         - A! Ông Thành xin nghỉ hưu để chữa bệnh, nhưng tại sao còn dính líu đến chuyện này? Làm gì bây giờ?

        Sau một lúc bàn bạc với nhau, cả hai ông quyết định phải đến hỏi ý kiến cụ Tôn Thất Đính – bố của ông Thuyết. Cụ Đính là con trai của Quản cơ Minh nghĩa Đô úy Tôn Thất Lộc đã theo việc binh từ thuở trai tráng. Năm 59 xuân, cụ Đính là Tán lý quân thứ Gia Định, sau đó được cử làm Đề đốc tỉnh Hải Dương, lấy cớ đau ốm nên xin nghỉ hưu sớm. Dù vậy,vai vế và uy tín của cụ trong triều không phải đã hết.

         Tại tư dinh, trước chỗ ngồi của cụ Đính có đặt một tấm gương lớn quay ra đường. Khi có người đến, chỉ cần nhìn qua gương, cụ biết ai là người đang tìm đến. Thích thì cụ mời vào, còn không thì cứ dửng dưng xem như không biết đến. Có những người đến cứ đứng chờ mãi, không thấy động tĩnh gì biết là cụ không tiếp, chỉ còn cách lẳng lặng rút lui. Khi hai quan đại thần Tường và Thuyết đến, quỳ xuống nhưng chưa kịp thưa thì cụ đã quay lui, nghiêm giọng:

        - Tôn miếu là tôn miếu của các ông, xã tắc là xã tắc của các ông! Các ông muốn làm gì thì làm! Tôi già rồi, đầu óc lũ lẫn, thân xác bạc được biết gì mà hiến kế cho các ông!

       Xong, cụ lại cắm cúi nhìn xuống trang sách đang mở ra trước mặt. Biết cụ đã đồng tình cho mình tự quyết định mọi việc, hai ông chắp tay xá rồi lui gót.

          Trở về triều, hai ông Tường và Thuyết triệu tập cuộc họp bất thường. Trong ngoài cửa thành, các đội Phấn Nghĩa đang canh phòng cẩn mật. Trước bá quan văn võ, hai ông công bố tờ sớ của Hiệp Hòa. Với chứng cớ sờ sờ như thế, ông Thuyết buộc tội:

       - Tư thông với giặc, dung dưỡng bọn phản quốc thì có còn xứng đáng ngồi trên ngai rồng không?

        Các đại quan im phăng phắc. Ông Thuyết gằn giọng:

          - Tất nhiên là không!

         Đưa mắt nhìn quanh một lượt, ông nói tiếp:

       - Vẫn biết truất phế là việc trọng đại. Tôi hỏi có ai không đồng tình việc truất phế đế vương không?

         Có những tiếng xì xào, bàn tán to nhỏ. Bỗng mọi người im bặt khi thấy gươm giáo sáng lòa. Các đội Phấn Nghĩa được lệnh vào tận trong triều! Tình thế này rung cây nhát khỉ. Quả nhiên hiệu nghiệm. Tất cả đều rùng mình sởn gáy. Không một ai dám nói lớn, dù có muốn họ cũng phải nén lại. Ông Thuyết nhắc lại câu hỏi một lần nữa. Không ai dám há miệng. Há miệng mắc quai, chả dại! Do đó, khi ông đưa tờ sớ truất phế Hiệp Hòa thì các đại quan đều ngoan ngoãn ký vào.

          Kế hoạch bước đầu đã diễn ra đng như dự kiến. Trong khi ông Thuyết cầm tờ sớ này vào cung Ninh Thọ dâng cho hoàng thái hậu Từ Dụ phụng duyệt thì ông Tường dẫn đội Phấn Nghĩa sục vào điện Cần Thanh bắt Hiệp Hòa, buộc nhà vua phải viết chiếu thoái vị. Biết thân phận mình giờ này rỗng như đít bụt, Hiệp Hòa chấp nhận ngay, không một lời phân bua. Nhà vua rơm rớm nước mắt chỉ xin yên thân, được về phủ cũ ở Kim Long. Ông Tường gật đầu.

        Trên đường đi với tâm trạng âu lo, ruồi bâu bên mép cũng chẳng buồn xua, nhà vua thở phào nhẹ nhõm, dù sao còn lành lặn cũng phước lớn lắm rồi! Nhưng vừa ra khỏi cửa Hiển Nhơn, nhà vua giật thót khi nhìn thấy ào ào binh mã ùa đến. Kìa! Hai ông Ông Ích Khiêm và Trương Văn Để của phe chủ chiến đã xuất hiện. Mặt không còn giọt máu, nhà vua lắp bắp:

        - Tôi không có tội! Không có tội!

          Không cần nghe tiếp, ông Khiêm xông tới lật đổ kiệu, nhà vua té lăn cù xuống đất, bị trói lại đưa về Dục Đức đường. Tại đây, ông Khiêm trao cho Hiệp Hòa “tam ban triều điển” tức một cây kiếm, một dải lụa và một chén thuốc độc để tự xử. Cái chết nào cũng đau đớn cả. Chao ôi! Giây phút phải kết liễu cuộc đời mà tự mình phải lựa chọn mới khủng khiếp làm sao! Nhà vua ràn rụa nước mắt, thốt không nên lời. không thể chần chừ được nữa, lệnh của ông Thuyết là phải thanh toán nhà vua ngay lập tức. Nhìn những giọt nước mắt lăn dài kia, ông Khiêm không mảy may xúc động. Đứng nhìn trong giây lát, không hiểu sao ông bỏ gươm xuống đất, xá nhà vua, rồi thét lớn:

         - Bay đâu, đè cổ ra cho ta!

         Nhà vua bị vật ngửa xuống đất. Một bàn tay lực lưỡng bóp cổ vào họng. Mồm há ra, mắt trợn ngược. Ông Khiêm nhanh tay dốc ngược chén thuốc độc vào miệng ông vua xấu số.

        Lúc ấy, bóng chiều còn thoi thóp lưng trời. Trong gió vọng lại tiếng kinh cầu siêu từ ngôi chùa gần đó vọng đến.

           Chỉ trong nháy mắt, Hiệp Hòa tắt thở.

        Trời tối dần. Đêm tối như mực. Những cơn gió nóng hầm hập thổi qua kinh thành Huế. Vòm cây long não rủ lá thiểu não chìm trong bóng tối. Đường về chợ Dinh vắng tanh. trên con đường hẹp, phủ kín bóng tre có những người lính trong đội Phấn Nghĩa do Hường Hàng, Hường Chức và Hường Tề chỉ huy đang phóng ngựa vội vã. Họ bịt mặt bằng khăn đen kịt, chỉ chừa hai con mắt. Họ đang thực hiện một nhiệm vụ quan trọng mà trưa nay, trước lúc triệu tập các đại quan về triều họp thì ông Thuyết đã sai người đến mời Trần Tiễn Thành đến dự. Nhưng ông Thành lắc đầu:

       - Phế lập là việc tối quan trọng, sao có thể làm nhiều lần như vậy. Tôi đã về hưu nên không dự bàn.

        Thái độ của ông Thành cũng là sự lựa chọn của nhiều người. Bên kia sông Hương là tòa Khâm sứ với tàu chiến, súng đồng hùng mạnh mà sau lưng họ là phe chủ chiến đang nắm ưu thế. Đứng về phía nào? Ông Thuyết tặc lưỡi:

         - Không đứng về phía ta thì còn để làm gì nữa?

          Vì thế ngay sau khi Hiệp Hòa chết, ông bàn với ông Tường quyết định số phận của ông Thành.

         Chẳng mấy chốc, đội Phấn Nghĩa đã đến chợ Dinh. Đứng trước nhà của vị quan đại thần đã nghỉ hưu,họ đập cửa ầm ầm. Nhìn qua khe cửa, chỉ thấy những ngọn đèn dầu cháy leo lét. Trong nhà sợ hãi im thin thít, không ai dám mở cửa. Chó sủa vang trời. không thể chờ đợi lâu hơn, họ dùng lưỡi mác chém nát cánh của. Lọt được vào bên trong, họ la lớn:

          - Có chiếu chỉ mời tướng công vào triều đình gấp!

         Lệnh của ai mà lại đến vào giờ này? Từ trên gác, ông Thành chậm rãi bước xuống. Đã ngoài bảy mươi lại mang thêm chứng bệnh đau bụng kinh niên nên trông ông hom hem, mệt mỏi. Dìu từng bước chân ông là bà thiếp mới hai lăm xuân, nhưng mặt mày tái nhợt vì biết chuyện chẳng lành đang đến. Vừa đi, ông Thành vừa đưa tay gài lại những khuy áo. Những ngón tay run lẩy bẩy không cài hết được…

           Bước khỏi cầu thang, ông Thành còn giơ tay lên để cài nốt chiếc khuy cuối cùng. Chỉ chờ một cơ hội thuận lợi như thế, một tên lính lao tới đâm ngọn giáo nhọn hoắt vào giữa ngực. Ông Thành ngã gục trong cánh tay của người thiếp yêu, không kịp trăng trối điều gì. Hành động xong, họ nhanh chóng bước ra khỏi nhà và phóng ngựa mất hút trong đêm…


Chương tám

         Ông Tường đập tay xuống bàn:

         - Chuyện vẫn chưa xong! Đánh rắn phải đánh dập đầu!

           Đó là ông đang cay cú nghĩ đến Tuy Lý Vương, Hồng Sâm và Hồng Phì – ba kẻ đã vạch kế hoạch mượn tay giặc Pháp để bắt ông! trước sự phản công dữ dội của phe chủ chiến, cả ba người này chạy trối chết về Thuận An, lánh lên tàu La Vipière mong được hải quân Pháp che chở. Cho ẩn náu nơi này được ba ngày, bọn Pháp đểu cáng đã lật lọng, chúng đem cả ba giao chẳng cho ông Tường! Biết sắp lọt vào tay một người nổi tiếng sắt máu, nóng như Trương Phi, họ đã van khóc như ri xin được ở lại làm chân khuyển mã để mong tìm sự sống, nhưng giặc Pháp vẫn dửng dưng, từ chối! Thân phận của bọn bán mình cho giặc kết thúc quá lạ lùng, ngay cả ông Tường vốn có nhiều mưu mẹo, khôn ngoan cũng không thể tưởng tượng ra nổi. Tuy Lý Vương may mắn chỉ bị đày vào Quảng Ngãi, còn Sâm và Phì phải chịu án chém!

           Thanh toán xong phe chống đối, hai ông Tường và Thuyết lại lập vua mới. Người bất hạnh được chọn lên ngôi lần này là Ưng Đăng, sinh năm 1869, mới mười lăm tuổi. Khi được làm con nuôi của vua Tự Đức, nhà vua đã giao cho bà Học phi Nguyễn Thị Hương nuôi dạy, rồi sau đó đưa ra học tại nhà Dưỡng Thiện. Từ ngày vua cha băng hà, Ưng Đăng được về ở tại Quan Xá, bên ngoài Lăng Khiêm. Chọn một người hỉ mũi chưa sạch lên làm vua là hai ông có dụng ý: giao quyền lực cho người lớn tuổi thì khó khống chế khó sai bảo. Vì thế Ưng Đăng đã trở thành một con cờ trong ván cờ chính trị đang bày ra trước mắt.

         Trời mới tờ mờ sáng, nghe tiếng gà gáy cầm canh, Ưng Đăng thức dậy và bước ra nhà sau để đi giải. Vừa định quay lưng trở vào trong nhà thì có một đội lính Phấn Nghĩa bất ngờ ập tới, Ưng Đăng hoảng hồn. Đứng trố mắt ngỡ ngàng ngạc nhên không hiểu chuyện gì cả. Bỗng có tiếng nói:

         - Xin rước ngài về cung!

          Chỉ mới nghe vậy, Ưng Đăng đã khóc òa lên định kêu cứu, nhưng lập tức những cánh tay lực lưỡng bịt miệng và xốc nách bỏ lên võng, Ưng Đăng được đưa về nhà Quan Canh. Tưởng bị bắt cóc, Ưng Đăng khóc như cha chết. Sau khi nhận được tin báo, ông Thuyết cấp tốc đến và cho biết ý định của triều đình lập Ưng Đăng lên ngôi vua. Chẳng hiểu mô tê chi cả mặt cứ ngây ra như cán cuốc, Ưng Đăng dở khóc dở mếu. Nhưng rồi ông Thuyết cũng kiên nhẫn dỗ dành:

        - Ngài không thể từ chối được. Trong di chiếu của tiên đế có đoạn viết: “Ưng Đăng tín thận trọng dễ bảo, hầu hạ sớm hôm cẩn thận, chưa có khuyết điểm gì cả nhưng tuổi còn ít, học chưa thông, đương lúc khó khăn này chưa chắc đã am hiểu công việc, nên trẫm đành lòng bỏ riêng mà theo mưu kế lớn…”. Thế thì mệnh trời đã định, xin ngài hãy vì tôn miếu xã tắc!

           Ưng Đăng đành gạt nước mắt mà vâng lời.

         Đối với ông Thuyết, chủ đích đưa người nhỏ tuổi lên ngôi thì ông dễ dàng thực hiện những kế hoạch chống Pháp mà không bị cản trở.

          Để không gặp một sự chống đối nào, một cái gai trước mắt bây giờ là chiến tướng Ông Ích Khiêm, người có công giết Hiệp Hòa. Khiêm sẽ tranh công với ta chăng? Đôi lúc ông Thuyết nghĩ thế. Ông biết ông Khiêm là người ngang tàng, bướng bỉnh, ăn nói bộc trực, chẳng có phép tắc gì cả. Là người giỏi chiến trận mà nay lại có công thì còn coi ai ra gì nữa? Hơn nữa, lúc ta cầm quân thì có thời gian dưới quyền Khiêm, vì thế ta quyết định phải ra tay trước. Suy nghĩ như thế, ông Thuyết ghép ông Khiêm vào hai tội: Trước đây, dẹp xong cuộc nổi loạn của dân tộc ít người tại Trà Mi (Quảng Nam), Khiêm đã tự ý đưa quân về nghỉ ngơi tại làng Phong Lệ dù chưa được lệnh của nhà vua; thứ hai, khi vua Tự Đức mất, Khiêm lại đưa một công nương đang chịu tang về chung sống với mình. Với hai lý do vu vơ này, ông Khiêm bị đày vào Thuận Hải.

          Vậy là rảnh nợ. Trong triều sóng yên gió lặng. Ông Thuyết quyết định gấp rút chọn ngày 2.12.1883, đưa Ưng Đăng lên ngôi với niên hiệu Kiến Phúc. Lễ đăng quang được tổ chức vội vã vào lúc 5 giờ sáng, vì ông không muốn người Pháp biết chuyện gây khó dễ.

         Việc làm này không được phía Pháp đồng ý. Khâm sứ de Champeaux cho rằng việc chọn vua mới mà không hỏi ý kiến phía Pháp là vi phạm hòa ước 1883, hơn nữa lại không mời y dự lễ tấn tôn. Không thèm đếm xỉa đến ý kiến này, ông Thuyết  còn bí mật lệnh cho các đội quân Đoàn Kiệt tại địa phương ra tay tàn sát bọn Việt gian, kể cả những linh mục làm việc trong đội quân viễn chinh. De Champeaux phải rút đội quân đang đóng tại cửa Thuận An về bảo vệ tòa Khâm sứ. Trong lúc đó, mặt trận phía bắc vẫn đang xáo trộn, nhất là các cánh quân người Tàu vẫn còn hoạt động mạnh, gây cho Pháp nhiều tổn thất.

           Đứng trước tình thế này, về phía Pháp, họ tìm mọi cách liên hệ với Trung Quốc để ký một hòa ước thỏa thuận nhằm loại người Tàu ra khỏi cuộc chiến để rảnh tay đối phó với nước Nam; về phía ta, ta cũng đang tìm cách sửa đổi hòa ước 1883 vì có nhiều điều quá bất lợi và ta cũng cử phái đoàn do Thượng thư bộ Hình Phạm Thận Duật dẫn đầu đi Quảng Đông với mục đích cầu viện.

         Nhưng lịch sử vẫn có những chuyện diễn ra hết sức tình cờ.

        Đó là tin đại úy hải quân Pháp Fournier có quen với Détring – một người Đức đang làm thương chánh tại Quảng Đông. Détring lại quen với Tổng đốc Lý Hồng Chương. Qua sự môi giới này, Fournier điện về Pháp quốc xin chỉ thị của chính phủ. Được sự đồng ý, y cùng với Lý Hồng Chương ký Hiệp ước Fournier tại Thiên Tân. Hiệp ước này quy định từ ngày 12.5.1884, các cánh quân của người Tàu phải rút hết khỏi nước Nam, nghĩa là Trung Hoa đồng ý cho Pháp được tự do tính toán mọi chuyện ở nước Nam! Thật ra, đây cũng là một cách rúi lui trên thế “thượng phong”, không làm mất mặt “thiên triều” vì trong cuộc chiến, quân tàu cũng đang lâm vào thế bí, không chống cự nổi với người Pháp. Do đó, về phía ta, chuyến đi của Phạm Thận Duật không đem lại một kết quả nào.

       Ký được hòa ước này không khác gì giáng một đòn quyết định vào số phận nước Nam, người Pháp đồng ý cho ta sửa đổi hòa ước 1883. Ngày 6.6.1884 tại tòa Khâm sứ Huế, hai bên đã ký hòa ước Giáp Thân hay còn gọi là hòa ước Patenotre, gồm 19 khoản. Nhưng nhìn chung hòa ước này không có gì mới mẻ, thậm chí khắc nghiệt hơn hòa ước trước ở chỗ từ đây nước Nam bị chia làm ba khu vực khác nhau.Từ địa giới phía nam tỉnh Bình Thuận trở vào gọi là Nam kỳ; từ địa giới phía nam tỉnh Bình Thuận trở ra tới địa giới phía nam tỉnh Ninh Bình gọi là Trung kỳ; từ địa giới phía nam tỉnh Ninh Bình trở ra tới biên giới Việt-Trung gọi là Bắc kỳ. Mỗi kỳ có một chính sách cai trị khác nhau như ba nước riêng rẽ, rồi dần dần triều đình Huế chỉ còn là hư vị. Đây là hòa ước cuối cùng trong cuộc chiến ròng rã mấy mươi năm giữa Pháp-Việt, đánh dấu sự khai tử chủ quyền của nhà vua nước Nam! Nó đã kéo dài 61 năm, mãi đến ngày 9.3.1945 Nhật đảo chính Pháp thì mới bãi bỏ. Trước lúc Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận duật, Tôn Thất Phan đặt bút ký thì tay thông ngôn Deveria có ý kiến:

        - Thiết tưởng từ nay nước Nam không còn thần phục nước Trung Hoa nữa mà đã được sự bảo hộ hoàn toàn của nước Pháp, vì thế phải hủy bỏ mọi dấu hiệu mối liên hệ trước đây.

         Y vừa dứt lời thì Patenotre tiếp lời:

       -Đúng vậy, ta cũng phải hủy ngay chiếc ấn do Bắc triều phong cho nước Nam từ bao đời nay!

        Các quan của ta ai nấy đều chết điếng! Đứng như trời trồng. Nhưng rồi không thể không đồng ý. Chiếc ấn vuông do sứ Tàu giao cho vua Gia Long năm 1802, được làm bằng bạc mạ vàng, mỗi bề rộng 11 phân tây, nặng 5 ký 9 trên có tay nắm hình con kỳ lân, ở mặt dưới có khắc 6 chữ “Việt Nam quốc vương chi ấn” bị đem ra và nấu chảy thành một cục đen sì!

          Hòa ước này ký xong thì sĩ phu cả nước rất bất bình.

     Trong khi đó, miệng lưỡi của thiên hạ cũng bắt đầu đồn râm ran về chuyện tư tình giữa ông Tường với bà Học Phi. Nhất là trong thời gian vua Kiến Phúc bị bệnh đậu mùa.

          Nhà vua thấy chướng tai gai mắt, đã phải quát lên:

        - Tao lành bệnh thì chặt đầu cả ba họ nhà chúng bay!

         Nửa khuya hôm ấy, bà Học Phi quỳ dưới chân con nuôi, tỏ ra rất ân hận và năn nỉ dỗ nhà vua uống chén thuốc để mau lành bệnh. Dù bực tức, nhưng trẻ con nào cũng thích lời nói ngọt như mật rót vào tai. Nói ngọt lọt vào xương. Nhà vua gượng người dậy, nâng chén thuốc uống. Không kịp đặt chén thuốc xuống, Kiến Phúc trợn mắt lên, rồi ngã vật xuống long sàng như cây chuối bị nhát dao chém thật ngọt. Nhà vua tắt thở.

        Rạng sáng, tin này đến tai ông Thuyết. Ông mắng Tường:

       - Tôi đã nói với ông nhiều lần rồi. Chuyện nước đang rối như canh hẹ, thế mà ông cứ lo tìm vui riêng. Thật đáng trách!

       Ông Tường lầm lì lầm lụt:

         -Ông đừng nghĩ thế mà lầm. Tôi không lo việc nước ư? Tôi có cách của tôi, ông có cách của ông. Tôi xin thử hỏi ông, hiệp nước Giáp Thân vừa ký nhân danh ai?

        Ông Thuyết thoáng hiểu những điều mà ông Tường vừa nói. không để cho một người nóng tính như lửa kịp trả lời, vốn là người nhiều mưu mô, nên ông Tường nói ngay:

          - Nếu ta còn muốn cò kè bớt một thêm hai lại với người Pháp thì ta không thể thương lượng khi mà nhà vua còn sờ sờ ra đó. Chi bằng…

         Ngẫm nghĩ trong giây lát, ông Thuyết gật gù, không bày tỏ thái độ gì khác. Ông Tường lại khôn khéo vuốt giận bằng giọng nói trơn như cháo chảy:

           - Việc triều chính hiện nay chỉ còn mỗi một mình ông là rường cột. Mong ông ra tay gánh vác lại giang sơn. Phận tôi hèn, thân tôi như cỏ nát cũng xin được theo ông đến cùng.

         Như sực nhớ, ông Thuyết hỏi:

        - Ông Ích Khiêm hiện nay như thế nào?

          Không rõ câu hỏi ấy được ném ra với ý nghĩ gì, ông Tường ướm lời:

         - Ông ta vẫn bị đày ở Bình Thuận.

          -Có thể gọi về để tham gia trong công việc triều chính được không?

        Câu hỏi này khiến ông Tường rất phân vân, không biết nên trả lời như thế nào cho phải, chỉ còn cách chê mèo lắm lông là tốt hơn cả.

        -Xin ông suy nghĩ cho thấu đáo. Một kẻ đã từng bộc bạch lòng mình qua vần thơ khí khái, ta sử dụng nào khác con dao hai lưỡi.

        Bài thơ này, ông Thuyết có nghe nói là ông Khiêm sáng tác có dụng ý mắng mình với Tường:

Mình ốc mang rêu rửa sạch ai,

Rung cây nhát khỉ thói quen hoài.

Mèo quào phên đất chi khờn sức.

Sứa nhảy qua đăng mới gọi tài

Khó nổi đem tơ ràng vó ngựa,

Dễ đâu lấy thúng úp mình voi.

Truông chưa qua nổi đừng khinh cọp.

Chim sổ lồng ra để đó coi!

        Hai câu kết cũng khiếp đấy chứ! Ông Thuyết bỗng đùng đùng nổi giận:

       - Láo xược!

         Biết ông Thuyết đã nổi nóng, ông Tường còn nói như móc họng:

         - Đó là kẻ láo xược. Nhưng ông lại có ý định gọi về triều thì than ôi! Tài cán của ông cũng xoàng xĩnh vậy sao?

       Ông Thuyết trợn mắt:

         - Ông nói như thế nghĩa là sao?

          Ông Tường vuốt giận làm lành:

       - Ấy là tôi nghĩ vụng, đánh trống qua cửa nhà sấm. Xin chịu tội. Nhưng tôi biết, tướng công đời nào phải nhờ đến Khiêm. Khiêm tài cán gì mà sánh với một người đánh đông dẹp bắc như ông.

          Nguôi nguôi giận, ông Thuyết lại hỏi:

             - Khiêm có than trách gì triều đình không?

          Dù không rõ, nhưng ông Tường vẫn nói hươu nói vượn:

             -Tôi nghe nói trong mấy ngày gần đây, ông ta đã nhịn đói, chỉ xin được chết thôi!

        - Thế à?

         Nói xong, ông Thuyết quả quyết như dao chém nước:

         - Đã muốn chết thì ta cho chết. Ông lệnh quan quân “tam ban triều điển” cho Khiêm!

         Lệnh đã được ban ra. Tại Bình Thuận, Ông Ích Khiêm đã chọn lấy cái chết như trước đây đã bức tử vua Hiệp Hòa, ông cũng dùng thuốc độc!


Chương chín

         Cánh đồng lộng gió. Lũ trẻ chăn trâu đang nô giỡn, hát hò náo nhiệt. Xa xa những cánh cò trắng chấp chới bay về phía chân mây cuối trời. Những đứa trẻ đang chơi trò chưng cộ. Một lớp trẻ thứ nhất ngồi bệt dưới đất cầm tay nhau xếp thành vòng tròn. Rồi một lớp trẻ thứ hai cũng làm động tác tương tự như thế, nhưng ngồi chồng trên vai lớp thứ nhất, kế tiếp lớp thứ ba lại ngồi chồng lên vai lớp thứ hai… Trò chơi này khi xếp lớp càng cao thì càng vui. Chỉ cần một tiếng “Dố dậy!” thì chúng đồng loạt đứng lên thành trụ cao - gọi là cộ - vừa đi vòng tròn vừa hát:

Dố dậy! Dố dậy!

Cây gậy bốn phương

Ra đường mạnh mẽ

Bầy trẻ chăn trâu

Bay lâu thẳng cánh

Nó mạnh như sên

Đi trên mặt nước

Đi trước đón rồng

Ông đi có cồng

Bà đi có mõ

Trên trời nghe rõ

Làm gió làm mưa

Làm mùa bát ngoạt

         Chúng cứ vừa xoay tít vòng tròn vừa hát, cho đến bao giờ có đổ mới thôi. Trò chơi đang vui thế thì bọn chúng thấy từ xa có lọng xanh võng tía đang đi đến. Cả bọn hoảng hốt buông tay ra, lập tức đổ cộ. Thằng bé hiền lành nhất trong bọn ngồi trên cao bị té lăn cù xuống ruộng. Mặt mày lấm lem, nhưng vẫn cười toe toét. Đó là nhân vật mà hai ông Thuyết, Tường đang cần đến. Sau khi vua Kiến Phúc bị giết, hai ông quyết định chọn Ưng Lịch, sinh năm 1871, em cùng cha khác mẹ với Kiến Phúc, mới mười ba tuổi đặt lên ngai vàng. Cậu bé ăn mặc rách rưới òa lên khóc khi thấy người ta mặc cho mình quần áo mới và cho ngồi vào võng rước về cung.

        Ưng Lịch mong thoát xuống nhưng cuối cùng cũng không cưỡng lại được số phận.

          Ngày 2.8.1884, Ưng Lịch lên ngôi với niên hiệu Hàm Nghi.

      Trong những ngày này, ông Thuyết lo ngay ngáy. Ông biết mọi sự sẽ không thuận lợi, khi mà ông đã “qua mặt” tòa Khâm sứ, không thèm báo cho họ biết về chuyện tấn tôn này. Trong thời gian đó, dân gian có lưu truyền câu đối:

       Nhất giang lưỡng quốc nan phân Thuyết

       Tứ nguyệt tam vương triệu bất Tường

       Nghĩa là:

         Một sông hai nước, không đường nói

         Bốn tháng ba vua điềm chẳng lành

          Hai ông quan phụ chính đại thần bực mình lắm, nguyền là sẽ cắt lưỡi những ai còn rêu rao câu đối này ngay trên cửa miệng. Cái hay của câu đối này là đã phản ánh đúng sự việc rối ren đang diễn ra: một con sông Hương chảy qua kinh đô Huế, chia làm hai nước, vì hoàng thành của triều đình nước Nam nằm ở tả ngạn và tòa Khâm sứ của Pháp lại nằm ở hữu ngạn! Còn chuyện bốn tháng ba vua thì rõ mười mươi rồi! Nhưng cái đau của hai ông Tường, Thuyết là ai đó đã đem tên hai ông gắn chình ình ở cuối mỗi câu!

          Về phía Pháp, khi nhận được tin Hàm Nghi lên ngôi, Khâm sứ Rheinart cực lực phản đối vì cho rằng nó vi phạm hòa ước đã ký. Không phải là tay vừa, ông Thuyết gân cổ lên cãi:

       - Hòa ước không có khoản nào nói mỗi khi lập vua mới phải hỏi ý kiến tòa Khâm sứ! Hơn nữa ngôi vua là việc trọng đại không thể bỏ trống lâu ngày.

           Rheinart đuối lý nhưng cũng to mồm:

         - Thôi thì việc đã rồi. Nhưng có lẽ nên đưa ngài Gia hưng Quận vương lên ngôi thì vẫn hợp lý hơn!

         Ông Thuyết thừa biết, không phải ngẫu nhiên mà phía Pháp chọn nhân vật này, vì đây là Nguyễn Phúc Hồng Hưu, con vua Thiệu Trị, em vua Tự Đức – nổi tiếng là người thân Pháp. Ông cứng cỏi:

         -Mọi việc đã xong rồi, không nên thay đổi xáo trộn nữa. Mà đưa Ưng Lịch lên ngôi là hợp lý vì em nối ngôi anh. Nhất là việc nối ngôi này trong di chiếu của vua Kiến Phúc cũng đã ghi lại như thế!

        Rheinart thừa biết, ông Thuyết bịa chuyện di chiếu là để khỏa lấp hành động của mình, chứ làm gì có di chiếu di chiếc gì! Nhưng không có chứng cứ rõ ràng nên y lập luận:

           - Vua Kiến Phúc băng hà trong lúc vị thành niên nên di chiếu ấy không có giá trị về mặt pháp lý.

          Không bên nào chịu bên nào. Rheinart quyết không thể để yên vụ này. Chẳng lẽ, hai chữ “bảo hộ” của nước Pháp lại nhạt như nước ốc, chẳng có sức mạnh gì sao?

         Quay về tòa Khâm sứ, Rheinart đánh điện về Paris xin chỉ thị, vì nếu bỏ qua việc này thì hiệp ước đã ký chỉ có hiệu lực về mặt quân sự, chứ triều đình nước Nam vẫn không bị trói buộc gì về chính trị và nhất là Pháp không thể can thiệp vào nội bộ của họ. Nhận được tin này, thủ tướng Jules Ferry điện cho trung tướng Millot đang hành quân ở Bắc kỳ nhanh chóng phái một lực lượng hùng hậu vào kinh đô nhà Nguyễn với mục đích “dằn mặt” đối phương! Người trực tiếp chỉ huy đại đội này là đại tá Guerrier. Y đem theo vào Huế 600 lính bộ binh. Chưa an tâm, chúng còn đưa cả một đội pháo thủ hộ tống do trung tá Wallarmé chỉ huy.

       Sau hai ngày nghiên cứu địa hình, địa thế, ngày 15.8.1884 Guerrier đưa ra tối hậu thư với hai điều. Thứ nhất, triều đình nhà Nguyễn phải làm đơn xin phép đưa Ưng Lịch lên ngôi; thứ hai, phải mở cửa chính cho y và Rheinart vào đại nội làm lễ phong vương cho nhà vua vào ngày 17.8.1884. Đứng trước tình thế này, hai ông Thuyết, Tường vẫn bình tĩnh tìm kế ứng phó, không mở cửa cho chúng vào thành mà cũng không dàn binh bố trận. Trước sau, hai ông chỉ nói:

        - Chúng tôi sẵn sàng thương thuyết với Rheinart để lập một hòa ước mới.

           Rheinart khinh khỉnh:

       - Hòa ước 1884 vẫn còn hiệu lực, không cần phải thêm bớt điều gì nữa! Nếu các ông không chấp hành theo tối hậu thư, chúng tôi buộc phải nã đại bác vào cung điện thì xin đừng trách!

         Qua ngày hôm sau, ngày 16.8.1884, vào lúc 3 giờ trưa, ông Tường tất tưởi chạy sang tòa Khâm sứ xin lỗi và đồng ý làm đơn. Nhưng khi ông đưa tờ đơn viết bằng chữ Nôm, Rheinart xua tay:

        - Việc trọng đại này mà các ông dùng chữ Nôm à? Viết lại bằng chữ Hán!

         Đứng khệnh khạng với tư cách của một kẻ đang chiến thắng, Rheinart còn bảo:

        - Tôi biết mọi chuyện trở nên rắc rối đều do ông Thuyết mà ra, chứ ông thì không liên can gì (?). Tuy nhiên, tôi cũng xin nói rõ, lẽ ra do sự vi phạm hòa ước đã ký mà chúng tôi có quyền truy tố hai ông ra tòa án binh (?). Nhưng vì các ông có lời xin lỗi nên nước Pháp cũng khoan dung mà bỏ qua!

         Nghe xái tai, ông Tường tức anh ách như bò đá, nhưng cũng đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Xong, ông cũng Rheinart thảo luận về việc làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi.

              Sáng sớm ngày 17.3.1884, ba tên chỉ huy Guerrier, Rheinart và Wallarmé xuất phát từ tòa Khâm sứ, đi sau chiếc kiệu có bài diễn văn bỏ trong chiếc hộp đỏ đặt trên đó, có 25 sĩ quan và 160 tên lính Pháp hộ tống. Ông Thuyết bố trí thuyền đưa chúng đến Bến Ngự. Từ đây cho đến điện Thái Hòa, chúng thấy quân lính nước Nam ngồi cách nhau hai bước một tạo thành một hàng rào thẳng tắp. Họ ngồi chồm hổm quay mặt về hướng điểm đến của bọn Pháp, các thứ gươm giáo, súng để chôn xuống đất khoảng 0,15m để khỏi phải giữ thăng bằng. Như thế khi bọn Pháp đi qua thì họ quay lưng về phía chúng.

          Bọn Pháp chỉ đi tay không, không mang theo bất cứ vũ khí nào. Khi tới cửa Ngọ Môn, chúng lại thấy một cảnh rầm rộ: quân lính cầm vũ khí, voi mặc áo giáp, xe song mã có mái che… được xếp thành hàng dọc trên sân. Ba tên chỉ huy hiên ngang bước vào cửa chính, bọn sĩ quan đi cửa hai bên, còn lũ lính đứng túc trực bên ngoài, không được bén mảng vào bên trong.

         Bước đến trước điện, những tưởng sẽ được thấy mặt vua ngay, nhưng không, chúng chỉ thấy bốn bề tĩnh lặng. Dù trời nóng bức, nhưng chúng cũng phải đứng theo vị trí vừa được viên quan bộ Lễ hướng dẫn. Rheinart bực bội lắm, nhưng cũng phải cố kiềm chế. Mãi lâu sau, chúng mới nghe có tiếng hô vang, loan báo nhà vua sắp đến. Tiếng ồn ào vừa dứt thì chúng thấy Hàm Nghi đang tiến vào cửa giữa điện Thái Hòa. Bốn bề im phăng phắc. Trong lúc bước đi, do long bào hơi rộng và dài nên có hai quan đi theo nâng áo cao khỏi mặt đất. Nhà vua chậm rãi bước lên ngai vàng, ngồi chễm chễ. Rheinart nhận xét “Vua mặc chiếc áo dài lụa màu vàng chạy chỉ thêu. Còn mũ thì vua đội một loại mũ riêng dành cho vua có hơi thấp, làm bằng lông thú, có nhiều phụ thể trang trí bằng vàng. Vị vua trẻ này đúng là có dáng vẻ trẻ con, mặt mày dễ thương, mũi không tẹt như mũi người dân bản xứ”. Lúc nhà vua đã an tọa, các quan bước ra xướng lễ, xong nghi thức này tất cả rút lui có trật tự. Sau đó, một vị quan lớn trong bộ Lễ trịnh trọng bước ra khỏi hàng, tay cầm thẻ ngà, sụp lạy trước mặt nhà vua và trình tấu mục đích của phái đoàn Pháp.

         Theo kế hoạch đã định trước, đại tá Guerrier lấy bài diễn văn trong chiếc hộp đỏ đã đặt trên kiệu, y bước về phía nhà vua, cúi lạy ba cái. Rồi đọc sang sảng.

         Vua Hàm Nghi không đứng dậy mà vẫn yên vị trên ngai vàng, như một pho tượng không động đậy. Đọc xong bài diễn văn công nhận vua nước Nam, y tiến tới đặt trên ngai huân chương bắc đẩu bội tinh. Y đã làm xong nhiệm vụ, vậy mà nhà vua vẫn không nói năng gì. Một không khí im lặng kéo dài khiến chúng rất cay cú, nghi ngờ về thực chất quyền lực của nhà vua. May sao, lúc đó có một vị thượng quan bước gần đến trước và tâu khẽ điều gì đó, nhà vua gật đầu. Xong, vị quan này nói với chúng, đại khái nhà vua có lời cảm ơn chính phủ Pháp, cám ơn những người đã đến dự lễ và mong muốn sự hữu nghị của đôi bên sẽ phát triển lâu dài, v.v…

          Công việc tẻ nhạt này cũng qua nhanh.

         Còn một điều khiến chúng thêm bất mãn, lúc quay ra thì cửa Ngọ Môn đã… đóng kín như bưng. Chúng phải đi về bằng cổng phụ. “Đây chỉ là trò phá bĩnh của ông Thuyết!”. Rheinart càu nhàu, rủa thầm trong bụng.

          Trở về tòa Khâm sứ, Rheinart hội ý với trung tá Perrot phải gấp rút thiết lập hệ thống phòng thủ đồn Mang Cá và chung quanh tòa Khâm.

        Việc làm này đã bị hai ông Thuyết, Tường phản đối kịch liệt, cho rằng việc phòng thủ như thế sẽ làm giảm uy tín của nhà vua và gây lo sợ trong nhân dân…

          Nhưng Rheinart phớt lờ, không thèm để ý đến.

         Ông Thuyết liền tính đến nước cờ phái người vào Nam kỳ bí mật tuyên truyền, xây dựng phong trào chống Pháp để phân tán lực lượng của đối phương. Và ông còn trực tiếp gửi công hàm cho chính phủ Pháp tố cáo những việc làm trái với hiệp ước do nhân viên cao cấp người Pháp đã vi phạm:

       1. Trước khi phê chuẩn hiệp ước Patennôtre, 300 quân Pháp đã tự tiện đóng quân tại đồn Mang Cá sát kinh thành. Vậy khoản 5 của hiệp ước này cần phải sửa đổi: Trại lính bảo vệ tòa Khâm sứ phải đóng ngoài kinh thành để khỏi làm mất uy danh triều đình nước Nam và tránh sự lo ngại không cần thiết trong dân chúng.

        2. Đối với quan chức nước Nam, nhiều công sứ ở Bắc kỳ đã tự tiện bắt bớ, giam cầm, đánh đòn, phạt tiền và kết án họ đến mức tử hình!

         3. Việc kiểm soát tàu bè quá khắc nghiệt, tàu riêng của hoàng đế nước Nam cũng không nể. Vì thế việc trông thương ở Thừa Thiên bị thiệt hại rất nhiều.

       4. Việc hủy quả ấn phong vương của Trung Quốc lẽ ra không nên làm, mà phải trả lại cho Thanh triều. Các võ quan đã có mặt chia nhau cục bạc này tương đương với 240 đồng Mễ Tây Cơ.

        5. Nước Pháp phải trả lại cho triều đình nước Nam sự thu hoạch về t huế thuốc phiện, thuế mỏ và nhiều khoản thu khác.

        Chính phủ Pháp chưa kịp trả lời công hàm này thì một sự kiện đã xảy ra tại Bắc kỳ. Số là mặc dù hiệp ước Fournier đã ký tại Thiên Tân, nhưng sau đó một số quân Thanh vẫn còn ở lại hỗ trợ cho lực lượng Việt Nam chống Pháp, nhất là sau khi Pháp hủy ấn phong vương của Trung Quốc đối với vua nước Nam đã khiến cho “thiên triều” bẽ mặt! Ngày 24.3.1885, quân nhà Thanh đánh một trận dữ dội tại Lạng Sơn, Pháp phải rút về cố thủ ở Bắc Ninh. Sự kiện này chấn động cả chính giới Pháp, vì thế nội các Jules Ferry bị đổ. Ông Thuyết khấp khởi hy vọng, có thể còn dựa vào nhà Thanh để kháng chiến đến cùng. Nhưng rồi, Pháp “trả đũa” bằng cách đánh vào Phúc Châu và bao vây Đài Loan, buộc Trung Quốc phải ký hòa ước Thiên Tân lần thứ hai vào ngày 9.6.1885. Vĩnh viễn từ đây, Trung Quốc rút quân khỏi Bắc kỳ mặc cho quân Pháp cấu xé nước Nam.

         Rheinart được gọi về nước, Lemaire sang thay. Vừa mới đến nhận chức, Lemaire đã nhận được điện của Bộ trưởng bộ ngoại giao Pháp chỉ đạo: “Phải cương quyết trừng phạt hành vi của viên thượng thư bộ Binh nước Nam. Không thể để Thuyết ở chức Phụ chánh lâu hơn nữa, phải bãi chức của y và đày đi thật xa vì y đã trì hoãn việc thi hành hòa ước. Y còn đang tăng cường chuẩn bị chiến đấu và kích động các cuộc nổi dậy chống nước đại Pháp ở Cao Miên và Bắc kỳ”. Lemaire hăm hở lao vào nhiệm vụ một cách quyết liệt.

     Giữa lúc ông Thuyết đang nỗ lực để giành thế chủ động trong việc đối đầu với giặc Pháp, thì trong triều lại xảy ra một vụ việc lộn xộn khác. Trước đây, Rheinart đã từng đề nghị đưa Gia hưng Quận vương lên thay Hàm Nghi, nay bị thất sủng. Y nghĩ là do hai ông Thuyết, Tường phá bĩnh nên tìm cách lật đổ thế lực hai quan đại thần này dù đang nắm quá nhiều quyền lực trong tay. Một trong những thủ đoạn đầu tiên là y vận động hoàng gia phải điều tra cái chết bí ẩn của vua Kiến Phúc, để buộc hai ông có dính dáng trong vụ đột tử này. Công việc đang tiến hành thì bại lộ, Gia hưng Quận vương lập tức bị bắt, nhưng Lemaire can thiệp để thả tự do. Ông Thuyết cương quyết:

        - Ông hoàng này là người nước Nam phải để tòa án chúng tôi xét xử.

       Lemaire ban đầu không đồng ý, nhưng ông Thuyết lập luận đây là việc xét xử về hành vi thuộc về đời tư của một con người, chứ không liên quan gì đến nội bộ triều đình. Mà quả thật, Gia hưng Quận vương vốn nghiện hút nên tòa án nước Nam xử về tội này. Lemaire đuối lý, và nhận thấy “con bài” này không mấy tốt đẹp trong tương lai nên đành phải trả Gia hưng Quận vương lại cho nước Nam.

         Nắm được kẻ phản loạn trong tay, ông Thuyết đã lột hết phẩm nước và đày đi Cam Lộ, con cái phải đổi qua họ mẹ. Những tưởng vậy là xong, nhưng ngày 9.5.1885, lúc y cùng gia quyến lên đường vừa ra khỏi kinh thành thì bị đội Phấn Nghĩa chặn đường, giết không còn một mống!

        Công việc tạm thu xếp xong, ông Thuyết cảm thấy mệt mỏi, quyết định trở về tư dinh nghỉ ngơi dăm ngày.

          Trong lúc này, nhằm cứu vãn tình thế xáo trộn đang diễn ra tại Bắc kỳ và Nam kỳ, chính phủ Pháp quyết định nâng đoàn quân viễn chinh lên quy mô quân đoàn. Đại tướng De Courcy được cử làm Tổng tư lệnh lực lượng quân đội viễn chinh Pháp ở Bắc kỳ và Trung kỳ, nắm toàn bộ quyền quân sự và dân sự. Mới chân ướt chân ráo đến chiến trường, De Courcy phân bố lại lực lượng quân sự và sau đó, y có mặt tại kinh đô Huế. Việc đầu tiên của De Courcy là thay Lemaire để giữ chức Tổng trú sứ. Từ đây, y là người thay mặt chính phủ Pháp để giải quyết mọi việc đối ngoại với triều đình nước Nam, song y lại ủy quyền cho De Champeaux để rảnh tay lo những chuyện lớn!

        De Courcy có mặt tại Huế để làm gì? Câu hỏi đó đang được triều đình nhà Nguyễn tìm câu trả lời.

           ****

       Con đường dốc thoai thoải. Gió thổi lồng lộng. Lời kinh siêu thoát vọng lại trong tiếng thông reo khiến khách trần tục cũng tĩnh tâm. Trong bóng chiều đã dịu nắng, có hai chàng thư sinh thong thả viếng cảnh chùa Thiên Hưng để ngắm cảnh vịnh thơ. Một chàng có gương mặt trắng trẻo, môi đỏ thắm như con gái nhìn cảnh chùa mà nhớ đến cảnh Sài Sơn mình đã đến, chàng là Nguyễn Thượng Hiền, sinh năm 1866, hiệu Mai Sơn, người làng Liên Bạt, huyện Sơn Lãng (nay thuộc Hà Tây). Chàng gật gù ngâm:

Non sông đã biết hay chưa

Khách chơi năm trước bây giờ lại đây

Hỏi thăm những gió cùng mây

Dấu thơ này những lối này phải không?

Nực cười ta với non sông

Càng trông thấy cảnh mà lòng càng ưa

Thôi thời danh lợi cũng vờ

Lên mây xuống hạc ta chờ bạn ta

      Đột ngột chàng im bặt, khi thấy trong chùa thấp thoáng một bóng hồng đang lướt qua… chàng sửng sốt hỏi bạn:

         - Kìa tôn huynh Kỳ Am! Tại sao giữa chống thiền môn lại có một người đẹp đến thế?

         Kỳ Am tức Nguyễn Lộ Trạch, lớn hơn Mai Sơn đến 13 tuổi là con rể của quan Phụ chánh đại thần Trần Tiễn Thành, đã bị đội Phấn Nghĩa của ông Thuyết giết tại tư dinh - đang thả hồn theo mây gió giật mình:

       - Thế Mai Sơn không biết đó là con gái của cụ Thượng thư Tôn Thất Phan sao? Do cụ Phan thông gia với cha vợ tôi, nên tôi biết cụ có bà vợ thứ năm không rõ vì lý do gì xuống tóc lên tu ở chùa này. Cô gái mà em vừa thấy là Tôn Nữ Thị Dậu, cũng theo mẹ lên chùa ở luôn.

     Mai Sơn hỏi tiếp:

         - Thế cô Dậu là người thế nào?

          Kỳ Am cười lớn:

         - Thế em không biết tại chốn kinh kỳ, cô Dậu hay chữ, biết cầm kỳ thi họa mà công việc nội trợ cũng đảm đang nên khiến không ít công tử mê mệt. Thế nhưng, cô ấy lại muốn xa cõi hồng trần!

         Đột ngột Mai Sơn nói:

     - Thế em cưới cô ta làm vợ có được không?

          Dù chỉ mới thoáng gặp nhưng Mai Sơn đã mê mẩn tâm thần.

          Ý định ngông cuồng ấy quả là rắc rối. Vì bây giờ thân sinh của chàng là Hoàng giáp Nguyễn Thượng Phiên đã hỏi con gái quan đại thần Tôn Thất Thuyết cho chàng. Đó là cô Tôn Nữ Thị Ẩn cũng nổi danh tài sắc ở đất kinh kỳ. Biết ý định của con, ông Phiên suy nghĩ suốt mấy đêm liền: nếu đồng ý cho con trai cưới cô Dậu thì sẽ phật ý Tôn đại thần đang nắm quyền cao chức trọng trong triều; nếu chọn cả hai thì dứt khoát cô Ẩn phải chính thất. Thế thì chẳng lẽ cô Dậu chỉ thứ thất? Con nhà lá ngọc cành vàng đời nào chấp nhận như thế! Khó quá! Không còn cách nào khác ông tìm lời khuyên con trai, nhưng trước sau chàng chỉ lắc đầu…

          Trong khi đó, nghe được tin này để tránh phiền phức, cô Dậu quyết định xuất gia. Mai Sơn hay tin liền tức tốc lên chùa Thiên Hưng, chàng gặp sư cụ trụ trì và quả quyết:

           - Tôi đã trót yêu cô Dậu, nếu nhà chùa chứa chấp cô Dậu tu tại đây thì tôi sẽ đốt chùa!

             Cô Dậu sợ quá, chạy về nhà khóc lóc thưa hết mọi chuyện với cha mình. Ông Phan tìm gặp ông Phiên để bàn cách giải quyết. Cuối cùng họ đến tư dinh ông Thuyết để dò xét thái độ ra sao mà có cách ứng phó. Chiều gió hây hẩy thổi đến. Ông Thuyết sau khi dùng cơm xong, vẫn thói quen đi lại trong vườn ngắm hoa. Nghe có người bẩm báo, ông vội quay trở vào trong nhà. Sau khi nghe rõ câu chuyện. Không ngờ ông lại bật lên tiếng cười khanh khách:

         - Ôi dào! Trai trẻ yêu nhau là quyền của chúng nó!

        Nói xong ông không đả động gì đến chuyện ấy nữa, chỉ hỏi:

       - Thế hai ông nghĩ sao về trường hợp tướng De Courcy đem ngót một ngàn quân đến Huế?

         Hỏi cũng chỉ để hỏi. Chứ thật ra khi nghe phong phanh tin De Courcy đến Bắc kỳ thay thế cho vai trò trung tướng Brière de l’Isle thì ông Thuyết đã nhân danh Viện Cơ mật gửi lá thư với lời lẽ đanh thép. Trong thư ngày 18.5.1885, ông Thuyết viết: “Nếu ngài tổng chỉ huy nhận thấy nhiệm vụ bình định quá nặng nề, muốn nhẹ nhõm thì ngài nên chuyển tất cả binh đoàn và hạm đội của ngài về Pháp. Về phía chúng tôi, sẽ tự lập lại trật tự một cách nhanh chóng”. Và biết cuộc chiến tranh đối đầu Pháp – Việt dứt khoát sẽ xảy ra nên ông cũng đã chỉ thị cho các quan đầu tỉnh trong nước bất cứ giá nào cũng không được nhượng bộ Pháp, không được nghe theo Pháp mà thực thi các điều khoản đã ký kết trong các hòa ước 1883 và 1884. Nếu ai không tuân lệnh sẽ phạm vào tội khi quân và tội chống lại cuộc kháng chiến của triều đình Hàm Nghi.

           Nghe ông Thuyết hỏi như thế, hai ông Phan và Phiên chỉ ậm à ậm ừ cho qua chuyện. Mà bình luận như thế nào bây giờ? Vì làm sao họ có thể biết rằng, De Courcy đã được chính phủ Pháp giao cho hai nhiệm vụ quan trọng: bằng mọi cách phải đánh chiếm và bình định vùng đồng bằng, vùng rừng núi Bắc kỳ; dọn đường sông Hồng để đánh chiếm Lào Cai. Muốn như thế, trước hết De Courcy phải làm gì? Người đã tham mưu cho y chính là cha cố đạo thực dân Caspard. Ngay từ lúc De Courcy đến Bắc kỳ, tên mật vụ đội lốt cha cố này đã bí mật báo cáo mọi hoạt động chỉ đạo cho cuộc tổng nổi dậy đánh Pháp của Tôn Thất Thuyết! Vì thế trong “tầm ngắm” đập tan phái chủ chiến trong triều đình Huế, De Courcy đặt ra mục tiêu phải bắt cho được ông Thuyết, người đang nắm ngọn cờ chủ chiến trong tay!

         Nắng chiều dịu dần. Hương ngâu thơm đầy trong tư dinh của ông Thuyết. Những ly trà thơm ngát được rót và mời nhau. Cả ba vị quan đại thần đều trầm ngâm nghĩ đến vận mệnh của đất nước.  Họ phân vân ghê gớm. Không biết phải nên ứng phó như thế nào cho thích hợp. Giây lát sau, ông Phan nói:

       - Tôi có người thân làm bồi bếp trong tòa Khâm sứ. Có thể qua người này, ta biết được ít nhiều kế hoạch của chúng chăng?

        Ông Thuyết gật gù cho là phải.

        Chỉ một ngày sau khi đến Huế, ngày 3.7.1885, De Courcy đã chỉ thị cho Viện Cơ mật sang tòa Khâm sứ để bàn thủ tục nghi lễ cho y trình quốc thư. Nghe tin này, ông Thuyết nổi cáu:

       - Chưa bao giờ trong lịch sử Nguyễn triều lại có chuyện nhục nhã như thế này! Tại sao chúng ta phải qua bên kia sông Hương? Tại sao chúng không vác xác đến? Ai là chủ nhà?

         Câu hỏi được ném vào khoảng trống. Không có tiếng trả lời. Mãi sau, chờ cho ông Thuyết dịu lại, các quan mới nhỏ to bàn tính thiệt hơn về đề nghị của De Courcy. Cuối cùng, tất cả đồng ý cử ông Tường dẫn đầu phái đoàn sang tòa Khâm sứ. Chờ cho mọi người biểu quyết xong, ông Thuyết đứng dậy nói như đinh đóng cột:

        - Ai đi thì đi chứ tôi thì không! Tôi đang bị đau chân!

       Nhờ bồi bếp tòa Khâm sứ tiết lộ, ông Thuyết biết tỏng tòng tong việc bàn nghi lễ trình quốc thư chỉ là cái cớ để De Courcy bắt giữ mình! Do đó, ông quyết không sa vào bẫy “điệu hổ ly sơn” của kẻ thù.

          Trước lúc phái đoàn sang tòa Khâm sứ, ông Thuyết gặp riêng ông Tường bàn kế hoạch phải nổ súng tấn công trước. Ông nói:

        - Từ hòa ước 1884 đến hòa ước Thiên Tân đã đẩy ta đi dần vào chỗ diệt vong. Trước đây liên minh với phía Trung Quốc, ta cũng chưa thắng được chúng, chứ huống gì nay ta phải đơn độc chiến đấu một mình. Nhưng ta không thể ngồi yên để chờ chúng đến trói tay, bịt miệng. Phải đánh!

         Ông Tường bùi ngùi:

         - Ông là người của hoàng tộc, lẽ tất nhiên phải tôn phù xã tắc, còn tôi tuy vô dụng nhưng cũng biết vị quốc vong thân. Nhưng điều tôi âu lo, nếu chiến tranh xảy ra, ta không thắng được chúng thì sao? Chao ôi! Lúc đó, nhân tâm kinh động, vàng ngọc tiêu tan. Nay ta đem của cải đất đai nộp cho chúng để yên chuyện, cũng là một cách giải quyết. Còn nếu ông có cách nào khác để đuổi được chúng, đem lại cuộc sống thanh bình cho muôn dân thì xin tùy ông, tôi không dám bàn đến….

          Ông Thuyết đáp:

        - Ăn cơm vua phải đền nợ nước, binh quyền trong tay mà để giặc chiếm thành thì nhục hơn con chó. Dù thắng hay thua thì cũng quyết đánh!

       Lúc phái đoàn ông Tường đến nơi, không thấy mặt ông Thuyết, De Courcy rất cay cú. Nhưng y chưa vội nổi nóng, chỉ buông ra lời tuyên bố trắng trợn:

        - Nếu các ông muốn nước Nam hòa bình, yên ổn thì nội trong ba ngày phải nạp chiến phí cho chúng tôi là 200.000 thỏi bạc và 200.000 quan tiền!

          Tất cả mọi người đều kinh ngạc. Giây lát sau, đột ngột y quát lớn:

       - Sao không thấy ông Thuyết đến? Có phải ông ta đang chuẩn bị tấn công chúng tôi không?

         Biết y đã cố tình trở mặt gây hấn nên một vị quan đỡ lời:

       - Thưa ngài, quan Phụ chính của chúng tôi đang bị ốm!

       Y cười nhạt:

         - Ốm à? Thế thì phải đi võng sang đây!

          Mệnh lệnh vừa ban ra, các quan của ta vội vã về nài nỉ ông Thuyết, nhưng ông vẫn cương quyết không đi. không chịu thua. De Courcy sai y sĩ Mangin tới tận nơi xem hư thực ra sao. Ông Thuyết không tiếp, lấy cớ không quen dùng thuốc Tây.

          Tình hình rất căng thẳng.

         Trong cuộc hội đàm về lễ trình quốc thư cho vua Hàm Nghi, De Courcy đòi phải mở chính cửa Đại nội cho y và đoàn tùy tùng đi vào. Thấy trái với quốc lễ xưa nay, ông Tường đề nghị lại chỉ một mình y đi cửa chính vào triều, số người còn lại đi cửa hai bên. Lúc tiến lên phòng ngự nhưng chỉ đến cột thứ nhì, phía bên phải thì phái đoàn của Pháp phải dừng lại, trao ủy nhiệm thư cho đại thần, rồi chờ đệ trình lên ngự lãm. Nhưng De Courcy lại không chịu, y bảo vua Việt Nam bước xuống ngai vàng đón y!

         Cuộc họp bàn cãi lằng nhằng mãi.

         Cuối cùng, cả hai bên quyết định chờ ông Thuyết bình phục hẳn rồi sẽ bàn lại.


Chương mười

          Đêm 4.7.1885. Vầng trăng mệt mỏi nép mình vào bóng mây, nhợt nhạt soi bóng xuống dòng sông Hương đang trôi lững lờ… Trong tòa Khâm sứ tiếng khui sâm banh vẫn nổ hào hứng. Ánh sáng lấp lánh trong dinh thự, ngoài vườn cây. Đại tướng De Courcy nâng chiếc ly pha lê trong veo và nheo mắt ngắm nhìn những giọt rượu đang sủi tăm. Y ngửa cổ nốc cạn. Rượu chảy vào cổ họng đê mê đến sảng khoái lạ lùng. Các sĩ quan cầm ly đến chúc mừng, y hăng tiết vị lên tuyên bố:

         - Tôi sinh ra đời dưới một ngôi sao sáng. Đó không phải là điều tự phụ, tôi rất khiêm tốn khi thốt ra điều đó. Tôi tin rằng, khi tôi phân bố lại lực lượng tác chiến ở Huế thì không một ai có thể lay chuyển được bức tường thành vững chãi này.

          Cha cố mật thám Caspard ngắt lời:

         - Tôi biết ngài bao giờ cũng tự tin. Đó là một đức tính tốt của người cầm quân. Nhưng với tư cách là một người đã từng nằm gai nếm mật ở xứ này, tôi chỉ xin phép được nói một lời khiếm nhã.

           Chỉ mới nghe nói thế, De Courcy vênh mặt:

        - Không cần phải rào trước đón sau. Ngài cứ nói!

        Caspard tằng hắng:

          - Bọn An Nam là chúa lật lọng. Chúng nói xuôi cũng được mà nói ngược cũng xong. Xin đại tướng đừng chủ quan mà mất cảnh giác.

          De Courcy đỏ mặt tía tai:

          - Ý ngài muốn dạy cho tôi bài học phải biết khiếp sợ trước bọn An Nam chứ gì? Cho dù ngay đêm nay chúng muốn lật lọng, giở trò tấn công trước, tôi đây cũng chẳng ngán!

         Biết đại tướng đang tự phụ và hiểu sai ý mình nên Caspard im lặng, tiu nghỉu như mèo cụt đuôi.

       Thấy vậy, trung tá Pernot nói dịu:

        - Thưa ngài, đức khâm mạng Caspard nói thế vẫn không thừa. Dù ngài không bận tâm, nhưng dù sao cũng nên ghi nhận đó là thiện ý vì lợi ích chung của chúng ta.

         De Courcy cười khẩy:

          - Nói toạc ra, các ngài muốn nói đến vụ đột kích đêm nay của bọn An Nam chứ gì? Chúng không dám liều lĩnh như thế đâu.

          Cuộc vui vẫn hào hứng. Rượu vẫn rót. Ly vẫn nâng lên những tiếng chạm ly náo nhiệt.

        Nhìn chiếc đồng hồ đang đeo trên tay, biết đã 11 giờ, De Courcy vẫn tiếp tục rót một ly đầy. Y hoàn toàn không biết rằng, đó cũng chính là thời điểm đối phương quyết định cho nổ súng.

             Đêm đã khuya.

          Các viên sĩ quan, nhân viên tùy tùng lục tục chia tay trở về các doanh trại.

          Ông Thuyết muốn đánh úp trong lúc Pháp đang tập trung tòa Khâm sứ, chúng sẽ không kịp trở tay đối phó. Nhưng do mọi sự chuẩn bị chưa chu đáo nên buộc phải hoãn lại. Đã thế, cánh quân phục kích sẵn trên cầu Thanh Long nằm cạnh sông Đông Ba cũng bị vô hiệu hóa. Đơn giản chỉ vì chúng thay đổi lộ trình di chuyển vào phút chót. Theo nhận định của ông Thuyết, sau khi dự dạ tiệc ở tòa Khâm sứ, các sĩ quan Pháp trong đó có trung tá Pernot trở về đồn Mang Cá sẽ qua lộ trình mà ông đã dự đoán. Do đó, ông chủ động cho mai phục để giết trước bọn này. Nhưng rồi, chúng trở về không phải bằng đường bộ mà bằng đường sông, thuyền của chúng đi theo ngả sông Hương chạy dọc theo Cồn Hến gần bến Vỹ Dạ, chứ cũng không đi theo ngả sông Đông Ba.

          Tiếng gà gáy từ xa xăm vọng lại.

          Vầng trăng đã lên giữa đỉnh trời. De Courcy ngả lưng xuống giường, nhưng tận hưởng giây phút thú vị ấy chưa bao lâu y giật thót người. Đột nhiên một tiếng đại bác nổ vang trời. Hiệu lệnh tấn công đã bắt đầu vào đúng giờ Sửu. Một giờ sáng.

       Người chỉ huy trận đánh đầu tiên ấy, chính là chiến tướng Tôn Thất Thuyết.

         Tiếng đại bác đồng loạt gầm lên.

       Cả kinh thành rực lửa.

         Đạo quân thứ nhất của ông Tôn Thất Lệ - em ruột ông Thuyết, Tham biện sơn phòng Quảng Trị – chỉ huy vượt sông đánh úp tòa Khâm sứ. Ngay trong đêm khuya, đạo quân này di chuyển bí mật qua sông Hương, rồi phối hợp với khoảng 5.000 thủy quân của triều đình ở các dãy trại Thủy sư, dọc bờ sông để nổ súng tấn công. Cùng lúc, những khẩu đại bác đặt trên mặt đông nam thành Huế nhanh chóng nã đạn yểm trợ cho đạo quân này.

       Đạo quân thứ hai, trong đó có hai đội Phấn Nghĩa do đề đốc Trần Xuân Soạn chỉ huy tập kích vào đồn Mang Cá.

     Đạo quân thứ ba do chính Tôn Thất Thuyết chỉ huy, đóng ở Hậu Bộ - ở phía sau Đại nội, là một khu vườn rất rộng, có tường cao bao bọc - làm nhiệm vụ vừa điều phối chung, vừa trợ chiến, vừa dự phòng nếu cuộc tấn công thất bại thì phò giá hoàng gia chạy về Tân Sở. Ngoài ra ông còn bố trí cho lính chống giữ hoàng thành, rồi các cửa Đông Ba, An Hòa, cửa hậu, cửa chính… đều có những vệ quân canh phòng nghiêm ngặt; còn phía ngoài thành thì có tượng binh sẵn sàng xung trận.

    Chính thực hiện được yếu tố quan trọng về thời cơ và bí mật nên quân triều đình đã giành được thắng lợi đáng kể.

       Bọn giặc Pháp hồn kinh phách lạc, tiến thoái lưỡng nan như gà mắc tóc. Đại bác bắn thủng mái nhà và lầu của tòa Khâm sứ tạo nên cảnh tượng nhốn nháo, giặc không biết phải ẩn náu nơi đâu. Chúng trúng đạn, chết như rạ. Còn phía đồn Mang Cá, là người chỉ huy dày dạn kinh nghiệm trận mạc, Trần Xuân Soạn đã sử dụng các đội quân – vốn là tù nhân nay được sung binh để lập công chuộc tội – len lỏi theo dọc bờ sông phóng hỏa đốt hết các doanh trại của giặc. Sau những giây phút kinh hồn, trung tá Pernot và thiếu tá Matzinger đã ra lệnh cho quân sĩ không được tháo chạy, phải liều chết trụ tại trận tuyến, gấp rút sử dụng 6 khẩu đại bác 121 ly đẩy lùi những đợt tấn công của đối phương. Nhưng chúng kinh ngạc, khi tận mắt chứng kiến dù hỏa lực đang khạc lửa nhưng nghĩa quân dũng cảm vẫn ùn ùn tiến lên đánh trực diện… Trong tay chỉ có gươm, đao, mã tấu vậy mà họ cũng xông vào với hòn tên mũi đạn, khiến giặc tử thương nhiều vô kể…

        Do trận tập kích “xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị”, diễn ra trong đêm tối nên bọn giặc Pháp chưa dám phản công mạnh, một phần do không thông thuộc địa hình, một phần vì chúng quá bất ngờ…

        So sánh lực lượng đôi bên thì bấy giờ Pháp chỉ có khoảng 1.400 quân lính chuyên nghiệp, được huấn luyện chu đáo, được trang bị hệ thống máy điện báo, có được vài pháo hạm và 17 khẩu đại bác. Còn phía triều đình Huế có khoảng 20.000 nghĩa quân, nhưng phương pháp và kỹ thuật tác chiến thua xa đội quân xâm lược nhà nghề; về vũ khí thì ta có đến 1.100 khẩu thần công – nhưng lại quá lạc hậu so với vũ khí hiện đại của giặc. Vì thế lúc mặt trời ló dạng, chúng đã từng bước giành được quyền chủ động.

        Rạng sáng ngày 5.7.1885, pháo Javeline đậu tại làng Bao Vinh đã ấp tập nã pháo vào phía đông bắc thành… để dọn đường cho bộ binh tiến công. Trung tá Pernot quyết định triển khai đội hình phản công theo ba hướng: cánh trái do thiếu tá Metzinger chỉ huy có nhiệm vụ tiến dọc theo bờ thành đông bắc, đánh dứt điểm một đồn của nghĩa quân gần cầu Thanh Long, xong tiến lên đánh chiếm bộ Lại và bộ Binh; cánh giữa do đích thân Pernot chỉ huy, vòng qua hồ Tĩnh Tâm phía tây nam hỗ trợ quân của thiếu tá Metzinger, rồi cùng phối hợp tiến đánh vào Đại nội; cánh phải là đại đội 4 Bắc Phi tiến quân dọc theo hướng tây nam để cùng đánh vào Đại nội.

         Sự phối hợp nhịp nhàng này đã tạo ra hiệu quả chắc chắn nhất.

       Chỉ trong vòng ba tiếng đồng hồ, nghĩa quân đã bị đánh bật ra ngoài kinh thành Huế, người chết nhiều không kể xiết (*)***** chính từ sự kiện này mà tại Huế, hàng năm cứ đến ngày 23.5 âm lịch nhà nào cũng có giỗ, cho nên người ta gọi ngày ấy là “Quẩy cơm chung”.******** khoảng từ 1.200 đến 1.500 người, bỏ lại 812 khẩu đại bác, 16.000 khẩu súng các loại… Kinh thành đã lọt vào tay giặc. Trong lúc lúng túng vì không có cờ tam tài trong tay, bọn chúng đã nhanh trí tháo những thắt lưng của bọn lính Phi, quơ quào những miếng vải màu đỏ và trắng để kịp thời làm thành lá cờ. “Lá cờ” oặt oẹo này được treo trên kỳ đài. Sau đó, đang hăng máu chúng đốt phá hết những gì xuất hiện trước mắt! Chiến lợi phẩm lớn nhất mà chúng thu được là hàng trăm hòm vàng, bạc nén… Mà sau đó, chúng phải cử ra 50 tên lính Pháp suốt năm ngày ròng rã sắp xếp lại số vàng bạc này!

       Dù phản công có hiệu quả, nhưng De Courcy cũng không hài lòng. Khi báo cáo lại sự việc cho chính quốc, y lúng búng như chó ăn vụng bột, không biết phải “ăn làm sao nói làm sao” vì đã không thực hiện được hai nhiệm vụ quan trọng mà y huênh hoang trước lúc kéo quân vào Huế: trình quốc thư để sau đó buộc vua nước Nam phải chấp thuận một số điều kiện mới và bắt sống Tôn Thất Thuyết.

         Trời sáng hẳn. Lúc 9 giờ 30 sáng. Bị đánh bật ra khỏi vị trí chiến đấu, nghĩa quân rút khỏi kinh thành, qua các hướng cửa Đông Ba, cửa Hữu… trước đó vài phút, biết đã núng thế, Tôn Thất Thuyết tập trung tàn quân chực sẵn ngoài cửa Chưởng Đức, rồi mời vua Hàm Nghi cùng tam cung (tức bà Từ Dụ, bà Trang Ý, bà Học Phi) và các tùy tùng mau chạy trốn. Riêng ông Tường, được bà Từ Dụ giao cho nhiệm vụ ở lại để điều đình với Pháp. Nhà vua thảng thốt:

     - Ta có đánh nhau với ai mà phải chạy?

        Mọi người còn đang chần chừ thì ông Thuyết đã quắc mắt, tuốt gươm ra…

         Tất cả khiếp đảm răm rắp thi hành trong lúc tiếng súng của giặc còn nổ vang trời. Nhà vua ngồi trong kiệu bị chao đảo liên tục, đầu va chạm vào thành kiệu bị chảy máu ròng ròng, nên đành phải nằm trên võng. Sợ giặc đuổi theo nên mọi người chạy rất nhanh, tới đò Kẻ Vạn không có thuyền nên phải lội sông, chỉ đi dăm bước thấy nước quá sâu, phải quay lui. Đoàn hộ giá chạy về hướng chùa Thiên Mụ, lên đến Trường Thi thuộc làng La Chữ.

          Đêm xuống rất nhanh. Ai nấy đều mỏi mệt và không còn đủ sức đi tiếp được nữa.

        Nhưng ông Thuyết không thể chợp mắt được…

        Rạng sáng ngày hôm sau, ông Thuyết chỉ huy đoàn người đi tiếp về phía bắc, mãi đến khuya mới dừng chân nghỉ tại nhà của một ông phú hộ làng Văn Xá, qua ngày sau mới tới Quảng Trị. Nghỉ ngơi tại đây vài ngày, chiều ngày 8.7.1885, bà Từ Dụ triệu tập cuộc họp bá quan văn võ. Bà tỏ ý muốn trở về Huế, thừa nhận Hiệp ước 1884. Nhưng ông Thuyết phản đối.

       - Cuộc kháng chiến chỉ mới bắt đầu. Chúng ta còn cả vùng rừng núi phía Bắc, đồng bằng phía Nam rộng lớn thì chẳng sợ gì bọn Tây dương mũi lõ. chúng đi hàng ngàn cây số đến nước ta chỉ vỏn vẹn vài ngàn người, ta có hàng triệu triệu người thì lẽ nào khuất phục chúng?

       Bà Từ Dụ đáp:

         - Ta đồng ý. Nhưng giao chiến vẫn chưa phải kế tốt nhất. Thử hỏi, Tam cung tuổi già sức yếu liệu có đi theo được không? Rồi đây ai lo nhang khói, lăng tẩm mồ mả cho Thái tổ Gia dũ hoàng đế, Hy tông Hiến văn hoàng đế…

       Vừa nhắc đến tiên triều, bà Từ Dụ đã ôm mặt khóc ròng. Ai nấy cũng mủi lòng. Ông Thuyết hỏi các quan đại thần:

           - Thế thì ý của các ông như thế nào?

     Nhiều người tán đồng với ý kiến của bà Từ Dụ. Nhà vua khóc hu hu cũng xin được quay về  Huế. Ông Thuyết trừng mắt nhìn Hàm Nghi:

     - Thương thuyết chỉ là chuyện tạm thời. Thằng giặc Pháp dày xéo giang san ta bằng đạn đồng, súng sắt thì ta không xin xỏ được đâu. Chỉ có thể giành lại ngôi báu của tiên đế bằng giọt máu cuối cùng.

          Bà Từ Dụ vẫn điềm tĩnh:

        - Ta vẫn biết thế. Nhưng cơ hội mỗi thời một khác. Vì thế ta đã giao nhiệm vụ cho Tường ở lại để th ương thảo với người Pháp, xem có dàn xếp mọi việc được không! Còn Thuyết, ta hiểu tấm lòng báo quốc của ngươi, nếu ngươi quyết đánh đuổi bọn chó sói lang thì ta giao ngươi phải bảo vệ long thể của đức vua, được toàn quyền tiền trảm hậu tấu.

        Ông Thuyết đồng ý và chia mọi người ra thành hai nhóm: Một nhóm gồm hoàng thái hậu, những người trong hoàng gia và quan lại già yếu được ở lại Quảng Trị; còn vua Hàm Nghi, các võ tướng, văn quan có tinh thần kháng chiến tiếp tục theo đường Cam Lộ lên chiến khu Tân Sở mà ông đã chuẩn bị từ trước.

       ***

        Sông Hương đục ngầu. Xú khí người chết vẫn còn tanh tưởi trong không gian. Cây lá xác xơ, ủ rũ trong nắng sớm. Đêm nay, ông Tường không ngủ được. Chỉ nghe tiếng chó rú trong khuya ông đã giật thót người, nhảy xuống khỏi giường, lẻn ra ngoài vòm cây sau tư dinh để quan sát mọi động tĩnh. Pháp bắt được sẽ treo cổ ngay lập tức, ông lo sợ, mệt mỏi và chán nản tột cùng. Đi theo kháng chiến thì không xong, ở lại cũng không xong nốt. Phải chi mình đi theo ông Thuyết thì nhẹ nhàng hơn. Dù có chết cũng chỉ chết một lần. Còn chết dần như thế này cực quá. Bà Từ Dụ giao cho ta ở lại để thương lượng với chúng, nhưng ta có gì để thương tượng? Nhà vua đã được hộ giá rời khỏi kinh thành, quân đội đã tan tác… chao ôi! Trong tay ta có gì? Chẳng có gì cả. Suốt đêm 5.8.1885, ông Tường gần như thức trắng. Đêm dài dằng dặc. Chỉ mới thức một đêm mà hai con mắt đã sâu hoắm và tóc lốm đốm bạc. Chỉ còn một cách an toàn nhất là ra đầu thú với giặc. Tường nghĩ đến tên tu sĩ gián điệp Caspard đang ở Kim Long.

       Rạng sáng 6.8.1885, Tường uốn lưng co gối đến nhà Caspard. Caspard mừng như bắt được vàng. Sau một vài câu trao đổi, y đồng ý dẫn Tường đến gặp De Courcy. Trong khi Tường thậm thò thậm thụt đứng ngoài cổng, y vào trong tòa Khâm sứ báo cáo với De Courcy. Nghe xong, De Courcy lạnh lùng:

        - Máu bò cũng như tiết dê. Tường hay Thuyết cũng một giuộc như nhau thôi. Biết đâu Tường được phân công ở lại Huế làm nội gián?

          Caspard quả quyết:

        - Xin ngài đừng lo. Tôi biết tính cách của Tường. Nếu Tường như Thuyết thì Tường đã không vác mặt đến đây. Ngài cứ sử dụng có thiệt gì đâu mà ngại!

        De Courcy đắn đo suy nghĩ một lúc, nói như cóc cắn:

        - Sử dụng kẻ đầu hàng cũng giống như một canh bạc mà ta đã lộ con bài tẩy. Ông hiểu chứ? Thôi thì, ta vừa sử dụng Tường như một công cụ chính trị nhưng cũng vừa bí mật theo dõi. Vậy là xong.

         Nói xong, De Courcy cho gọi Tường vào. Rụt rè như gà gặp cáo, Tường lẳng lặng nghe De Courcy giao nhiệm vụ. Chỉ hai tiếng đồng hồ sau Tường và De Courcy cùng ký chung tên trong bản thông cáo “Tình hữu hảo giữa hai nước Pháp – Việt”. Nội dung của bản thông cáo này nhằm đánh gục ý chí chiến đấu của phe chủ chiến và kêu gọi nhà vua cùng Tam cung trở về kinh thành. Xong, De Courcy giao nhiệm vụ cụ thể cho Tường trong vòng hai tháng phải đưa vua Hàm Nghi về, dẹp yên các cuộc khởi nghĩa. Tường đồng ý. Từ đây, Tường ở luôn tại Thương Bạc dưới sự giám sát của đại úy Schmitz.

        Bản thông cáo được dán khắp hang cùng ngõ hẻm, nhưng không hiệu quả. Vài ngày sau, Tường viết tiếp bản thông cáo cho phép một thời hạn 12 ngày để những người đi theo ông Thuyết được phép trở về Huế an toàn. Kế tiếp, Tường lại cùng De Courcy ký bản thông cáo yêu cầu ông Thuyết phải giải tán lực lượng kháng chiến.

        Đêm nay, bóng trăng chênh chếch trên trời cao. Tường bần thần ngồi nhìn qua song cửa. Mình đã làm những trò gì trong mấy ngày qua? Ma đưa lối quỷ đưa đường chăng? Bất giác Tường ứa nước mắt. Tường nuốt nước bọt. Cổ họng đau điếng. Vì thế, mấy ngày nay Tường không ăn uống được gì. Từ xa vọng đến câu hò buồn não ruột. Một giọng nữ ngân dài ngọt ngào:

Hai ngang ba phết

Em không biết, em hỏi lại anh

Từ Hà Nội đến kinh thành

Quan sầu, dân thảm hỏi anh chữ gì?

       Trái tim trong lồng ngực của Tường đập thình thịch. Tường đang lắng nghe. Hồi hộp. Dân tình đang ám chỉ ai đây? Một giọng nam vang lên:

Hai ngang ba phết là chữ “thất”

Thất là thất thủ kinh đô

Quan sầu, dân thảm, vì mưu đồ ông quận thâm!

       Tường tái mặt,thiên hạ gán cho mình hai tiếng “quận thâm” ô nhục làm sao! Tường đập tay vào ngực, tự mắng mình chỉ là một thứ hoa tàn nhị rữa. Tường gục đầu xuống bàn. Tường nhớ đến những ngày cùng ông Thuyết bàn kế hoạch đánh Pháp. Để có đồng đúc đạn, chính ông hiến kế cho triều đình ra lệnh tịch thu các tiền đồng cũ đổi lấy tiền mới. Những tiền đồng mới được làm mỏng như tờ giấy, để dôi ra một tượng đồng cần thiết, đã bị dân chúng phản ứng chỉ trích thậm tệ. Không biết rõ mục đích của việc đổi tiền nên dân chúng đã trút mọi oán hờn xuống đầu ông Tường. Dù oan, nhưng làm sao thanh minh? Cuối cùng để trấn an dư luận, ông đã chém đầu hai tên Tàu thầu việc đúc tiền. Thế mà tiếng xấu vẫn bám theo ông mãi… Rồi ông nghĩ, mình từng là một đại quan trong triều, nhưng nay về dưới trướng De Courcy thì thân phận nào khác chi giậu đổ bìm leo. Ngay cả Tôn Thất Bá, kẻ bị ông Thuyết tống giam, nay do kinh thành thất thủ mới được tự do cũng không thèm chào ông lúc gặp mặt!

         Đêm qua nhanh.


Chương mười một

     Dỗ dành mãi, nhưng nhà vua vẫn khóc, ông Thuyết giận quá, mắt long lên sòng sọc, thét:

        -Nếu bệ hạ muốn quay về thì hãy để đầu lại đây!

         Vua Hàm Nghi sợ hãi nín thinh.

          Hơn ai hết, ông Thuyết biết rằng, việc truy lùng vua Hàm Nghi và bắt giết ông đang là mối quan tâm hàng đầu của De Courcy. Thật vậy, y hạ lệnh mở nhiều cuộc càn quét trên quy mô lớn theo chiến thuật “nội công, ngoại kích”. Nội công là từ các căn cứ dưới quyền chỉ huy của trung tá Chaumont đóng ở Nghệ An phóng ra các cuộc hành quân, càn quét trên quy mô lớn; ngoại kích là ở phía Bắc các cánh quân của trung tá Mignot tiến vào Huế và từ Huế, trung tá Metzinger phối hợp tiến ra… chúng thực hiện theo phương châm “vết dầu loang” nghĩa là đánh chiếm được vị trí nào thì lập chính quyền tay sai, ổn định xong mới tiến đánh nơi khác, nhờ vậy công việc bình định được tiến hành một cách chắc chắn có hiệu quả.

      Bóng trăng treo giữa đỉnh trời. Rừng xào xạc gió. Ngồi trầm ngâm một mình giữa trời khuya, ông Thuyết trầm ngâm như một tượng đá, cho gọi Hiệp biện đại học sĩ Phạm Thận Duật đến. Ông nói chậm rãi:

         - Thằng Tường đã phản bội. Những thông báo của y đứng chung tên với kẻ cướp De Courcy đã gây hoang mang trong giới sĩ phu nước nhà. Ông là người có văn tài nhất theo phò đức vua, vậy ông phải viết một bài hịch kêu gọi toàn dân kháng chiến và đập tan luận điệu mị dân của chúng.

      Ông Duật ngỡ ngàng:

         - Đức vua còn đó, ông còn đây, tôi phận mỏng tài kém nào dám múa bút?

         Ông Thuyết đáp:

         - Ai cũng phận mỏng tài kém, nhưng đã làm người thì phải biết trung hiếu vẹn toàn. Đức vua nhỏ tuổi, chưa thể lo toan đại sự, những kẻ tôi tớ như tôi, như ông cũng đều phải làm thân con ngựa thồ gánh vác giang san này.

          Ông Duật gật gù:

           - Tôi hiểu ý của ông.

        Ông Thuyết nắm chặt hai tay:

       - Tôi là võ tướng chỉ biết xuất quân, đối đầu với hòn tên mũi đạn. Ông là người học rộng, kiến thức uyên thâm, chữ nghĩa thánh hiền đầy một bụng. Vậy ông hãy thay mặt đức vua, đem chữ nghĩa giáo huấn muôn dân, vỗ về trăm họ.

          Ông Duật cúi đầu, lẳng lặng quay về chỗ nghỉ của mình. Dưới ánh sáng lờ mờ của đĩa đèn dầu phộng, người con trung hiếu của vùng đất Ninh Bình đặt bút viết. Nét  chữ như phượng múa rồng bay. Ngoài trời nổi gió. Báo hiệu một cơn giông dữ dội. Bắt đầu từ giây phút này, lịch sử nước nhà chính thức mở ra giai đoạn Cần vương hào hùng, nhân sĩ hào kiệt từ Nam chí Bắc đã đồng lòng đứng lên đánh giặc xâm lược theo lời kêu gọi từ chiếu Cần vương. Mạch văn của Phạm Thận Duật từ trong máu thịt như sông suối, mưa nguồn trào ra trên trang giấy:

           “Dụ: Dùng binh có ba cách: đánh, giữ và hòa; đánh và giữ đã không được vì đòi hỏi của giặc khôn cùng. Tình thế đất nước vô cùng khó khăn, nên phải theo kế người xưa tạm thời lánh nạn. Đất nước trong cơn hiểm nghèo binh lửa. Trẫm còn ít tuổi vẫn phải nối ngôi tìm cách tự cường. Sức ép của giặc ngày càng lớn, kinh thành sống trong sự nơm nớp lo âu, nguy cơ chỉ trong sớm tối; triều đình phải mưu tính đến sự vững bền xã tắc. Nếu như ngồi để vâng mệnh cúi đầu, thì sao bằng dò xét mà đối phó, để tính toán việc mai sau, vì thế Trẫm nghiến răng nổi giận, muốn giết sạch quân thù! Chuẩn bị vũ khí chiến đấu, sao bằng nhiều người hưởng ứng? Các quan nhiều người biết chết cho điều nghĩa.

    Trẫm đức mỏng, gặp biến cố, không mang hết tài sức ra làm việc được, để kinh thành bị vây hãm, xe thái hậu phải đi xa đó là tội ở Trẫm. Các quan khanh sĩ biết luân thường, đều không bỏ Trẫm. Người trí thức hãy bày mưu, người võ nghệ hãy giúp sức, người giàu có hãy đóng góp để giúp quân lính, cùng đồng tâm hiệp lực, không sợ gian nguy, sao cho gỡ được cái họa của đất nước, như vậy trời cũng phù trì mà chuyển loạn thành trị, giữ đất nước được vẹn toàn, cơ hội này làng xã và thần dân sao chẳng quan tâm lo nghĩ. Nếu ai sợ chết, muốn sống yên vui, lo cho gia đình hơn lo việc xã tắc thì hãy chối từ. Ai tránh việc quân mà rời bỏ đội ngũ, bỏ chỗ sáng lao vào chỗ tối, sống lén lút vui thú với đàn bà, như vậy là trọng tội với triều đình, pháp luật sẽ trừng trị, hối về sau thì đã muộn. Phải nghiêm sợ mà tuân theo.

       Hàm Nghi năm thứ nhất ngày mồng 3 tháng 6.”

          Từ ngày 13.7.1885, văn bản này được gửi đi khắp cả nước. Sức mạnh của từng con chữ một khi đứng về phía chính nghĩa có thể đánh tan hàng vạn quân thù. Nhân sĩ ba miền nổi lên hưởng ứng chiếu Cần vương, đứng lên cứu nước. Tại Phú Yên, Bình Định có Mai Xuân Thưởng, Bùi Điền, Đoàn Đào Kích; tại Quảng Nam có Trần Văn Dư, Nguyễn Duy Hiệu, Nguyễn Hàm; tại Nghệ An có Nguyễn Xuân Ôn, Lê Trọng Vinh; tại Quảng Bình có Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân; tại Thanh Hóa có Tống Duy  Tân, Cầm Bá Thước, Đinh Công Tráng, Phạm Bành; tại Hà Tĩnh có Phan Đình Phùng, Cao Thắng, Lê Ninh; tại Hải Dương có Tán Thuật, Đốc Tít, Nguyễn Cao; tại Bắc Giang, Thái Nguyên có Ba Phúc, Đề Nắm,Đề Thám, tại Sơn Tây có Đề Kiều, Đốc Ngữ v.v…

          Không chỉ viết chiếu Cần vương, Phạm Thận Duật còn được ông Thuyết giao cho nhiệm vụ ra Bắc tổ chức liên kết các lực lượng kháng chiến. Trên đường vượt biển ra Bắc, ôngbị đau ốm phải nằm lại tại Quảng Trị và không may sa vào tay giặc Pháp.

          Trước sự lớn mạnh của phong trào kháng chiến, De Courcy hết sứ lo lắng. Dù chiếm được kinh thành, nhưng không có vua, không có chính quyền thì “bảo hộ” cho ai, lấy ai thi hành các điều khoản đã ký kết? Y sai Tường bằng mọi cách phải ra Quảng Trị chiêu dụ Tam cung về Huế để bàn việc lập vua mới. Tường đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Hớn hở trước tin này, Tường nghênh ngang đi gọi cho các quan đi rước Tam cung về hoàng thành. Mọi người khinh bỉ không nói gì, duy chỉ có hội giá đại thần Hồ Hiển rút gươm ra chĩa vào mặt Tường, quát:

          - Ông là Phụ chính, nước nhà đến nông nỗi này, ông phải đi theo hộ giá thì mới đúng đạo hiếu trung. Cớ sao ông lại khuyên ngự đạo quay về làm tôi tớ cho ngoại bang? Nếu ông nói nữa, tôi chém!

          Tường cụp mặt, thủi thủi bước…

             Theo lệnh của De Courcy, Tam cung xuống chỉ chuẩn cho Thọ Xuân Vương Miên Định, chú của vua Tự Đức, làm Nhiếp lý quốc chính để lo việc nước. Công việc như thế cũng đã tạm ổn. Dăm ngày sau, De Courcy khôn khéo tính thêm từng bước khác nữa. Y giao cho De Champeaux giữ bộ Binh; cho gọi Nguyễn Hữu Độ – Tổng đốc Hà Ninh về Huế trông coi Viện Cơ mật; cất nhắc Phan Đình Bình – Tổng đốc Định An lên giữ bộ Hộ và cũng đưa vào Viện Cơ mật.

     Đi những nước cờ đơn giản như thế, De Courcy đã loại Tường ra ngoài quyền lực, chỉ đứng chầu rìa như một kẻ vô tích sự! Dù vậy từ chiến khu, ông Thuyết còn ra lệnh cho quân kéo về đốt tư dinh thường ở gần chợ Đông Ba vì đã hợp tác với giặc trong thời gian qua.

        Ai hiểu được tâm trạng của kẻ sống giữa hai làn đạn?

         Sau khi viết xong bài thơ bộc bạch nỗi lòng sâu thẳm của mình, thường nghĩ chỉ còn một cách tốt nhất là tự sát:

Xa giá ngàn trùng lẫn dặm xanh,

Lòng tôi riêng luyến chốn lan đình.

Dở hay xin mặc người sau xét,

Vua nước đôi đường hỏi trọng khinh?

        Nhưng De Courcy đã không cho phép Tường được chọn cái chết như thế. Ngày 27.7.1885, đã hết thời hạn giao hẹn giữa Tường với De Courcy về việc chiêu dụ vua Hàm Nghi trở về kinh thành. Cho gọi Tường vào trong tòa Khâm sứ, De Courcy đập tay xuống bàn, chỉ tay vào mặt Tường, quát:

        - Chỉ có một chuyện dễ dàng như nhổ nước bọt vào tay, ông làm cũng không xong!

           Tường lừng khà lừng khừng:

     - Tôi xin cố gắng!

        - Không cần thiết nữa. Ông có cố gắng, có muốn tỏ ra trung thành với nước Pháp thì mời ông sang đảo Tahiti mà thực hiện!

         Ngước nhìn De Courcy, Tường cay đắng không thốt nên lời. Con giun xéo lắm cũng quằn. Tường ngẫm nghĩ một lát rồi gằn giọng:

          - Thân tôi như cá nằm trên thớt. Ngài muốn làm gì thì làm! Đừng có hăm dọa!

          Lần đầu tiên thấy Tường có phản ứng, De Courcy chưng hửng:

         - Ông thách tôi đấy à?

         - Tôi không thách. Làm người chỉ chết có một lần. Tôi chỉ tiếc không được chết lúc đang cầm súng chiến đấu chống lại quân đội của ông thôi.

        Thái độ nổi nóng của Tường đã khiến De Courcy càng chưng hửng. Thì ra, một kẻ sĩ nước Nam dù đã vào bước đường cùng nhưng cũng khí phách đấy chứ! Nhưng y không tranh luận, gọi bọn thuộc hạ vào trói Tường lại, tống ngục, chờ ngày đày đi đảo.

         Trên chuyến tàu đi đày, ngoài Tường ra còn có cụ Tôn Thất Đính - cha của ông Thuyết ở tuổi ngoài 80 và ông Phạm Thận Duật. Riêng Tường, chính phủ Pháp đã cấp cho 30.000 France. Nhưng cuối cùng, các đại quan trong triều không đồng ý. Không những thu tiền lại, chúng còn ra lệnh thu hồi tất cả sắc bằng triều đình đã cấp cho Tường để hủy bỏ và tịch thu sạch sành sanh tài sản của Tường! Lênh đênh ngoài biển khơi, sóng lớn, ông Duật bị bệnh chết, bọn Pháp tàn nhẫn ném xác xuống đại dương thuộc vùng biển Malaixia, làm mồi cho cá mập! Còn Tường sang đến đảo Tahiti chết vì bệnh ung thư cuống họng. Lạ thay, mắt Tường cứ mở trao tráo, miệng Tường cứ há hốc như muốn phân bua một điều gì đó với hậu thế…

         Trong khi đó, với cương vị của mình, Nguyễn Hữu Độ vốn tay láu á, trơ đến lõi, liền nghĩ rằng cờ đã đến tay phải phất thôi! Y tìm cách thương lượng với giặc phế vua Hàm Nghi và đưa con rể của mình là hoàng tử Chánh Mông - con nuôi vua Tự Đức lên ngôi – với niên hiệu là Đồng Khánh vào tháng 9.1885. Đồng Khánh là người đầu tiên của triều Nguyễn, đóng vai “nhà vua” để nhận tiền lương hàng tháng do Pháp chu cấp!

       Ngay từ giây phút được cha vợ cùng với giặc Pháp o bế đặt ngồi trên ngai vàng, việc đầu tiên của bù nhìn Đồng Khánh là cầm bút ký dụ tước hết chức vụ, tịch thu gia sản của những thượng quan đã tham gia kháng chiến!

         Riêng đối với ông Thuyết, y còn ra lệnh xóa tên trong sổ Tôn nhân, bắt đổi ra họ mẹ là Lê Thuyết! Còn quyết tâm bắt cho bằng được cơ quan đầu não phe chủ chiến, y lại ra dụ phong hàm Chánh nhị phẩm, tấn phong tước Nam cho những ai bắt được Hàm Nghi; thưởng những 1.000 lạng bạc nếu bắt sống được ông Thuyết, còn chém được thì thưởng 800 lạng. Vẫn chưa hết, y lại liên tiếp ra những dụ kêu gọi văn thân Trung kỳ không nên nghe theo tiếng gọi của “Cần vương hướng nghĩa” và sĩ dân Bắc kỳ không được ủng hộ Tôn Thất Thuyết.

        Bất chấp mọi thủ đoạn đê tiện đó, cuộc kháng chiến trong nước vẫn nổ ra dữ dội khắp nơi. Sĩ phu cả nước vẫn hướng về Hàm Nghi, do đó, mới có câu:

       Ngẫm xem thế sự mà rầu

       Ở giữa Đồng Khánh, hai đầu Hàm Nghi.

      là vậy.

     ****

         Trú quân tại Tân Sở, ông Thuyết đã nhận ra đây không phải là vị trí thuận lợi cho việc dụng binh, vì nếu giặc án ngữ được Cam Lộ sẽ cắt đứt đường liên lạc của nghĩa quân với các tỉnh trong nước. Do đó, ông ra lệnh nghĩa quân tiến ra Quảng Bình, tìm đường ra Bắc. Giặc Pháp ráo riết đuổi theo. Bị chặn đường, nghĩa quân lại phải đưa vua Hàm Nghi quay về Tân Sở, ba ngày sau lánh sang Lào, rồi quay về Hà Tĩnh, đóng ở Ấu Sơn thuộc huyện Hương Khê. Những tháng ngày gian nan này, chẳng may vua Hàm Nghi bị bệnh thương hàn, nằm liệt một chỗ, hễ có động nghĩa quân lại cõng chạy. Dù trăm bề, nhưng không ai có một lời than oán. Họ biết rằng, chủ tướng Thuyết còn đau khổ hơn nhiều. Cha già đang đau ốm, sống trong tình trạng hôn mê, bán thân bất toại cũng bị giặc bắt đi đày; mẹ già không chịu được lam chướng đã bị bệnh chết. Vợ con cũng tan tác hết cả, có những người con chạy kịp theo ông như Tôn Thất Đạm, Tôn Thất Thiệp, Tôn Thất Hoàng, Tôn Thất Trọng, số còn lại phải sống tại kinh thành hoặc chạy về quê trốn giặc, họ cũng đang bị truy lùng, chịu o ép trăm bề. Và các em của ông như Tôn Thất Hàm, Tôn Thất Lệ, Tôn Thất Phong… cũng không sợ gian khổ, đang chiến đấu anh dũng dưới ngọn cờ Cần vương.

         Nhiều lúc thấy Hàm Nghi bị bệnh nặng, ông Thuyết động lòng, cũng muốn đưa nhà vua trở về kinh thành theo nguyện vọng. Nhưng khi nghe ông tâu, Hàm Nghi đáp rắn rỏi:

         - Những ngày vào sinh ra tử, lên thác xuống ghềnh, nằm gai nếm mật cùng khanh, ta đã hiểu việc làm của khanh, tấm lòng của khanh. Khanh vì ai mà phải mưu việc lớn? Chẳng phải vì ta, vì ngôi báu của tiên triều để lại đó sao? Lẽ nào, ta tìm vui sướng một mình?

          Nghe nhà vua nói thế, ông Thuyết càng thêm phấn chấn. Ông vui mừng khi biết nhà vua từ chỗ miễn cưỡng dấn thân vào công cuộc cứu nước thì nay đã tự ý thức được việc làm chính nghĩa. Do đó, ông quyết định lấy bút phê của Hàm Nghi để xuống chiếu Cần vương lần thứ hai, tố cáo âm mưu cướp nước của  thực dân Pháp và kêu gọi:

     “… Hiện nay Trẫm cùng Tôn Thất Thuyết đã tới Ấu Sơn thuộc Hương Khê. Các quan lại trong ngoài đều tề tựu ở miền này cả. Văn thân, dân chúng và binh sĩ cũng lần lượt ra dự việc Cần vương. Thế nước đang lúc gặp loạn ly, ta khoanh tay mà nhìn sao được?

           Vì vậy, Trẫm ra lệnh cho ai nấy đều phải quyết tâm và khi có lệnh thì tất cả sẵn sàng nổi dậy, giết chết tất cả những kẻ hùa theo lũ rợ Tây phương, không để cho tên nào trốn thoát. Trẫm cấm chỉ không ai được tư thông với giặc, khiến cho chúng không thể làm gì được, không thể thâu lượm được tin tức gì, không thể mua được lương thực. Rồi phải tìm cách giết chúng thật bất ngờ. Nếu chúng bắt ép phải làm việc cho chúng thì bất luận hay dở cũng làm, nhưng phải luôn luôn nghĩ cách mưu tiêu diệt chúng.

       Làm như vậy thì chúng không thể nào cai trị được, cũng không thể thu được mối lợi gì về cuộc chiếm đóng của chúng. Đó là cách tốt nhất để đánh kẻ cướp.

… Bây giờ, Trẫm ra lệnh tối mật này cho nhân dân các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Ninh Bình và trên nữa về phía bắc: văn thân, kỳ hào các xã phải thông đồng với nhau để nổi dậy cùng một lúc và để đi cầu xin một đồng minh hùng mạnh giúp đỡ. Các phủ huyện phải hiệp lực với các tổng lý để đi tìm đồng minh đó; thế rồi ta sẽ chống lại quân Pháp. Thoạt tiên, hãy đánh đuổi chúng ra khỏi các tỉnh miền Bắc, bắt đầu từ Hà Tĩnh, sau ta sẽ chọn một địa điểm để đóng đô. Kết quả này, sớm muộn phải đạt bằng được”.

       Trong khi công việc ngổn ngang trăm mối tơ vò, ông vui mừng nhận được tin, con gái lớn của ông là Tôn Nữ Thị Ẩn đã lên xe hoa về nhà chồng. Lúc cả gia đình đi kháng chiến, cô Ẩn chạy theo không kịp, ở lại kinh đô. Dù trước đây, Mai Sơn Nguyễn Thượng Hiền đã ngỏ lời xin cưới cô làm vợ, nhưng thời thế đang đổi thay dữ dội, cô nghĩ người tình cũ không còn nghĩ đến mình nữa. Một người vừa thi Hội đậu Đình nguyên, nhưng chưa kịp truyền lô thì kinh thành thất thủ, lẽ nào chàng lại cưới mình để ảnh hưởng đến đường danh vọng sau này? Cô dứt khoát lánh mặt nhưng Nguyễn Thượng Hiền vẫn đi tìm, vì hơn ai hết, chàng hiểu tính cách cha vợ tương lai của mình. Đó là người biết sống, và đã sống một cách xứng đáng. Chính khí phách của cha vợ đã ảnh hưởng ít nhiều đến chàng rể, vì sau này dù thi đậu Tiến sĩ nhưng vẫn không ra làm quan mà về sống ẩn dật tại Núi Nưa (Thanh Hóa). Người con gái đầu của Nguyễn Thượng Hiền với bà Ẩn được đặt tên Nguyễn Thị Nưa nhằm kỷ niệm năm tháng sống nơi đây.

     Rồi địa điểm Hương Khê cũng bị lộ, nghĩa quân lại đưa nhà vua về ẩn náu ở Tuyên Hóa - miền thượng du Quảng Bình. Nhận thấy ở đây tạm ổn, còn sức mình khó có thể chống cự được lực lượng hùng hậu của giặc nên Tôn Thất Thuyết tính chuyện sang Tàu cầu cứu. Không phải bây giờ ông mới tính đến chuyện này. Mà ngay khi có mặt tại Tân Sở, ông mật lệnh cho hoàng giáp Nguyễn Quang Bích - người được vua Hàm Nghi phong Thượng thư bộ Lễ sung Hiệp thống Bắc kỳ quân vụ - nhân vật trọng yếu của phong trào kháng chiến ở phía Bắc – sang Vân Nam cầu viện. Chuyến đi sứ này không đem lại kết quả nào đáng kể, vì vua Hàm Nghi không phải người được nhà Thanh phong vương và quốc thư cũng không đóng dấu quốc ấn mà chỉ “áp ký bằng tay”! Do đó, lần này ông Thuyết nghĩ rằng, với cương vị của mình và do có mối quen biết trước đây thì công việc cầu viện của ông sẽ thuận lợi hơn. Cho dù xa nhà vua lúc này, trong lòng không yên, nhưng không thể tính khác được, ông có viết thư trao đổi với một số thủ lĩnh kháng chiến, nhất là chờ ý kiến của ông Bích, người vừa đi sứ về. Dưới ánh sáng lờ mờ của bóng trăng, ông đọc lá thư vừa gửi tới. Trong thư, ông Bích có họa lại bài thơ của ông:

Xông pha muôn dặm chướng lam đầy,

Cố sức tranh trời vận đổi thay.

Nam độ Tống gia, dân giúp sức,

Đông hòa Thục chúa, chữ trong tay.

Bốn phương đi sứ khôn lo liệu,

Một việc không xong uổng tháng ngày.

Đổ gạo vẽ hình hang với núi,

Ngọn đèn soi tỏ tấm lòng này(*)* Kiều Hữu Hỷ, Lã Xuân ai dịch.******

        Bài thơ này đã khiến ông Thuyết rất phấn chấn, ông cho gọi con trai trưởng là Tôn Thất Đạm lại, bảo:

       - Con đọc bài thơ của bác Bích và cho ta biết ý kiến của con.

         Đàm mới mười tám xuân xanh, nhưng cao lớn, đôi mắt sáng tinh anh. Dù gương mặt phong trần mưa nắng mà môi Đàm vẫn đỏ như son. Đàm đã từng theo cha đôn đốc việc quân từ lúc Pháp mới đánh vào cửa Thuận An, và tỏ ra là người quả cảm, gan dạ. Nhận bài thơ từ tay cha, đọc xong, Đàm reo lên:

         - Thưa cha, có hai câu thơ con rất thích. Ở câu thứ ba, bác Bích đã nhìn thấy thực lực của kháng chiến. Theo ý của bác thì nước Nam ta hiện nay cũng giống như nhà Tống khi bị nước Kim đánh, phải bỏ chạy sang phương Nam, nhờ được nhân dân ủng hộ mà lớn mạnh lên. Còn câu thứ tư thật thú vị, giữa cha với bác Đính cũng giống như Lưu Bị với Chu Du dù không hẹn ước trước mà cùng viết chữ “hỏa” trong lòng bàn tay!

        Ông Thuyết khen con:

        - Ta không ngờ con cũng thông hiểu kinh sử đến vậy. Chữ “hỏa” ơ đây có nghĩa dùng kế “hỏa công” thì mới thắng được giặc dữ. Thế con có hiểu câu thơ thứ bảy không?

        Không đợi con trả lời, ông Thuyết nói tiếp:

         - Riêng cha, cha rất thích câu thơ này. Bởi ông Nguyễn Quang Bích cho rằng, không có gì phải sợ cả. Tình thế của ta cũng giống như Mã Viện trước đây kéo quân đánh Ngỗi Phao làm phản. Viện đã đổ gạo ra vẽ hình hang núi và thế trận cho Quang Vũ xem. Xem xong, Vũ khen tướng của mình nắm được địa thế của đối phương như trong lòng bàn tay! Chúng ta cũng vậy thôi, nếu biết được đường đi nước bước của giặc thì đánh sẽ thắng!

        Nói xong, ông ngửa mặt lên trời cười “khà” sảng khoái. Rồi ông bảo:

        - Lâu nay, cha biết con có lòng quả cảm, một lòng phò vua giúp nước nên cha rất yên tâm. Nay mai, cha sẽ sang Trung Quốc cầu viện, mọi việc sẽ giao lại cho con.

        Đàm ngạc nhiên:

        - Làm sao con có thể đảm đương được việc lớn?

           Ông Thuyết quả quyết:

       - Thế nào là việc lớn, thế nào là việc nhỏ? Đừng sợ không thể gánh vác nổi việc lớn. Mọi việc xoay vần trong vũ trụ, tự nó chỉ có thế, chứ nào phân chia lớn nhỏ gì đâu! Hơn nữa bên cạnh con còn có Đề đốc Lê Trực, Tán tương quân vụ Nguyễn Phạm Tuân cùng nhiều đình thần khác nữa kia mà..

        Đàm cúi đầu vâng theo lời của cha:

         -  Nhưng chuyến này có những ai cùng đi với cha?

         - Con yên tâm. Cha đi cùng với các ông Nguyễn Quang Bích, Chu Lăng Thục và Nguyễn Khê Ông…

        Đàm rụt rè:

          - Theo ý của riêng con nên cho em Thiệp đi theo phụ giúp cha.

          Ông Thuyết cười:

         - Thiệp còn nhỏ chưa thể đủ sức đi đường xa vạn dặm. Hơn nữa thiệp có nhiệm vụ phải bảo vệ đức vua, không được rời nửa bước.

        Sau đó, ông Thuyết cho họp bọ chỉ huy. Ông trông báo ý định của mình và thăng Tôn Thất Đàm giữ chức Khâm sai Chưởng lý Khâm vụ đại thần. Từ đây, Đàm sẽ là người thay cha trực tiếp ban phát mệnh lệnh của nhà vua cho các thủ lĩnh kháng chiến trong cả nước, đồng thời phụ trách việc điều động quân đội trong các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình. Còn Đề đốc Trần Xuân Soạn thì điều động các cánh quân từ Nghệ An trở ra Bắc.

         Đầu tháng 2.1886, Tôn Thất Thuyết lên đường sang Trung Quốc.


Chương mười hai

         Gió. Đường rừng khấp khểnh. Vó ngựa gập ghềnh. Vượt qua ngàn Hà Tĩnh, Tôn Thất Thuyết tưởng chừng còn nghe lời nói của Phan Đình Phùng vọng bên tai: “Nay tôi chỉ một ngôi mộ lớn cần phải gìn giữ, đó là giang sơn Việt Nam; tôi chỉ có một ông anh rất to, đó là mấy mươi triệu đồng bào đang đắm chìm trong nô lệ. Nếu tôi về sửa sang phần mộ của riêng gia tộc tôi thì phần mộ lớn của cả nước ai giữ? Nếu tôi về để cứu anh ruột tôi thì mấy mươi triệu anh em trong nước ai cứu? Vậy ai có giết anh tôi, xin nhớ gửi cho tôi bát nước xáo!”. Ý chỉ của ông Phùng cũng là suy nghĩ của mình đấy thôi. Bà Từ Dụ khuyên ta đưa đức Hàm Nghi về Huế thì sẽ hưởng bổng lộc tót vời. Nhưng than ôi! Nước đã mất thì làm gì còn nhà nữa? Nhà ta là giang san này, ta còn về đâu? Ta đã tuyên bố: “Về Huế khác gì tự đưa chân vào ngục, mà người giữ chìa khóa là thằng Pháp. Thừa nhận hiệp ước 1884 là dâng nước Nam cho chúng. Đành rằng hòa bình là quý, nhưng không lo khôi phục là mang tiếng bỏ giang san của tiên triều dày công gầy dựng và còn có tội với hậu thế!”. Thế thì, đừng ai nói những lời càn quấy mà rác tai ta! Gió thổi ù ù vào vách núi. Trời sập tối. Oâng Thuyết cùng hai mươi thuộc hạ tiếp tục rong ruổi trên dặm đường xa…

          Dọc đường đi, ông Thuyết còn dừng chân tại nhiều căn cứ kháng chiến khác để động viên đầu tiên chiến đấu của văn thân, vì thế đến đầu tháng 3.1886, ông mới đến Thanh Hóa. Dòng sông Mã cuồn cuộn tung nước trắng trời. Dãy núi Hồng Lĩnh oai nghiêm đứng ngàn năm vững chãi. Ông Thuyết dừng chân tại căn cứ của các thủ lĩnh kháng chiến Tống Duy Tân, Cao Điền, Nguyễn Chí Sự…

          Ngọn lửa cháy sáng bập bùng. Bóng trăng sáng lờ mờ. Những người đau đáu một tấm lòng báo quốc đang ngồi yên lặng. Trên vòm trời một ngôi sao xẹt qua. Đêm tối. Ông Thuyết đang dán mắt vào lá thư của ông Tân vừa viết xong. Lá thư này trả lời cho công sứ Thanh Hóa đã chiêu dụ mọi người nên bãi binh. Đọc đến đoạn: “Chúng tôi đây, nước mất nhà tan, không còn hệ lụy gì, thực là thế cưỡi hổ, tiến thoái lưỡng nan. Chúng tôi cùng vài thủ hạ dựa vào rừng sâu mà giữ, các ông đến thì đi, các ông đi thì lại về…”, ông Thuyết vỗ đùi hét lớn:

            - Ông nói đúng suy nghĩ của tôi. Đánh giặc không phải một sớm một chiều mà xong. Lúc chúng thắng thế ta rút lui, nhưng lúc ta mạnh lên, đánh mạnh thì dứt khoát chúng phải cút!

          Ông Tân nhìn vào đống lửa giọng ngậm ngùi:

        - Tôi vẫn luôn tâm niệm như thế, nhưng binh lực này còn yếu phải chờ thời cơ!

         Ông Thuyết đáp:

         - Một bó đũa mà tách ra chia năm, xẻ bảy thì bẻ gãy dễ dàng. Các ông không thể chỉ dựa đơn độc vào ngọn Hồng Lĩnh mà phải liên kết với các lực lượng những vùng lân cận nữa. Tôi nghĩ, hiện nay, chiến khu Ba Đình của các ông Đinh Công Tráng, Phạm Bành, Hà Văn Mao, Lê Toại… đang xây dựng. Vậy sao các ông không phối hợp để chọc trời khuấy nước một phen!

        Ông Tân cho là phải.

         Từ sự gợi ý này, nửa tháng sau nghĩa quân của Tống Duy Tân kéo về Ba Đình cùng với Đinh Công Tráng tấn công thành Thanh Hóa và huyện Nga Sơn. Tham gia chỉ huy trận đánh này, còn có ông Tôn Thất Hàn – em trai của ông Thuyết. Các thủ lĩnh kháng chiến đã vạch kế hoạch cho nghĩa quân giả làm người đi gánh thuê, giấu dao trong đòn ống tre. Họ trà trộn vào dân để đột nhập thành, làm nội ứng cho đồng đội bất ngờ bên ngoài thọc vào. Thừa thắng họ tiến đánh luôn tòa Công sứ cướp ấn triện, khí giới, phá nhà ngục thả tù nhân rồi rút lui an toàn. Chiến thắng này ai nấy đều hả hê.

          Mặt trời sáng dần. Trước lúc lên đường, ông Tân rót một bát rượu đầy:

        - Mời chủ tướng rượu này. Hẹn ngày ông về men rượu vẫn còn nóng trong máu huyết!

         Hiểu ý, ông Thuyết ngửa cổ uống cạn:

         - Ông đừng nói khích tôi. Dẫu da phơi dặm cỏ thì ngàn năm sau máu vẫn còn đỏ tươi như son!

             Nói xong, ông Thuyết thúc ngựa chạy như bay.

        Đường lên châu Thường Xuân cao thăm thẳm, nhiều lúc tưởng ngựa quỵ chân bon. Gió thét rách mặt. Nắng xói đỉnh đầu. Ông tìm đường lên vùng phía tây Thanh Hóa để gặp thủ lĩnh người dân tộc Thái là Cầm Bá Thước - bang biện hai châu Thường Xuân, Lang Chánh đang hoạt động dưới quyền chỉ huy của Tống Duy Tân - rất dũng cảm. Khi phong trào Cần vương vừa được khởi xướng, ông Thước chiêu mộ anh hào, lập căn cứ núi Sầm nằm trên vùng biên giới Việt Lào. Đội quân của ông được trở thành một trong những quân thứ của Phan Đình Phùng. Do có tài ngoại giao nên ông Thước đã vận động được người Lào cùng tham gia kháng chiến, cụ thể là thủ lĩnh Tạo Cống ở vùng Sầm Tớ.

        Đó là điều ông Thuyết rất quan tâm.

         Nhìn vạt nắng chiều thoi thóp trên mái nhà tranh đang nằm giữa cánh rừng già thâm u, ông Thuyết cứ ngỡ đang nhìn một bức tranh tuyệt đẹp trên cõi biên thùy. Những nghĩa quân cúi rạp người để chào đón và đưa ông vào gặp thủ lĩnh của họ. Nâng bát nước chè tươi hâm hấp nóng, vị chát xông lên phưng phức trong mũi, ông Thuyết uống cạn. Bọt chè tươi bám trên hàm râu xồm xoàm. Mồ hôi túa ra đầm đìa. Sảng khoái. Cuộc hội ngộ của hai người anh hùng đã diễn ra thân mật. Theo ông Thuyết, trong khi thằng Pháp đang tập trung tiêu diệt ta, ta phải tìm cách phân tán lực lượng của chúng. Ông Thước trầm ngâm:

         - Nhưng bằng cách nào?

          Ông Thuyết đáp:

       - Căn cứ của ông hết sức thuận lợi. Đây là mảnh đất tốt đóng vai trò đoàn kết giữa đồng bào miền ngược và miền xuôi trong vùng Thanh - Nghệ. Nếu gặp lúc trời phụ ta, giặc Pháp hùng hùng hổ hổ tiến đánh, không cầm cự được thì các ông cũng có thể chạy sang Lào.

        - Ngay cả trong thời gian này, tôi còn xây dựng cả kho tàng chôn giấu lương thực, vũ khí ở vùng Sầm Tớ.

        Ông Thuyết khêu dây bấc trong đĩa dầu, ánh sáng lan rộng thêm:

       - Chỉ có phượng hoàng mới nhìn xa bốn cõi. Ông cũng phượng hoàng nên mới nhìn xa trông rộng được như thế. Đang hoạt động trên đất Lào, sao ông không bày mưu tính kế cho người Lào đánh phá vùng biên giới Xiêm La.

        Ông Thước ngạc nhiên:

       - Đánh Xiêm La?

       - Đúng! Vùng đất Nam kỳ có hàng ngàn cây số tiếp giáp với Xiêm La. Trước những rối ren này, dứt khoát bọn Pháp phải phân tán lực lượng đi bình định vùng biên giới phía Nam. Cho dù chưa phải đạt đến diệu kế “tọa quan long hổ đấu”, nhưng thằng Pháp phải đối phó nhiều nơi thì binh lực cũng phải yếu đi.

     Ông Thước rất tâm đắc với ý kiến này. Và sau đó, ông đã thực hiện chỉ đạo một cách có hiệu quả, khiến giặc Pháp phải hao tổn binh mã rất nhiều.

        Đêm tàn dần…

          Trong những ngày này, ông Thước đã đưa ông Thuyết đi nhiều nơi trong vùng biên giới để cùng nhau bày binh bố trận. Mãi đến ngày 22.4.1886, họ mới chia tay nhau.

        Rạng sáng, ông Thước dẫn ngựa ra sân, hỏi:

        - Thế chuyến này của chủ tướng có hy vọng gì không?

          Ngồi trên lưng ngựa, ông Thuyết ứng khẩu bài thơ:

Mục Mã thu cao vạn dặm đồng,

Thuyền con chở nhẹ khó xuôi dòng.

Non xanh nước biếc nơi hò hẹn,

Bể rộng sông dài nổi ước mong.

Trăm họ vì vua còn cố gắng,

Một mình báo nước vẫn long đong.

Phen này ví được lòng trời giúp,

Trở gót về Nam lối hẳn thông. (*)**** Trần Lê Hữu dịch******

     Nghe bài thơ, ông Thước rất cảm động và cầu mong sau chuyến đi này sẽ mở ra cục diện mới trên chiến trường. Sau khi chia tay, ông Thuyết đi ngược dòng sông Mã tìm gặp tù trưởng người đường là Hà Văn Mao ở Điền Lư (châu Quan Hóa), để tiếp tục vận động tham gia vào công cuộc đánh Pháp, ủng hộ vua Hàm Nghi. Trong ngày gặp đầu tiên, ông Mao nói:

       - Khách đến chơi lấy trầu mà đãi. Trầu tuy rằng lắm đất, lắm cát, lấy nước rửa phơi tám ngày chẳng ráo. Ông ăn không được, đừng ném vô lửa, ăn không được đừng ném trôi theo nước, đừng lấy chân xéo dưới đất lấm đi!

        Ông Thuyết cười lớn:

         -Đừng nói thế. Ăn trầu của người quân tử mời chẳng khác nào nuốt xuống bụng nén bạc, cục vàng!

           Xong, ông cầm lấy trầu ăn ngon lành. Ông Mao cảm kích lắm, nhận ông Thuyết cùng làm anh em kết nghĩa. Qua cuộc gặp gỡ này, ông Mao tích cực đứng ra hô hào trai tráng trong bản làng xướng nghĩa dưới quyền chỉ huy của Đinh Công Tráng.

       Nghỉ tại đây nhiều ngày, ông Thuyết lên đường ra Bắc. Không bằng đường bộ, ông ngược thuyền lên sông Đà, đến vùng Lai Châu tìm gặp tù trưởng Điêu Văn Trì, người Thái. Nghe tin ông đến nơi này, từ Hưng Hóa các ông Nguyễn Quang Bích, Chu Lăng Thục, Nguyễn Khê Ông… đã tìm đến. Sau khi bàn bạc kế hoạch phối hợp tác chiến giữa hai miền Trung Bắc, họ dự định lên đường ngay. Nhưng chẳng may, ông Thuyết lâm bệnh nặng. Những ngày liên tục trèo non vượt suối, nhiễm lam hướng nên ông phải nằm liệt một chỗ.

        Lúc này giặc Pháp hay tin về chuyến đi này, chúng biết ông Thuyết đã thu được những kết quả rất đáng kể nên bủa lưới khắp nơi. Không phải ngẫu nhiên mà trên bản đồ tác chiến của Pháp trong năm 1886, vệt mực đỏ lưu ý “vùng phiến loạn” hầu như tô đậm sít sìn sịt từ các tỉnh phía Bắc kinh thành Huế đổ ra Bắc.

         Còn Đồng Khánh cũng như ngồi trên đống lửa. Nếu cứ đực mặt ra ngồi yên một chỗ, quan thầy Pháp sẽ đánh giá mình vô dụng nên ngày 17.6.1886, y tổ chức chuyến đi kinh lý đầu tiên, kể từ ngày lên ngôi. Đó là chuyến đi của một kép hề, vì sau khi xuống dụ cấm không ai dùng chữ “Cai” vì trùng tên “Hồng Cai” của cha mình, bắt phải đổi ra “chánh” – như “cai tổng” đổi thành “chánh tổng” chẳng hạn, thì ngoài việc thông báo về việc “kỵ húy” này, y không nói thêm được một điều gì khác!

       Bất chấp chuyến kinh lý có tiền hô hậu ủng, nhưng nghĩa quân của các ông Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Cầm Bá Thước… vẫn tiến hành đốt phá nha Hậu Lộc, giết tri huyện; tấn công phủ thành Hà Trung, giết thương tá tỉnh vụ và bắt sống phó lãnh binh! Khắp nơi nổi dậy như rươi, Đồng Khánh hoảng sợ phải bỏ cuộc nửa chừng. Trở về Huế, y lập tức xuống dụ gửi cho ông Thuyết, Trần Xuân Soạn và các thủ lĩnh kháng chiến: “Tội của các ngươi nhất định là rất nặng, nhưng lòng quảng đại của Trẫm rất lớn nên Trẫm có thể cho các ngươi trở về và tha tội chết cùng những kẻ mà các ngươi lôi kéo vào con đường sai lầm. Trẫm sẽ cho lưu đày các ngươi tại nguyên quán và nếu sau này các ngươi biết ăn năn hối cải, Trẫm sẽ xét lại và phục hồi danh vị. Còn nếu cứ ngoan cố, Trẫm sẽ trừng phạt các ngươi về tội làm ác, làm cực khổ trăm họ. Đầu các ngươi và dư đảng sẽ bị treo thưởng…”. Dụ đã ban ra, nhưng không có kết quả. Nguyễn Hữu Độ thấy con rể của mình quá nhọc lòng, âu lo nhưng vô hiệu, bèn đưa ra kế là tự tay nhà vua phải viết một dụ lên án riêng Tôn Thất Thuyết và bắt niêm yết khắp các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị; quan lại hàng tỉnh phải sao lục lại để gửi đến tận làng xã.

          Cùng lúc, cái mũi của giặc Pháp cũng sục sạo đánh hơi khắp nơi để tìm chỗ trú ẩn của ông Thuyết. Qua thông tin của bọn Việt gian, chúng biết ông Thuyết đang ẩn náu tại nhà tù trưởng họ Điêu.

         Một cuộc hành quân rầm rộ đã diễn ra trong tháng 10.1886. Chúng tiến đánh lên Lai Châu. Nhưng nghĩa quân đã dũng cảm ngăn chặn cuộc càn quét này. Suốt hai tháng ròng, không chống cự nổi các cánh quân do Nguyễn Quang Bích, Điêu Văn Trì trực tiếp chỉ huy, giặc tạm thời lui quân. Thêm một tin vui cho các lực lượng kháng chiến là ngày 18.12.1886, nghĩa quân Ba Đình đã đánh bại cuộc tấn công quy mô đầu tiên của Pháp vào căn cứ. Trung tá Metzinger chỉ huy hướng Tây nam, trung tá Dodds chỉ huy hướng Đông bắc đã bị đánh quỵ ngay từ phút đầu giao chiến. Trước chiến thắng này, ông Thuyết cảm thấy như được tăng thêm sức lực. Đang nằm ốm mấy tháng trời, thế mà vừa nghe tin, ông nhảy vọt xuống đất reo lên như trẻ thơ:

        - Đánh! Đánh! Đánh!

          Khiến ai nấy đều thương cảm. Ngay sau đó, dù sức khỏe chưa bình phục nhưng ông Thuyết vẫn quyết định lên đường. Tù trưởng họ Điêu đích thân chỉ huy hai chục thủ hạ bí mật đưa đoàn theo ngả Bình Lư lên Mạn Hảo và đưa đến tỉnh Vân Nam của Trung Quốc. Trước lúc đặt chân qua biên giới, dong ngựa nhìn lau trắng xóa một vùng, nhìn lui về nước Nam đang chìm đắm trong vòng nô lệ, bất giác các ông đều rơi lệ. Ông Thuyết cảm khái ngâm bài thơ:

Lòng trung không nỡ bỏ Tây châu,

Giữ đất Thao, Đà thắng bấy lâu.

Đem đám quân cô ngăn cửa ải,

Cầm ba thước kiếm chém dòng sâu.

Lẻ loi đất bắc chơi hồng nhạn,

Phảng phất nồm nam giúp ngựa trâu.

Báo nước lòng son sông núi rõ,

Gặp nhau sương nhuộm bạc phơ đầu”. (*)**** Chu Thiên dịch*****

          Mọi người đều biết khi ngâm bài thơ này, ông Thuyết có ngụ ý tặng riêng cho Nguyễn Quang Bích. Vì Tây châu là vùng đất thuộc mạn Tuyên Quang, khu Tây Bắc; Thao Đà là vùng giữa sông Đà và sông Thao vốn là địa bàn hoạt động lừng lẫy của ông Bích. Vì thế, khi lời thơ vừa dứt thì ông Bích họa lại:

Non sông trời định cõi Nam bang,

Võ liệt ghi truyền vẫn vẻ vang.

Nước bạn đã trao lời đính ước,

Hỏa tinh vừa độ bóng quay ngang.

Ngựa dong Thành  bộc gieo thêm củi,

Trâu gỗ Kỳ sơn vận tải lương.

Trù tính quân cơ nơi bút dịch,

Cánh bằng nằm đợi gió thu sang. (*)**** Kiều Hữu Hỷ, Lã Xuân Mai dịch.****

          Câu thơ hào sảng vang vọng giữa trời biên giới. Trên vòm trời có một cánh chim vừa bay qua. Nắng chiều đỏ như máu phía chân mây.


Chương mười ba

        Đầu tháng 1.1887, đoàn của các ông Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Khê Ông, Chu Lăng Thục, Nguyễn Quang Bích đến tỉnh Vân Nam. Những ngày này, nhai hạt cơm ngọt bùi trong miệng, ai nấy đều thấy đắng nghét, không thể nuốt trôi xuống cổ họng. Lời hứa của phó Tổng đốc Sầm Công Bảo như cá trê chui ống. Bảo khoác lác một tấc đến trời, nhưng trăm voi không được bát nước xáo. Nằm mãi một chỗ cũng chồn chân, trong lúc việc bên nhà còn đang bề bộn như thế, lòng họ như lửa đốt, cuối cùng họ đề nghị Bảo đưa đoàn sang Quảng Đông.

           Đến nơi, đoàn của ông Thuyết ngụ tại phố Cửa Nam trong thành Quảng Đông, ông có làm một lá sớ đệ lên chính phủ Bắc Kinh. Tại đây mọi tông tích về ông Thuyết và mục đích của chuyến đi bắt đầu lộ dần. Ngày 10.3.1887, gián điệp của Pháp phát hiện và báo về phủ toàn quyền Đông Dương thông qua Lãnh sự quán Pháp tại Quảng Đông. Ngay lập tức chính phủ Pháp căn cứ vào hòa ước Thiên Tân đã ký, buộc Mãn Thanh phải có thái độ. Điều này ít nhiều ông Thuyết đã lường trước, nhưng ông không ngờ lại rơi vào tình thế quá tồi tệ. Trước lúc lên đường, ông hoàn toàn không đặt trọn niềm tin vào sự cầu viện của nhà Mãn Thanh, bằng chứng là ông làm hết sức mình để tạo nên sự chuyển biến tích cực trong phong trào kháng chiến. Tự cứu mình trước khi trời cứu. Phải tự lực cánh sinh. Nhưng nếu có sự liên minh quân sự với Trung Quốc, công cuộc cứu nước sẽ thuận lợi hơn bội phần. Ông muốn tự mình đến tận nơi may ra mới được việc, nhờ người khác đi mà không bày tỏ hết hoàn cảnh thì lỡ hết việc lớn, hơn nữa mình trong hoàng tộc, lại là Phụ chính đại thần thì lời nói sẽ có hiệu lực hơn.

        Nhưng tầm nhìn của ông Thuyết không vượt qua khỏi sự chuyển biến trên bàn cờ chính trị Trung Hoa và Pháp đã diễn ra.

          Một khi Lý Hồng Chương và Patenôtre đặt bút ký hòa ước, qua đó Pháp rút khỏi quần đảo Bành Hồ và Đài Loan thì dứt khoát Trung Hoa phải chấm dứt việc xâm nhập người và vũ khí vào Bắc kỳ. Sự việc này rõ ràng như ban ngày, nó cho thấy triều đại Mãn Thanh đang suy yếu, Pháp đang thắng thế. Vậy thì, sự cầu viện này sẽ không đem lại kết quả nào cả. Ốc không mang nổi mình ốc nữa kia mà. Nhà Mãn Thanh đang bị xâu xé như một miếng mồi ngon thì còn đâu binh lực mà giúp cho nước Nam?

          Trước sự trở mặt của Mãn Thanh, các ông bàn với nhau phải tìm cách trốn về nước để tiếp tục kháng chiến. Sau khi bàn đi tính lại, mọi người cho rằng, nếu ông Thuyết ở lại tìm cách tiếp cận với chính quyền Bắc Kinh thì vẫn có thể lay chuyển được tình thế. Đơn giản Trung Hoa và nước Nam ta đã bao đời hòa hiếu với nhau, cùng một giống da vàng, cùng căm thù bọn quỷ da trắng! Về nước, đến Lai Châu, ông Bích cho nghĩa quân đóng căn cứ tại Văn Chấn (Nghĩa Lộ) tiếp tục giương cao ngọn cờ xướng nghĩa.

         Chiều buông xuống dần. Nhìn tuyết rơi ngoài song cửa, ông Thuyết không khỏi bùi ngùi. Nghe tin chính phủ Pháp vừa chính thức đặt phủ Tổng đốc toàn quyền để lập chế độ cai trị trên toàn nước Nam và Cao Miên thì ông biết cuộc chiến này sẽ một khốc liệt hơn. Mà thật vậy, tổng phản công của giặc Pháp đã nổ ra trên các hướng chiến trường. Những tin tức này khiến ông Thuyết bồn chồn không yên. Bóng chiều  sụp xuống, nghe tiếng động ngoài cửa ông Thuyết giật mình quay lại, không tin vào mắt mình nữa, đang đứng trước mặt ông là Trần Xuân Soạn. Chưa kịp hỏi, đã nghe ông Soạn kêu lên:

        - Trời đã phụ ta! Ông Nguyễn Cao đã tự sát rồi!

        Ông Thuyết chồm người dậy:

       - Ông qua đây lúc nào?

          Tri kỷ gặp nhau nơi đất khách quê người cảm động xiết bao. Ông Soạn cho biết, sau khi căn cứ Ba Đình và Mã Cao thất thủ, ông cùng Hà Văn Mao rút về Điền Lư dựa vào địa thế hiểm trở tiếp tục chiến đấu, nhưng không chống cự nổi những cuộc càn quét liên tục của giặc. Sau khi ông Mao bị giặc giết thì ông tìm cách trốn sang đây.

          Ông Thuyết lặng lẽ cúi đầu. Giây lát sau, ông hỏi:

         - Vừa rồi ông nhắc đến Nguyễn Cao, có phải là ông Cao người làng Cách Bi, con trai của cụ Nguyễn Hành đó không?

           Ông soạn gật đầu.

         Những ngày tháng cũ thoáng chốc hiện ra trong trí nhớ, ông Thuyết biết ngay khi vua Hàm Nghi ban chiếu Cần vương, ông Cao đã lặn lội đến chiến khu Bãi Sậy của chủ tướng Nguyễn Thiện Thuật để đứng vào hàng ngũ của những người trực tiếp chiến đấu. Ông quý ông Cao một, nhưng quý mẹ của người anh hùng này đến mười. Vì bà là người có khí phách ít ai bì kịp.

         Nghĩ đến chuyện người đàn bà đức hạnh này, ông Thuyết còn rùng mình, hỏi:

           - Thế ông Cao đã tự sát như thế nào?

           Ông Soạn đáp:

         -Ông cao bị giặt bắt tại  làng Kim Giang. Bọn chúng dùng đòn tra tấn dữ dội nhưng vẫn không khuất phục được ý chí của ông, chúng dụ dỗ ông nếu đồng ý hợp tác sẽ được quyền cao chức trọng, nhưng ông cũng kiên quyết từ chối. Trong khi đó, bọn Việt gian cam tâm ra làm trâu ngựa cho giặc hùa vào nói ông là kẻ bất trung, vì không nghe theo lệnh của bù nhìn Đồng Khánh đã ra lệnh phải bãi binh. Còn giặc thì đem dụng cụ tra tấn hiện đại nhất bày biện trước mắt để đe dọa Nguyễn Cao.

          Vừa nghe kể đến đó, ông Thuyết nói xen vào:

        -Mẹ anh hùng thì con cũng anh hùng! Một người con có bà mẹ anh hùng thì không thể chọn cái chết như một kẻ hèn nhát.

          Ông Soạn đáp:

        -Đúng vậy. Trước những đòn tra tấn như thế, nhưng nét mặt ông Cao vẫn điềm tĩnh, nhìn các dụng cụ tra tấn của giặc, ông bảo: “Không cần những thứ này! Tôi có cách tự xử, không phiền đến các người đâu!”. Xong, ông lấy trong áo một mảnh sành đã giấu sẵn, tự rạch bụng lôi ruột ra ném trước mặt chúng và dõng dạc hỏi: “Ruột của tôi đấy! Các ngươi xem đoạn nào là bất trung!”. Vẫn khí phách ấy, ông Cao đã nhiếc mắng bọn tay sai và tố cáo tội ác của giặc bằng lời lẽ đanh thép. Giây lát sau, từ trong miệng máu tuôn ra xối xả, ông đã cắn lưỡi để tự vẫn!

         Cái chết của Nguyễn Cao đã để lại một ấn tượng sâu sắc trong tâm trí ông Thuyết. Ông thức dậy viết bài thơ khóc người anh hùng:

Trước đây mười năm đã từng biết,

Trọn đời hẹn mình cho khí tiết.

Theo tôi đánh giặc, vùng Bắc Giang,

Nổi tiếng can đảm hơn đồng liệt.

Quyết lòng vì nước lập kỳ công,

Khá tiếc năm nay ông vội chết.

Như ông xem chết nhẹ như chơi,

Chí khí kịp theo các tiên triết.

Gần đây chết nghĩa biết bao người,

Tiếng ông Cách Bi trội hơn hết,

Hồn thiêng nên gắng giúp non sông,

Muôn thuở Đức Giang thơm sạch tuyệt. (*)****** Trần Huy liệu dịch.****

          Trong khi đặt bút viết bài thơ này, tâm trí của ông đã nhớ đến người con trai trưởng Tôn Thất Đàm. Điều mong ước của ông về một người con biết sống, biết chết xứng đáng như Nguyễn Cao đã thành hiện thực. Sau khi cha sang Trung Quốc, Đàm đã bố trí cho vua Hàm Nghi ẩn náu tại vùng sông Ve, sát với căn cứ Yên Lương – Cổ Liễm thuộc vùng thượng nguồn sông Gianh của Tán lý quân vụ Nguyễn Phạm Tuân. Còn tại trung lưu dòng sông này là căn cứ của Đề đốc Lê Trực. Sự bố trí hợp lý này đã tạo ra thế liên hoàn bảo vệ “triều đình Hàm Nghi” chu đáo nhất. Nhưng giặc Pháp không bó tay,chúng lập nhiều đồn bốt khống chế tầm hoạt động của nghĩa quân. trước nguy cơ giặc tách nhà vua ra khỏi dân, như xúc cá ra khỏi nước, bộ chỉ huy quyết định phải xoá sổ đồn Minh Cầm – nằm tại mé trên làng Thanh Thủy (Quảng Bình), chia cắt vùng thượng lưu và trung lưu sông Gianh. Theo kế hoạch, đêm 20.2.1887 nghĩa quân ngụy trang bằng cách mặc quần áo người Tàu sẽ nổ súng tấn công. Thông tin này lọt ra ngoài, cha cố Tortuyaux ở nhà thờ Hương Phương biết được liền mật báo cho tên chỉ huy đồn trước ba ngày. Đại úy Mouteaux liền phòng bị chu đáo. Đúng như kế hoạch, Đàm lệnh nghĩa quân nã pháo như mưa vào đồn, nhưng chúng vẫn án binh bất động. Với linh tính của một nhà cầm quân lỗi lạc, Đàm biết kế hoạch đã lộ, nếu cứ tiếp tục tiến đánh thì dứt khoát lúc rút lui sẽ bị phục binh. Do đó anh cho rút lui an toàn.

          Thua keo này bày keo khác.

         Nguyễn Phạm Tuân nghĩ ra kế cài gián điệp vào lực lượng của Pháp. Người nhận nhiệm vụ này là Nguyễn Trọng Duật. Nếu Pháp tin dùng, Duật sẽ xin làm chân lo hậu cần để qua đó bỏ thuốc độc vào thức ăn của chúng. Khi trá hàng, Duật được cấp vàng bạc đem đút lót cho bang tá Nguyễn Phiên. Phiên thấy vàng như mèo thấy mỡ, dẫn Duật đến gặp đại úy Mouteaux để đầu thú. Duật không khéo tạo sự tin tưởng bằng cách dẫn chúng đi đánh phá một vài căn cứ nhỏ của nghĩa quân, nhưng do có thông báo trước nên không thiệt hại gì đáng kể. Dần dần Duật được tin dùng và Mouteaux giao đi mua voi của người Mường để phục vụ tác chiến. Đàm hay tin liền tương kế tựu kế. Dự kiến nghĩa quân sẽ làm người giao voi, làm nội ứng hỗ trợ cho bên ngoài tấn công vào đồn. Công việc đang tiến hành suôn sẻ, tình cờ Pháp tập kích vào căn cứ của nghĩa quân, chúng đã tịch thu được những công văn trao đổi về kế hoạch trên mà Nguyễn Phạm Tuân gửi cho Đàm. Lập tức Duật bị tra tấn tàn nhẫn. Không chịu nổi đòn tù, Duật phản bội dẫn đường cho Pháp tấn công.

         Bộ chỉ huy phải đương đầu với những cuộc tấn công dữ dội.

          ****

           Tỉnh dậy, ông Thuyết thấy đầm đìa mồ hôi. Một cơn ác mộng đè nặng giấc ngủ. Ông bần thần, bỗng thấy ruột gan như đứt từng đoạn. Biết có điềm chẳng lành. Ngóng về phoung Nam. Trời đêm mù mịt. Không rõ những ngày này vua Hàm Nghi có an toàn không? Lo lắng nghĩ ngợi mãi, ông không biết đêm nay, đêm 30.10.1888, tại quê nhà đang xảy ra tin dữ…

         Lúc này, vầng trăng nép mình vào bóng mây, bóng tối trùm xuống căn nhà lá trên bờ khe Tá Bào - nằm ở thượng lưu sông Gianh thuộc huyện Tuyên Hóa, Quảng Bình - mọi người đang ngủ say. Bỗng nghe có tiếng chân sột soạt, hai người hầu nhà vua giật mình, vội vàng nhảy ra ngoài quan sát, liền bị ngọn giáo đâm qua bụng. Nghe tiếng la hét, Thiệp – con trai của ông Thuyết, bật người dậy, cầm gươm xông ra, chưa kịp nhận rõ mặt đối thủ thì đã hứng lấy một ngọn giáo từ xa lao tới, xuyên qua ngực! Lập tức, chúng xông vào trong nhà bắt Hàm Nghi, nhà vua thét lên:

        - Thằng Ngọc! Mày giết tao đi, còn hơn đem tao giao cho Tây!

        Đau đớn vì nhận ra kẻ phản bội chính là Trương Quang Ngọc, Hàm Nghi giận đến run người. Ngọc được Đàm chọn vào đội quân đi bảo vệ nhà vua, vì y giỏi về kỹ thuật bắn nỏ, rất lợi hại. Nhưng vì nghiện thuốc phiện, Ngọc về sau không chịu đựng được gian khổ lại ham tiền để hưởng lạc nên ngầm mưu phản. Khi Hàm Nghi vừa dứt lời, một tên Mường nhảy vào ôm ngang bụng, giật lấy gươm.

             Từ đây, Đồng Khánh xuống dụ cấm nhân dân cả nước không được dùng hai chữ “Hàm Nghi” khi cần chỉ được gọi “Quận công Lịch” nhằm đề phòng những người kháng chiến lấy danh nghĩa Hàm Nghi để mưu việc chống lại triều đình!

         Khi hay tin nhà vua sa vào tay giặc, Đàm rất đau khổ vì mình đã không làm tròn nhiệm vụ mà cha đã giao phó trước lúc bôn ba nơi xứ người. Đàm viết lá thư gửi cho thiếu tá Dabat - chỉ huy đồn Thuận Bài:

        “Những việc khốn nạn vừa xảy ra ở nước tôi bắt buộc tôi phải viết lá thư này cho ngài. Cha tôi, vì việc nước phải xuất dương hiện chưa về, tôi phải kế tục sự nghiệp lớn lao và vua tôi chẳng quản tôi tuổi trẻ tài hèn, đã phó thác cho tôi. Tôi không hiểu sao trời lại xui khiến vua phó thác cho tôi trách nhiệm quan trọng ấy, và tôi tiếc rằng không được ở cạnh vua để cứu giá và giết chết hết bọn phản thần, hoặc cùng chết với em tôi khi quân phản nghịch bắt vua nộp cho quân địch. Nếu bọn giáo dân không xen vào giữa người Pháp và người Nam thì  không bao giờ có chiến tranh. Về phía chúng tôi, thì tự nhiên không bao giờ khiêu chiến với người Pháp. Nếu chúng tôi có chống đối người Pháp chẳng qua vì phận sự phải che chở bờ cõi, và hết lòng trung thành theo vua, khi ngài rời bỏ kinh thành.

  Nay chúng tôi bị thua. Cái then chiến bại đã đến bước đường cùng. Vậy xin ngài cho tướng sĩ được về quê an trí làm ăn và không phải ra thờ triều đình mới”.

        Xong, Đàm viết tiếp lá thư thứ hai gửi cho Hàm Nghi:

          “Không được gần gũi hoàng thượng để hộ giá, khi có kẻ phản thần làm việc ám muội, thần mang tội rất nhiều. Song đấy là mệnh trời xui, nên nước ta gặp nước gian nguy và các công thần không được gặp vua để cứu giá. Các quan văn võ sẽ mang hận suốt đời, vậy xin hoàng tượng tha thứ cho và thề sẽ hết lòng trung cho đến thác”.

          Dabat nhận được thư của Khâm sai Chưởng lý quân vụ đối phương rất khâm phục và viết thư chiêu dụ, mời ra hợp tác, hứa sẽ trọng thưởng xứng đáng, nhưng Đàm từ chối. Ông triệu tập các tướng lĩnh dưới quyền chỉ huy trực tiếp, tuyên bố giải binh và khuyên mọi người trở về quê quán làm ăn, nhưng chớ nhận chức vụ gì của triều đình mới. Trước lúc chia tay, ông nói:

          - Nếu người Pháp có hỏi gì về ta, hãy bảo chúng vào rừng sâu núi thẳm mà tìm, chúng sẽ thấy nấm mồ của ta!

           Đàm băng rừng lội suối tìm đến chùa Vàng Liêu nằm heo hút tại vùng rừng núi Hà Tĩnh, tháo khăn đang đội trên đầu thắt cổ tự tử. Người anh hùng trẻ tuổi vừa tròn 22 tuổi.

           Nơi xứ người, nghe tin vua Hàm Nghi bị bắt, các con và những người cộng sự thân tín chọn lấy cái chết oanh liệt, ông Thuyết như điên dại. Lòng căm thù của ông lúc nào cũng sôi sục trong máu. Để tiếp tục giương cao ngọn cờ Cần vương sau khi Hàm Nghi bị bắt, ông lao tâm khổ tứ tìm một nhân vật để đứng ra điều hành công việc chung tiếp tục chống Pháp. Người mà ông đặt hết hy vọng đó là Phan Đình Phùng. Ông viết lá thư giao cho thủ hạ Trần Thế vượt núi trèo non, tìm đến căn cứ Vụ Quang để giao cho ông Phùng. Trong thư có đoạn viết: “Hiện nay trong nước như không có triều đình, vậy nơi tướng quân khởi nghĩa có thể coi như trung khu của nhà nước, tướng quân cứ tùy nghi làm việc, chọn người mà dùng, cốt giữ lấy đức liêm chính công bình mà mưu việc lớn”. Như thế, ông Thuyết vẫn còn giữ vai trò Phụ chánh đại thần duy nhất của triều đình kháng chiến để điều hành việc quân trong nước.

           Không thể thụ động ngồi yên, ông Thuyết cùng Trần Xuân Soạn đi tìm tướng Cờ đen Lưu Vĩnh Phúc để nhờ giúp đỡ xây dựng những đội vũ trang. Những đội quân này liên tục đánh xuống vùng Cao Bằng, nhưng đều bị giặc đẩy lui. Nhìn thấy nguy cơ lực lượng quân sự đang chi viện từ biên giới phía bắc, nếu không dẹp ngay thì sẽ nguy to, Toàn quyền Đông Dương chỉ thị Đại sứ Pháp ở Bắc Kinh yêu cầu nhà cầm quyền Trung Hoa phải đưa ông Thuyết đi an trí và cô lập Lưu Vĩnh Phúc.

          Ông Thuyết bị đưa đi Long Châu. Đó là năm 1896.

         Trên đường đi hun hút dưới mưa tuyết ngập trời, ông ngâm câu thơ:

Lời gửi non sông bao đồng chí,

Già này dẫu mệt dám đâu ngơ.

          Nhớ nước không nguôi và giận mình tính sai nước cờ, ông Thuyết đâm ra quẫn trí, lúc tỉnh lúc mê. Những người thuộc hạ đi theo ông thấy vậy, thường đưa ông đi viếng danh lam thắng cảnh cho khuây khỏa. Khuya nay, trăng vằng vặc đỉnh trời. Thuyền bềnh bồng ra đến giữa sông, nhìn thấy phía xa xa có một ngôi  miếu cổ, ông hỏi:

          - Miếu ấy thờ ai mà nghi ngút khói nhang thế?

          Một người đáp:

        - Bẩm, đó là nơi thờ một võ sinh có hiếu với mẹ. Lúc mẹ đang ốm phải ở nhà chăm sóc mẹ, nhưng khi nước có giặc thì vẫn hăng hái xông pha nơi chiến tuyến và hy sinh anh dũng lúc đang giữ thành.

         Nghe nói thế, bất giác hai dòng lệ nóng chảy dài khỏi hố mắt sâu hoắm và ông bật lên tiếng khóc:

         -Nghe người giữ cô thành cho đến chết, tỏ rõ tinh thần khẳng khái của bề tôi trung với nước, con hiếu với nhà. Còn ta, ta đã làm được gì cho nước cho nhà?

         Nói xong, ông cho quay lui thuyền về. Không còn tâm trí mà thả hồn theo trăng, hoa mây, nước giữa thiên nhiên bát ngát…

         Thời gian này ông bắt đầu nghiên cứu kinh Phật. Thấy vậy, những thuộc hạ khuyên ông nên cạo râu tóc dù tu tại gia. Nhưng ông đáp:

        - Lòng thiền đâu tiếc gì tóc, nhưng mặt nam nhi cần phải để râu lại!

             Ai nấy đều không dám cười mà cảm động, vì biết ông vẫn chưa nguôi lạnh tấm lòng báo quốc. Khi nghe tin trong nước biết các cuộc khởi nghĩa của các đấng anh hùng đều bị dìm trong máu, ông Thuyết lại càng đau đớn. Chao ôi! Ông Phan Đình Phùng sau khi chết cũng không yên. Tên Việt gian Nguyễn Thân tàn nhẫn sai quật mồ, đốt thi hài của ông thành tro, rồi nhồi tro vào thuốc súng thần công mà bắn xuống dòng La Giang! Rồi mồ cha của ông Trần Xuân Soạn cũng bị giặc quật lên, xương cốt đem xếp giữa đường để thiêu hủy! Ông Thuyết ôm mặt khóc hu hu. Tội ác của giặc rành rành như thế, nhưng ta lại bất lực. Ta làm gì để cứu nước đang chìm đắm trong vòng nô lệ? Không trả lời được câu hỏi đang xoáy trong óc, ông Thuyết ngày càng quẫn trí, đau đời. Khi các thủ lĩnh kháng chiến sa cơ, chạy sang Trung Quốc cũng đều tìm đến ông. Biết uy tín của ông đối với phong trào kháng chiến trong nước còn lớn nên một lần nữa, giặc Pháp lại bắt buộc nhà cầm quyền Trung Quốc phải đày ông đi Thiều Châu.

           Sống trong cảnh cá chậu chim lồng, ông Thuyết trút hết căm hờn xuống những tảng đá. Mỗi ngày, ông cầm gươm chém đá cho hả giận, bởi thế những người dân địa phương đã gọi ông là Trảm thạch công. Cây gươm dài một trước chém đá mỗi ngày, nay cùn chỉ còn lại dăm phân!

         Nơi đất khách quê người, từ đây ông Thuyết không còn được gặp người thân thuộc nào nữa, chỉ duy nhất một người con rể Nguyễn Thượng Hiền có tìm đến thăm. Hai cha con mừng mừng tủi tủi, ôm nhau hàn huyên tâm sự suốt canh thâu. Ông Thuyết nói:

           - Ta đã lầm lẫn khi chọn Trung Quốc để cầu viện. chúng giúp ích gì cho ta đâu? Thế con cũng theo vết xe đổ của ta ư?

         Ông Hiền đáp:

         - Vận nước đang trong cơn hiểm nghèo, không thể không đi cầu viện. không phải Trung Quốc không giúp ta mà chỉ bọn triều đình hèn nhát, quay lưng lại nước Nam khốn khổ, chứ những bậc áo vải anh hùng hào kiệt cũng ngầm giúp ta. Nhưng con nghĩ không chỉ cầu viện Trung Quốc mà còn phải đi sang cả Nhật Bản nữa.

             Đây là một chủ trương mới của thế hệ trí thức trẻ đang thực hiện mà ông Thuyết chưa nghĩ đến. Trước cảnh nước mất nhà tan, ông Hiền cải trang làm phụ nữ và bí mật xuất dương.

         - Thế lúc con đi thì vợ con có hay biết không?

        Ông Hiền thưa:

          - Dạ không? Nhưng cha ôi! Khi con sang đây thì hay tin nhà con đã mất!

             Ông Thuyết đã khóc rống lên. Trong tâm trí ông mường tượng đến cô Ẩn, lúc cưới chồng không có ông bên cạnh, lúc về chín suối cũng không được ông vuốt mắt.

        - Xin cha đừng buồn phiền mà nhuốm bệnh. Muôn sự tại trời. Con có viết câu đối khóc vợ, nay xin đọc hầu cha.

           Nói xong, ông Hiền đọc cho nhạc phụ nghe. Giọng trầm buồn, khắc khoải trong canh vắng:

           Trông lên trời, trời đã bốn bề mây bủa, cúi nhìn đất, đất đã gai góc tràn lan, uống tuyết ăn sương, gian lao ngàn vạn dặm, bể thẳm còn chưa lấp, non nước trút nặng lời thề, lẽ để hồn quê vương vấn mộng;

        Trẻ theo cha, cha vì việc vua ra đi, lớn theo chồng, chồng vì việc nước xa lánh, nuốt cay ngậm đắng, sau trước mấy mươi năm, đầu bạc hẳn càng buồn, duyên nợ ai khen khéo tính, trước đem gương lược cắt dây sầu.

          Nghe xong, ông Thuyết lại đầm đìa nước mắt.

         Sáng sớm, bật người thức dậy thì ông không còn thấy con rể nữa. Nguyễn Thượng Hiền đã lên đường sang Nhật bản theo kế hoạch đã định trước, sang đó để cùng Phan Bội Châu thành lập Việt Nam quang phục hội. Ông Thuyết bùi ngùi thấy trên bàn có bài thơ của chàng rể viết tặng ông:

Thiều quan đường thẳng tới,

Thành xưa núi bọc quanh.

Vùng trời bay chiếc nhạn,

Sao hướng sáng năm canh.

Xa nước lòng như cắt,

Phò vua kế chửa thành.

Nguyên Long còn khí khái,

Gọi rượu cùng luận bình. (*)Chương Thâu dịch.*****

         Ông Thuyết ngồi trầm ngâm, ông biết qua câu thơ “Nguyên Long còn khí khái”, chàng con rể muốn so sánh ông với Trần Đăng, hiệu Nguyên Long người đời Đông Hán, tính trung thực, luôn đau đáu phò vua giúp nước. Khi bình luận về nhân vật này, Hữu Phiếm đã nói với Lưu Bị: “Đó là một người hồ hải, hào khí ngất trời”. Con rể hiểu được nhạc phụ như thế này cũng là điều rất quý, ông tự nhủ.

         Ngày tháng dần trôi.

        Trên bước hoạt động cách mạng ở xứ người, có lần nghe nhân sĩ quê ở Thiều Châu đọc câu đối:

Thù ngoài không đợi trời chung, muôn thuở tiếng thơm ghi Tượng Quận;

Giúp chúa riêng tìm đất khác, ngàn năm xương trắng gửi Thiều Châu.

         Nguyễn Thượng Hiền mới biết tin cha vợ đã qua đời. Ông sửng sốt, không tin một người lừng lẫy như thế lại chết đơn độc một mình nơi đất khách quê người, không có một thân nhân bên cạnh vào lúc trút hơi thở cuối cùng. Năm 1914, từ Nhật Bản về Trung Quốc xây dựng căn cứ chiến đấu của tổ chức Việt Nam quang phục hội, ông Nguyễn Thượng Hiền mới có điều kiện cùng ông Trần Xuân Soạn đứng ra làm lễ tế vong người anh hùng. Chàng rể đã viết bài văn điếu:

Kính thay hướng công!

Anh hào bậc nhất

Đứng hàng văn ban

Dòng dõi tôn thất

Cầm lệnh ra quân

Sấm vang chớp giật

Dẹp bắc đánh đông

Tan tành đảng giặc

Thời vua Dực Tông

Cờ Tây kéo tới

Lấn đất Bắc ta

Mưu lòng lang sói

Ông diệt tên trùm

Thế giặc tàn lụi

Tiếng nghĩa lẫy lừng

Bốn phương vang dội

Vận nước ngày suy

Cáo hang,chuột ổ

Dẫu nắm quyền đầu

Khôn ngăn xe đổ

Một trận tựa thành

Chí khí đã tỏ

Trời giúp giặc Tây

Xui ta nước vỡ

Ôm tiết nước người

Lo lòng phục Sở

Ba mươi năm trời

Một bầu máu đỏ

Ốm bởi hờn căm

Chết chưa dứt nợ

Suối vàng ngàn thu

Mối hờn khôn gỡ

Tôi phường tiểu tử

Tài mọn trí nông

Nhỏ làm con rể

Lớn theo đòi ông

Đội ơn thề báo

Dám quản ngại ngùng

Chiếc thân vượt biển

Đường qua Quảng Đông

Gặp ông ở Thiều

Tủi mừng khôn xiết

Chữa bệnh không tài

Lòng đau da diết

Việc nước nặng mang

Nghỉ ngơi dám biết

Tạm biệt ra đi

Ngờ đâu vĩnh biệt

Xót thay vận nước

Sông núi tan tành

Nguyện noi chí ông

Chống giữ trời xanh

Mong sao mai mốt

Giặc Tây quét thanh

Bêu đầu quân cướp

Cáo với tiên linh

Hương lòng muôn dặm

Một chén lòng thành

Anh hồn xa thấu

Chứng giám tâm tình

Than ôi!

Thượng hưởng! (*)**** Nguyễn Văn Bách dịch****

             Trước ngày tế lễ vọng này một năm, đêm 22.9.1913, Thiều Châu chìm trong một cơn mưa dầm dề. Tưởng như thác lũ xé toạc mây đen mà trút nước xuống cõi trần. Có một ông già bảy mươi tư tuổi đang ngồi trong nhà thấy sấm sét đùng đùng giữa trời, ông tưởng chừng như nghe tiếng súng, tiếng pháo oanh liệt của thời trai trẻ vọng đến. Chao ôi! Thời ấy máu còn nóng. Sức vật ngã voi. Ta xông pha nơi hòn tên mũi đạn nào có sá gì! Nay sao nghe tiếng sấm sét lại sợ? Ta hèn quá! Ta yếu quá! Không thể như thế được! Ông vùng dậy, cầm gươm chạy ra giữa trời và chém điên cuồng vào tảng đá sừng sững trước mặt. Lưỡi gươm chém vào đá như muốn trút hết nỗi căm hờn đang dồn ứ trong tâm khảm. Lúc thấy lòng vơi dần nỗi uất ức, ông thả gươm xuống và nằm dài trên bãi cỏ nhìn lên vòm trời xám xịt. Sấm sét đùng đùng. Mưa như thác lũ. Giây lát sau, ông lặng lẽ nhắm mắt vĩnh viễn từ bỏ trần gian.

          Ông già đó là chiến tướng Tôn Thất Thuyết.

LÊ MINH QUỐC

(Phú Nhuận, 1.8.2002)

Chia sẻ liên kết này...

Add comment


Việt Tuấn Trinh | www.viettuantrinh.com